Trong những năm qua, cùng với sự đổi mới của đất nước từ một nước với
nền kinh tế bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường, nền kinh Việt Nam đã có
những bước phát triển nhất định. Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang trong giai
đoạn hội nhập với nền kinh tế thế giới. Việt Nam đã là thành viên chính thức của
các tổ chức như ASEAN, APTA và Việt Nam đang xúc tiến để trở thành thành
viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO. Đổi mới nền kinh tế trong
nước và hội nhập với nền kinh tế thế giới một mặt nó mở ra các cơ hội kinh
doanh đầy triển vọng. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng phải đối đầu với rất
nhiều thách thức buộc các doanh nghiệp phải chuyển mình như nền kinh tế phải
nỗ lực hết mình trong cuộc cạnh tranh quyết liệt này. Do đó, việc quản lý, lãnh
đạo khoa học có hiệu quả đã trở thành một yêu cầu cấp thiết của các doanh
nghiệp để duy trì sự tồn tại và phát triển của mình.
Cùng với xu hướng phát triển chung của toàn nền kinh tế. Sự ra đời của công ty
May Thăng Long đã đóng góp vào công cuộc cải tạo kinh tế, cải tạo công
thương nghiệp tư bản tư doanh qua việc hình thành những tổ sản xuất của các
Hợp tác xã may mặc theo phương thức sản xuất mới xã hội chủ nghĩa, nâng cao
địa vị làm chủ của người công dân trong xí nghiệp. Ngoài ra công ty còn thu hút
đươc hàng nghìn lao động, bước đầu làm quen quan hệ sản xuất mới xã hội chủ
nghĩa, đề cao vai trò tập thể, mọi người gắn bó trách nhiệm với công ty.
33 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3977 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Quá trình hình thành, phát triển và cơ cấu tổ chức của Công ty cổ phần May Thăng long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN:
Quá trình hình thành, phát triển và
cơ cấu tổ chức của Công ty cổ phần
May Thăng long
Lời mở đầu
Trong những năm qua, cùng với sự đổi mới của đất nước từ một nước với
nền kinh tế bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường, nền kinh Việt Nam đã có
những bước phát triển nhất định. Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang trong giai
đoạn hội nhập với nền kinh tế thế giới. Việt Nam đã là thành viên chính thức của
các tổ chức như ASEAN, APTA… và Việt Nam đang xúc tiến để trở thành thành
viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO. Đổi mới nền kinh tế trong
nước và hội nhập với nền kinh tế thế giới một mặt nó mở ra các cơ hội kinh
doanh đầy triển vọng. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng phải đối đầu với rất
nhiều thách thức buộc các doanh nghiệp phải chuyển mình như nền kinh tế phải
nỗ lực hết mình trong cuộc cạnh tranh quyết liệt này. Do đó, việc quản lý, lãnh
đạo khoa học có hiệu quả đã trở thành một yêu cầu cấp thiết của các doanh
nghiệp để duy trì sự tồn tại và phát triển của mình.
Cùng với xu hướng phát triển chung của toàn nền kinh tế. Sự ra đời của công ty
May Thăng Long đã đóng góp vào công cuộc cải tạo kinh tế, cải tạo công
thương nghiệp tư bản tư doanh qua việc hình thành những tổ sản xuất của các
Hợp tác xã may mặc theo phương thức sản xuất mới xã hội chủ nghĩa, nâng cao
địa vị làm chủ của người công dân trong xí nghiệp. Ngoài ra công ty còn thu hút
đươc hàng nghìn lao động, bước đầu làm quen quan hệ sản xuất mới xã hội chủ
nghĩa, đề cao vai trò tập thể, mọi người gắn bó trách nhiệm với công ty.
Nội dung cơ bản của báo cáo thực tập gồm những phần sau:
Phần1: Quá trình hình thành, phát triển và cơ cấu tổ chức của Công ty cổ phần May
Thăng long.
Phần 2: Thưc trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần May Thăng
Long
Phần 3: Một số nhận xét và kết luận.
Phần1:
Quá trình hình thành , phát triển và cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần
May thăng Long
1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty cổ phần May Thăng Long.
1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Công ty:
Tên đầy đủ:
Tên thường gọi:
Tên giao dịch tiếng anh:
Tên viết tắt:
Trụ sở chính:
Điện thoại:
E-Mail:
Công ty cổ phần may Thăng Long
Công ty may Thăng Long
Thanglong garment joint stock company
Thaloga
250 Minh Khai, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội
(84-4) 8623372 Fax: (84-4) 8623374
Công ty cổ phần may Thăng Long, tiền thân là công ty may Thăng Long
thuộc tổng công ty dệt may Việt Nam, được thành lập vào ngày 08/05/1958 theo
quyết định của Bộ ngoại thương. Khi mới thành lập Công ty mang tên Công ty
may mặc xuất khẩu, thuộc tổng công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm, đóng tại số nhà
15 phố Cao Bá Quát- Hà Nội. Ban đầu, Công ty có khoảng 2000 công nhân và
1700 máy may công nghiệp. Mặc dù trong những năm đầu hoạt động công ty gặp
rất nhiều khó khăn như mặt bằng sản xuất phân tán, công nghệ, tiêu chuẩn kỹ
thuật còn thấp, nhưng công ty đã hoàn thành và vượt mức kế hoạch do nhà nước
giao. Đến ngày 15/12/1958 Công ty đã hoàn thành kế hoạch năm với tổng sản
lượng là 391.129 sản phẩm đạt 112,8% chỉ tiêu. Đến năm 1959 kế hoạch Công ty
được giao tăng gấp 3 lần năm 1958 nhưng Công ty vẫn hoàn thành và đạt 102%
kế hoạch. Trong những năm này Công ty đã mở rộng mối quan hệ với các khách
hàng nước ngoài như Liên Xô, Đức, Mông Cổ, Tiệp Khắc.
Bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961- 1965) Công ty đã có
một số thay đổi lớn. Vào tháng 7 năm 1961, Công ty chuyển địa điểm làm việc
về 250 phố Minh Khai, thuộc khu phố Hai Bà Trưng nay là quận Hai Bà Trưng,
là trụ sở chính của công ty ngày nay. Địa điểm mới có nhiều thuận lợi, mặt bằng
rộng rãi, tổ chức sản xuất ổn định. Các bộ phận phân tán trước, nay đã thống nhất
thành một mối, tạo thành dây chuyền sản xuất khép kín khá hoàn chỉnh từ khâu
nguyên liệu, cắt, may, là, đóng gói.
Ngày 31/8/1965 theo quyết định của Bộ ngoại thương công ty có sự thay
đổi lớn về mặt tổ chức như: tách bộ phận gia công thành đơn vị sản xuất độc lập,
với tên gọi Công ty gia công may mặc xuất khẩu; còn Công ty may mặc xuất
khẩu đổi thành Xí nghiệp may mặc xuất khẩu; Ban chủ nhiệm đổi thành Ban
giám đốc.
Vào những năm chiến tranh chống Mỹ, Công ty gặp rất nhiều khó khăn như
công ty đã phải 4 lần đổi tên, 4 lần thay đổi địa điểm, 5 lần thay đổi các cán bộ
chủ chốt nhưng Công ty vẫn vững bước tiến lên thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ
hai. Trong các năm 1976-1980, Công ty đã tập trung vào một số hoạt động chính
như: triển khai thực hiện là đơn vị thí điểm của toàn ngành may, trang bị thêm
máy móc, nghiên cứu cải tiến dây chuyền công nghệ. Năm 1979, Công ty được
Bộ quyết định đổi tên thành xí nghiệp may Thăng Long.
Bước vào kế hoạch 5 năm lần thứ 3 (1980-1985) trước những đòi hỏi ngày
càng cao của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Công ty đã không ngừng đổi
mới và phát triển. Trong quá trình chuyển hướng trong thời gian này, Công ty
luôn chủ động tạo nguồn nguyên liệu để giữ vững tiến độ sản xuất, thực hiện liên
kết với nhiều cơ sở dịch vụ của Bộ ngoại thương để nhận thêm nguyên liệu. Giữ
vững nhịp độ tăng trưởng từng năm, năm 1981 Công ty giao 2.669.771 sản phẩm,
năm 1985 giao 3.382.270 sản phẩm sang các nước: Liên Xô, Pháp, Đức, Thuỵ
Điển. Ghi nhận chặng đường phấn đấu 25 năm của Công ty, năm 1983 Nhà nước
đã trao tặng xí nghiệp may Thăng Long: Huân chương Lao động hạng Nhì.
Cuối năm 1986 cơ chế bao cấp được xoá bỏ và thay thế bằng cơ chế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các doanh nghiệp lúc này phải tự tìm
bạn hàng, đối tác. Đến năm 1990, liên bang cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô Viết
tan rã và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, thị trường của Công ty
thu hẹp dần. Đứng trước những khó khăn này, lãnh đạo của Công ty may Thăng
Long đã quyết định tổ chức lại sản xuất, đầu tư hơn 20 tỷ đồng để thay thế toàn
bộ hệ thống thiết bị cũ của Cộng hoà dân chủ Đức (TEXTIMA) trước đây bằng
thiết bị mới của Cộng hoà liên bang Đức (FAAP), Nhật Bản (JUKI). Đồng thời
Công ty hết sức chú trọng đến việc tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu.
Công ty đã ký nhiều hợp đồng xuất khẩu với các Công ty ở Pháp, Đức, Thuỵ
Điển, Hàn Quốc, Nhật Bản.
Với những sự thay đổi hiệu quả trên, năm 1991 xí nghiệp may Thăng
Long là đơn vị đầu tiên trong toàn ngành may được Nhà nước cấp giấy phép xuất
nhập khẩu trực tiếp. Công ty được trực tiếp ký hợp đồng và tiếp cận với khách
hàng đã giúp tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Thực hiện việc sắp
xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước và địa phương trong thời kỳ đổi mới, tháng
6-1992, xí nghiệp được Bộ Công nghiệp nhẹ (nay là Bộ công nghiệp) cho phép
được chuyển đổi tổ chức từ xí nghiệp thành Công ty và giữ nguyên tên Thăng
Long theo quyết định số 218 TC/LĐ- CNN. Công ty may Thăng Long ra đời,
đồng thời là mô hình Công ty đầu tiên trong các xí nghiệp may mặc phía Bắc
được tổ chức theo cơ chế đổi mới. Nắm bắt được xu thế phát triển của toàn ngành
năm 1993 Công ty đã mạnh dạn đầu tư hơn 3 tỷ đồng mua 16.000 m2 đất tại Hải
Phòng, thu hút gần 200 lao động. Công ty đã mở thêm nhiều thị trường mới và
trở thành bạn hàng của nhiều Công ty nước ngoài ở thị trường EU, Nhật Bản,
Mỹ… Ngoài thị trường xuất khẩu Công ty đã chú trọng thị trường nội địa, năm
1993, Công ty đã thành lập Trung tâm thương mại và giới thiệu sản phẩm tại 39
Ngô Quyền, Hà Nội với diện tích trên 300 m2. Nhờ sự phát triển đó, Công ty là
một trong những đơn vị đầu tiên ở phía Bắc chuyển sang hoạt động gắn sản xuất
với kinh doanh, nâng cao hiệu quả. Bắt đầu từ năm 2000, Công ty đã thực hiện
theo hệ thống quản lý ISO 9001-2000, hệ thống quản lý theo tiêu chuẩn SA 8000.
Năm 2003, công ty may Thăng Long được cổ phần hoá theo Quyết định số
1496/QĐ-TCCB ngày 26/6/2003 của Bộ Công nghiệp về việc cổ phần hoá doanh
nghiệp Nhà nước Công ty may Thăng Long trực thuộc tổng Công ty Dệt may
Việt Nam. Công ty may Thăng Long chuyển sang công ty cổ phần, Nhà nước
nắm giữ cổ phần chi phối 51% vốn điều lệ, bán một phần vốn của Nhà nước tại
doanh nghiệp cho cán bộ công nhân viên Công ty (49%). Trong quá trình hoạt
động, khi có nhu cầu và đủ điều kiện, công ty cổ phần sẽ phát hành thêm cổ
phiếu hoặc trái phiếu để huy động vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
Theo phương án cổ phần hoá:
Vốn điều lệ của công ty
Vốn điều lệ được chia thành
Mệnh giá thống nhất của mỗi cổ phần
23.306.700.000 đồng
233.067 cổ phần
100.000 đồng
Như vậy, qua 47 năm hình thành và phát triển, Công ty may Thăng Long đã
đạt được nhiều thành tích đóng góp vào công cuộc xây dựng và phát triển của đất
nước trong thời kỳ chống Mỹ cũng như trong thời kỳ đổi mới. Ghi nhận những
đóng góp của Công ty, Nhà nước đã trao tặng cho đơn vị nhiều huân chương cao
quý. Với sự cố gắng của toàn thể Công ty, từ một cơ sở sản xuất nhỏ, trong
những năm qua công ty may Thăng Long đã phát triển quy mô và công suất gấp
2 lần so với trong những năm 90, trở thành một doanh nghiệp có quy mô gồm 9
xí nghiệp thành viên tại Hà Nội, Hà Nam, Nam Định, Hoà Lạc với 98 dây
chuyền sản xuất hiện đại và gần 4000 cán bộ công nhân viên, năng lực sản xuất
đạt trên 12 triệu sản phẩm/năm với nhiều chủng loại hàng hoá như: sơ mi, dệt
kim, Jacket, đồ jeans…
1.2 Cơ cấu tổ chức của Công ty cổ phần may Thăng Long
1.2.1.Chức năng và nhiệm vụ của công ty:
1. Chức năng của công ty:
Khai thác và sử dụng có hiệu quả tài sản và nguồn vốn, lao động để phát triển
sản xuất, tìm nhiều mặt hàng, đồng thời nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật
để phát triển sản xuất, mở rộng thị trường.
2. Nhiệm vụ của công ty:
Xây dựng và thực hiện đầy đủ các kế hoạch xuất kinh doanh, đáp nhu cầu may
mặc của mọi tầng lớp trong xã hội đồng thồi hoàn thành nghĩa vụ với nhà nước,
tổ chức tốt chức tốt đời sống cho cán bộ công nhân viên trong công ty.
1.2.2. Bộ máy quản lý của doanh nghiệp và quy trình công nghể sản xuất sản
phẩm của công ty.
1. Bộ máy quản lý doanh nghiệp:
Cấp công ty:
+ Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý cao nhất của công ty Cổ phần may
Thăng long, được bầu để chỉ đạo quản lý mọi hoạt động của công ty.
+ Hội đồng của công ty gồm 07 thàng viên, 1 chủ tịch hội đồng quản trị, 1
phó chủ tịch hội đồng quạn trị và 5 uỷ viên do đại hộ cổ đông bầu hoặc bãi miễn.
+ Tổng giám đốc: là người điều hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh
hàng ngày của công ty. Tổng giám đốc do hội đồng quản trị bổ nhiểm hoặc bải
miễn.
+ Tổng giám đốc chịu trách nhiểm trước hội đồng quản trị về việc thực
hiện các quyền và nghĩa vụ được giao.
+ Giúp việc cho tổng giám đốc có các phó tổng giám đốc do hội đồng
quản trị bổ nhiệm và miễn nhiệm theo đề nghị của tổng giám đốc. Gồm có các
phó tổng giám đốc sau:
+ Phó tổng giám đốc điều hành kỹ thuật: Có nhiệm vụ giúp cho tổng
giám đốc về mặt kỹ thuật sản xuất và thiết kế của công ty.
+ Phó tổng giám đốc điều hành sản xuất: Có nhiệm vụ giúp việc cho tổng
giám đốc trực tiếp chỉ đạo hoạt động sản xuất.
+ Phó tổng giám đốc điều hành nội chính: Có nhiệm vụ giúp việc cho tổng
giám đốc biết về các mặt đời sống công nhân viên và điều hành xí nghiệp dịch vụ
đời sống.
Các phòng ban gồm:
+ Văn phòng công ty: Có nhiệm vụ quản lý nhân sự, các mặt tổ chức của
công ty, quan hệ đối ngoại, giải quyến các chế độ chính sách với người lao động.
+ Phòng kỹ thuật chất lượng: Có nhiệm vụ quản lý, phác thảo, tạo mẫu
các mặt hàng theo đơn đặt hàng của khách hàng và nhu cầu của công ty, đồng
thời có nhiệm vụ kiểm tra, đánh giá chất lượng sản phẩm khi đưa vào nhập kho
thành phẩm.
+ Phòng kế hoạch thị trường: Có nhiệm vụ nghiên cứu, khảo sát thị
trường và lập kế hoạch sản xuất kinh doanh tháng, quý, năm. Tổ chức quản lý
công việc xuât nhập khẩu hàng háo, đàm phán soạn thảo hợp đồng với khách
hàng trong và ngoài nước.
+ Phòng kế toán tài vụ: Tổ chức quản lý thực hiện công tác tài chính kế
toán theo từng chính sách của nhà nước, đảm bảo nguồn vốn cho sản xuất kinh
doanh và yêu cầu phát triển của công ty, phân tính và tổng hợp số liệu để đánh
giá kết quả sản xuất kinh doanh. Đề xuất các biện pháp đảm bảo hoạt động của
công ty có hiệu quả.
+ Cửa hàng thời trang: Trưng bày các sản phẩm mang tính chất giới thiệu
sản phẩm là chính. Bên cạnh đó còn có nhiệm vụ cung cấp các thông tin về nhu
cầu của thị trường, thị hiếu của khách hàng để xây dựng các chiến lược tìm kiếm
thị trường.
+ Trung tâm thương mại và giới thiệu sản phẩm: Trưng bày, giới thiệu và
bán sản phẩm của công ty, đồng thời cũng la nơi tiếp nhận các ý kiến đóng góp
phản hồi tư người tiêu dùng.
+ Phòng kinh doanh nội địa: Tổ chức tiêu thụ hàng hoá nội địa, quản lý hệ
thống các đại lý bán hàng cho công ty và tổng hợp số liệu theo dỏi báo cáo tình
hình, kết quả sản xuất kinh doanh và tiêu thụ hàng hoá của các hệ thống cửa hàng
đại lý.
Cấp xí nghiệp: ở các xí nghiệp thành viên có ban giám đốc xí
nghiệp bao gồm giám đốc và phó giám đốc xí nghiệp. Ngoài ra còn có các tổ
trưởng sản xuất, nhân viên tiền lương, cấp phát, thống kê, cấp phát nguyên vật
liệu… Dưới các trung tâm và cửa hàng có các cửa hàng trưởng, các nhân viên…
Mô hình bộ máy tổ chức quản lý công ty được thể hiện ở sơ đồ sau:
Tổng giám đốc
P. tổng giám đốc điều
hành sản xuất
P. tổng giám đốc điều
hành nội chính
Phòng
kỹ
thuật
chất
lượng
Phòng
kinh
doanh
nội địa
Văn
phò
ng
Phòng
kế
hoạch
thị
trườn
g
Phòng
chuẩn
bị sản
xuất
Phòng
kế
toán
tài vụ
Trung
tâm
TM và
GTSP
Cửa
hàng
thời
trang
xí
nghiệp
dịch
vụ đời
sống
Giám đốc các xí nghiệp
thành viên
Của hàng
trưởng
Nhân viên thông
kê các XN
Nhân viên thông
kê PX
XN
I
XN
II
XN
III
Kho
ngoại
quan
Xưởng
sản xuât
nhụa
XN
may Hà
Nam
XN
may
Nam
Hải
XN
ph
ụ
trợ
XN
thiết
kế
TTK
PX thêu PX
mài
P. giám đốc điều
hành kỹ thuật
10
Công đoạn in thêu
Vải Cắt Kiểm chất
lượng sản
phảm
Kiểm tra
thành phẩm
Hoàn thành Nhập kho thành
phẩm
May
2. Quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm:
Quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm của công ty cổ phần may Thăng Long
là một quy trình liên tục được thực hiện trên quy trình công nghệ hiện đại liên tục
đồng bộ và khép kín từ khâu nguyên liệu đưa vào là vải được đưa đến bộ phận
cắt sau đó đến bộ phận may (nếu sản phẩm nào phải in, thêu thì phải qua công
đoạn in thêu rồi mới đến công đoạn may) sau khi may hoàn thành sản phẩm được
đưa tới bộ phận kiểm tra chất lượng sản phẩm (KCS) để kiểm tra các mặt hàng bị
lỗi, bị sai quy cách, mẫu mã không ? sau đó đến bộ phận kiểm tra thành phẩm,
sau khi kiểm tra thành phẩm được đêm đi là, ủi và hoàn thành sản phẩm được
đóng gói và đưa vào nhập kho.
11
Mỗi công đoạn của quy trình sản xuất sản phẩm của công ty đều có mức
độ quan trọng nhất định song công đoạn quan trọng nhất vẩn là công đoạn cắt vì
nếu cắt sai kích thước quy định sẽ không đáp ứng được các chỉ tiêu kỹ thuật của
kế hoạch dẩn đến sản phẩm sẽ bị hỏng và không thể tiêu thụ được vì nếu tiêu thụ
những sản phẩm như vậy sẽ làm cho công ty bị mất uy tín với khách hàng đồng
thời sẽ làm mất đi một khoản lợi nhuận của công ty. Chính vì vậy đòi hỏi công
nhân ở công đoạn này phải có tay nghề cao chính xác. tuy nhiên khi sản phẩm
được cắt may đúng kích thước, mẫu mã, muốn cho chất lượng sản phẩm được tốt
đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng thì việc lựa chọn các loại vải để đưa vào
sản xuất cũng là một công đoạn rất quan trọng.
Như vậy để sản xuất ra một sản phẩm công ty phải trải qua hàng loạt các
công đoạn quan trọng và phức tạp
1.2.3.Tình hình chung về công tác kế toán:
Cơ cấu tổ chức và chức năng của từng bộ phận kế toán:
Xuất phát từ đặc điểm tổ chức sản xuất và bộ máy quản lý của công ty, phù
hợp với điều kiện và trình độ, bộ máy kế toán của công ty được tổ chức theo mô
hình tập trung. Bộ máy kế toán được thực hiện trọn vẹn ở phòng kế toán của
công ty, ở các xí nghiệp thành viên và các bộ phận trực thuộc không tổ chức kế
toán riêng mà bố trí các nhân viên kế toán thống kê.
Đứng đầu là kế toán trưởng, kiêm kế toán tổng hợp, là người chịu trách nhiệm
chung toàn công ty, theo dõi quản lý và điều hành mọi công việc kế toán. Đồng
thời tổ tổng hợp số liệu để ghi vào sổ tổng hợp toàn công ty, lập báo cáo kế toán.
2 Phó phòng kế toán, các nhân viên thủ quỹ
Kế toán tiền mặt và tiền gửi ngân hàng ( kế toán thanh toan ):
Sau khi kiểm tra tính hợp lệ của chứng từ gốc, kế toán thanh toán viết phiếu
thu, chi ( đối với tiền, viết séc, uỷ nhiệm chi đối với tiền gửi ngân hàng), hàng
ngày vào sổ chi tiêt và cuối tháng lập bảng kê tổng hợp, đối chiếu với sổ của thủ
quỷ, sổ phụ ngân hàng, lập kế hoạch tiền mặt gửi lên cho ngân hàng có quan hệ
giao dịch. quản lý các tài khoản 111, 112 và các sổ chi tiết của nó. Cuối tháng
lập nhật ký chứng từ số 1 và số 2, bảng kê số 1 và 2 và nhất ký chứng từ số 4
12
Kế toán vật tư:
Có trách nhiệm hạch toán chi tiết nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ theo
phương pháp ghi thẻ song song, cuối tháng tổng hợp số liệu, lập bảng kê, theo
dỏi nhập xuất và nộp báo cáo cho bộ phân kế toán tính giá giá nguyên vật liệu.
Phụ trách tài khoản 152, tài khoản 153 . khi có yêu cầu của bộ phận kế toán và
các bộ phận chức năng khác tiến hành kiểm kê lại kho vật tư, đối chiếu với sổ kế
toán nếu có sự thiếu hụt thì tìm ra nguyên nhân và biện pháp xử lý ghi trong bản
kiểm kê.
Kế toán tài sản cố định và nguồn vốn:
Quản lý các tài khoản 211, 121, .213, 214, 411, 412, 415, 416, 441. Phân loại
tài sản cố định hiện có của công ty, theo dỏi tình hình tăng hay giảm , tính khấu
hao, theo phương pháp tuyến tính, theo dõi các nguồn vốn và các quỷ của công
ty, cuối tháng lập bảng phân bổ số 3, nhật ký chứng từ số 9.
Kế toán tiền lương và các khoản BHXH:
Quản lý tài khoản 334, 338, 627, 641, 642. Hàng tháng căn cứ vào sản lượng
của xí nghiệp và đơn giá lương của xí nghiệp và hế số lương gián tiếp, đồng thời
nhận các bảng thanh toán lương do các nhân viên phòng kế toán gửi lên, tổng
hợp số liệu, lập bảng tổng hợp thanh toán lương của công ty, lập bảng phân bổ số
1.
Kế toán công nợ:
Theo dõi các khoản phải thu, phải trả trong công ty và giữa công ty với khách
hàng. Phụ trách tài khoản 131, 136, 138, 141, 331, 333. Ghi sổ kế toán chi tiết
cho từng đối tượng, cuối tháng lập nhật ký chứng từ số 5, số 10 và bảng tổng
hợp số 11.
Kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm:
Theo dõi tình hình xuất nhập, tồn kho thành phẩm thành phẩm, giá trị hàng
hoá xuất nhập, ghi sổ chi tiết tài khoản 155, cuối tháng lập bảng kê số 8 và số 11,
ghi vào sổ cái các tài khoản có liên quan.
Thủ quỹ:
13
Chịu trách nhiệm về quỹ tiền mặt của công ty, hàng ngày căn cứ vào các phiếu
chi hợp lệ để xuất nhập quỹ, ghi sổ quỹ phần thu chi. Cuối ngày đối chiếu với sổ
quỹ của kế toán tiền mặt.
Ngoài ra Công ty còn có các kế toán viên ở các xí nghiệp. Có trách nhiệm thu
thập ghi chép và xử lý các chứng từ ban đầu. Sau đó chuyển chưng từ về công ty
để kiểm tra . Trên cơ sở đó phòng tài chính kế toán tổng hợp số liệu tính giá
thành và lập báo cáo kế toán chung toàn công ty.
Tóm lại: bộ máy kế toán của công ty được tổ chức theo sơ đồ sau:
Hình thức kế toán
Công ty đăng ký sử dụng hầu hết các chứng từ và tài khoản trong hệ thống
chứng từ kế toán và hệ thống tài khoản kế toán thống nhất do ban tổ chức phát
hành.
Hiện nay công ty đang áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên trong
hạch toán hàng tồn kho, nhờ đó kế toán theo dõi phản ánh một cách thường
xuyên, liên tục, có hệ thống tình hình nhập, xuất tồn kho trên cơ sở sổ sách kế
toán và có thể xác định vào bất kỳ thời điểm nào .
Kế toán trưởng
Phó phòng kế
toán
Kế
toán
vốn
bằng
tiền
Kế
toán
vật tư
Kế
toán
TSCĐ
và vốn
Kế
toán
tiền
lương