Tiểu luận Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam lý luận và thực tiễn hiện nay

Hình thái kinh tế xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lich sử dùng để chỉ xã hội ở những giai đoạn phát triển, những hình thái khác nhau và những hình thái cụ thể của sự vận động xã hội, là một chỉnh thể thống nhất của cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng, thích ứng với một giai đoạn nhất định của sự phát triển của lượng sản xuất. Hình thái kinh tế xã hội bao gồm hình thái kinh tế, hình thái chính trị và hình thái ý thức, đó là sự thống nhất lịch sử cụ thể. Hình thái kinh tế là cơ sở của hình thái xã hội, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của xã hội từ thấp đến cao. Mác và Lênin đã thường sử dụng phạm trù " hình thái xã hội" và hình thái " kinh tế - xã hội " với ý nghĩa tương đồng, đồng thời cũng đã giải thích về " tổng hòa quan hệ sản xuất ", đó là phương diện cơ bản của hình thái kinh tế xã hội. Và kiến trúc thượng tầng được dựng trên cơ sở kinh tế là bộ phận không thể phân cắt của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Một hình thái xã hội nhất định nói chung đều phải lấy hình thức chế độ xã hội để biểu hiện ra. Xã hội loài người ngày càng không ngừng phát triển , sự biến đổi và tiến bộ có tính căn bản của xã hội là thông qua bằng việc thực hiện thay thế các quan hệ sản xuất ấy. Có thể nói rằng: Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp trong đó các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt của hình thái kinh tế - xã hội có vị trí riêng, tác động qua lại lẫn nhau và thống nhất với nhau. Trong đó quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt với các chế độ xã hội khác.

doc12 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2814 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam lý luận và thực tiễn hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ XÂY DỰNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC TP HCM TIỂU LUẬN SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN HIỆN NAY Sinh vien: Lớp: KT11CT MSSV: 11510108364 Cần Thơ, Tháng 4 /2012 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI 1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về hình thái kinh tế xã hội. Hình thái kinh tế xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lich sử dùng để chỉ xã hội ở những giai đoạn phát triển, những hình thái khác nhau và những hình thái cụ thể của sự vận động xã hội, là một chỉnh thể thống nhất của cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng, thích ứng với một giai đoạn nhất định của sự phát triển của lượng sản xuất. Hình thái kinh tế xã hội bao gồm hình thái kinh tế, hình thái chính trị và hình thái ý thức, đó là sự thống nhất lịch sử cụ thể. Hình thái kinh tế là cơ sở của hình thái xã hội, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của xã hội từ thấp đến cao. Mác và Lênin đã thường sử dụng phạm trù " hình thái xã hội" và hình thái " kinh tế - xã hội " với ý nghĩa tương đồng, đồng thời cũng đã giải thích về " tổng hòa quan hệ sản xuất ", đó là phương diện cơ bản của hình thái kinh tế xã hội. Và kiến trúc thượng tầng được dựng trên cơ sở kinh tế là bộ phận không thể phân cắt của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Một hình thái xã hội nhất định nói chung đều phải lấy hình thức chế độ xã hội để biểu hiện ra. Xã hội loài người ngày càng không ngừng phát triển , sự biến đổi và tiến bộ có tính căn bản của xã hội là thông qua bằng việc thực hiện thay thế các quan hệ sản xuất ấy. Có thể nói rằng: Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp trong đó các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt của hình thái kinh tế - xã hội có vị trí riêng, tác động qua lại lẫn nhau và thống nhất với nhau. Trong đó quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt với các chế độ xã hội khác. 2. Sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên. Xã hội loài người đã phải trải qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp nhau. Trên cơ sở phát hiện ra các quy luật vân động, phát triển khách quan của xã hội C.Mác đã đi đến kết luận : " Sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên ". Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống trong đó các mặt không ngừng tác động qua lại lẫn nhau để tạo thành các quy luật vận động, phát triển khách quan của xã hội. Đó là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định đến kiến trúc thượng tầng và các quy luật xã hội khác. Chính sự tác động khách quan đó mà các hình thái kinh tế - xã hội luôn vận động và phát triển từ thấp đến cao. Nguồn gốc sâu xa của sự vận động phát triển của xã hội là ở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Chính sự phát triển đó đã quyết định đến sự thay đổi của quan hệ sản xuất. Khi quan hệ sản xuất thay đổi sẽ làm cho kiến trúc thượng tầng thay đổi theo, và do đó mà hình thái kinh tế - xã hội cũ được thay thế bằng hình thái kinh tế xã hội mới cao hơn, tiến bộ hơn. Qúa trình đó được diễn ra một cách khách quan chứ không phải theo một ý muốn chủ quan. Theo quan niệm của V.I.Lênin thì :" Chỉ có đem những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất và đem những quan hệ sản xuất vào hình thai kinh tế xã hội ". Trong toàn bộ tiến trình lịch sử phát triển xã hội loài người, sự thay thế và phát triển từ chế độ công xã nguyên thủy, qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và cuối cùng là đến xã hội cộng sản. Có được sự phát triển như vậy là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất. Đúng như C.Mác đã viết :" Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lí về chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó. Như vậy xét trong nội bộ phương thức sản xuất thì quan hệ sản xuất là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, nhưng xét trong tổng thể các quan hệ xã hội thì các quan hệ sản xuất hợp thành cơ sở kinh tế của xã hội, tức là cơ sở hiện thực mà trên đó hình thành nên kiến trúc thượng tầng tương ứng. Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học đạo đức, tôn giáo….. cùng với những thiết chế xã hội như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định. Như vậy, trong một xã hội có giai cấp thì kiến trúc thượng tầng cũng mang tính giai cấp, trong đó nhà nước có vai trò cực kì quan trọng. Đó là tiêu biểu cho chế độ chính trị của một xã hội nhất định. Nhờ có nhà nước mà giai cấp thống trị mới thực hiện được sự thống trị của mình về tất cả các mặt trong đời sống xã hội. Giữa các mặt trong đời sống xã hội thống nhất biện chứng với nhau tạo thành các xã hội cụ thể tồn tại trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Các xã hội cụ thể đó được chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng đẻ chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những trình độ của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Sự tác động khách quan của các quy luật đã làm cho các hình thái kinh tế - xã hội phát triển thay thế nhau từ thấp đến cao - đó là con đường phát triển chung của nhân loại. Song con đường phát triển của mỗi dân tộc không chỉ chi phối bởi các quy luật chung ấy mà còn bị tác động bởi các điều kiện về tự nhiên, về chính trị, về truyền thống, văn hóa, điều kiện quốc tế ….. Chính vì vậy mà lịch sử phát triển của nhân loại là hết sức phong phú và đa dạng. Mỗi một dân tộc đều có một nét độc đáo riêng trong lịch sử phát triển của mình. Có những dân tộc lần lượt trải qua các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao, nhưng cũng có những dân tộc bỏ qua một hay một hình thái kinh tế - xã hội nào đó. Tuy nhiên việc bỏ qua đó cũng diễn ra theo một quá trình lịch sử - tự nhiên, chứ không theo một ý muốn chủ quan. Như vậy sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã hội. Qúa trình đó không những diễn ra theo con đường phát triển tuần tự, mà còn bao hàm cả sự bỏ qua trong những điều kiện nhất định, một hoặc một vài hình thái kinh tế - xã hội nhất định. 3. Gía trị khoa học của lí luận hình thái kinh tế - xã hội. Trước Mác, chủ nghĩa duy tâm giữ vai trò thống trị trong khoa học xã hội. Sự ra đời học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đã đưa lại cho khoa học một phương pháp nghiên cứu thực sự khoa học. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đã chỉ ra : Sản xuât vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, và phương thức sản xuất quyết định đến các mặt của đời sống xã hội, cho nên không thể xuất phát từ ý thức, tư tưởng từ ý chí chu quan của con người để giải thích các hiện tượng trong đời sống xã hội mà phải xuất phát từ phương thức sản xuất Học thuyết cũng chỉ ra rằng : Xã hội không phải là sự kết hợp một cách ngẫu nhiên, máy móc giữa các cá nhân với nhau mà là một cơ thể sống động, các mặt thống nhất chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản quyết định đến các quan hệ xã hội khác, đó còn là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội, để phân kì lịch sự một cách đúng đắn và khoa học Học thuyết còn chỉ ra : Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên, tức là diễn ra theo các quy luật khách quan, chứ không theo một ý muốn chủ quan nào cả. Vì thế cho nên V.I.Lênin đã quan niệm rằng : " Xã hội là một cơ thể sống đang phát triển không ngừng, một cơ thể mà muốn nghiên cứu thì cần phải phân tích một cách khách quan những quan hệ sản xuất cấu thành một hình thái kinh tế - xã hội nhất định, và cũng cần phải nghiên cứu những quy luật vận hành và phát triển của hình thái kinh tế - xã hội đó. Ngày nay có quan điểm cho rằng cần thay thế lý luận đó bằn cách tiếp cận khác ,nhất là cách tiếp cận theo nền văn minh.Ông Alvin Toffler ,nhà tương lai học nổi tiếng người Mĩ,ông phân chia lịch sử nhân loại thành ba nền văn minh:Văn minh nông nghiệp,văn minh công nghiệp,văn minh hậu công nghiệp . +Nền văn minh nông nghiệp là nền văn minh có nền kinh tế khép kín,tự cung tự cấp,dân cư sống thành làng mạc,chủ yếu làm nông nghiệp. +Nền văn minh công nghiệp được bắt đầu từ năm 1650-1750,nó được thực hiện bởi cuộc cách mạng khoa học kĩ thật.Nền văn minh này có sự phân công lao động sâu sắc,công nghiệp giữ vai trò thống trị nền kinh tế. +Nền văn minh hậu công nghiệp bắt đầu ở Mĩ sau đó lan rộng tới Nhật,Anh,Pháp..vào những năm 50 của thế kỉ XX,nền văn minh này gắn liền với những ngành khoa học,công nghiệp mới như Lượng tử,tin học ,sinh học phân tử,công nghệ gen,năng lượng mặt trời… Cách phân chia như vậy ,mặc dầu có đề cập đến các mặt khác của đời sống xã hội ,nhưng cách phân chia ấy lại tập chung chủ yếu vào sự phát triển của sản xuất ,vào trình độ phát triển của kinh tế.Suy cho cùng cách phân chia ấy dựa vào trình độ phát triển cơ bản của lực lượng sản xuất và phân chia các thời đại kinh tế trong việc xem xét kinh tế của mỗi nước.Cách tiếp cận đó còn quá phiến diện,không nêu ra được cơ sở để phân chia các chế độ xã hội ,cũng không chỉ ra được mối quan hệ giữa các mặt trong xã hội và quy luật thay thế xã hội này bằng xã hội khác cao hơn.Chính vì vậy nó không thể thay thế được lý luận hình thái kinh tế -xã hội. SỰ VẬN DỤNG LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ-XÃ HỘI CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VÀO NƯỚC TA Những nhiệm vụ của thời kì đầu trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kì tạo ra cơ sở vật chất và con người cho chủ nghĩa xã hội trong quá trình thực hiện này.Với điều kiện và hoàn cảnh ở Việt Nam đã đặt ra cho chúng ta rất nhiều những nhiệm vụ khác nhau nhằm thực hiện mục tiêu đề ra để phát triển đất nước.Trong thời kì này đảng và nhà nước ta luôn nhấn mạnh thực hiện theo tư tưởng của Lênin đó là chúng ta phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản ,nhất là hướng vào chủ nghĩa tư bản nhà nước ,làm khâu trung gian để chuyển một nước tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội. Thực hiện cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước để xây dựng cơ sở vật chất cho nền sản xuất lớn hiện đại .Tạo ra những điều kiện tất yếu về vật chất, kĩ thuật, con người và khoa học công nghệ ,huy động mọi nguồm vốn, nguồn lực lao động ,nâng cao tay nghề cho người lao động làm cho nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững.Két hợp với tổ chức thường xuyên cho mọi tầng lớp nhân dân , đặc biệt là học sinh ,sinh viên về quan điểm và chủ chương thực hiện của đảng để tránh đi lệch khỏi hướng xã hội chủ nghĩa mà đảng và nhà nước ta đã xác định từ đầu.Quan tâm chăm lo tới đời sống vật chất tinh thần của nhân dân. Tại đại hội đảng lần thứ năm và việc thực thi nghị quyết đại hội chúng ta còn thấy nhiều bế tắc trong quản lý,nền kinh tế tư nhân bị kìm hãm phát triển ,nói đúng hơn là bị ngăn cấm triệt để.Quản lý kinh tế khi đưa ồ ạt nông dân miền Nam,Tây Nguyên vào làm ăn tập thể,thể hiện tư tưởng bảo thủ ,trì trệ trong quan lý của đảng và nhà nước.Kinh tế trong nước mất cân đối,kinh tế quốc doanh thua lỗ nặng .Thời gian đó nền kinh tế nước ta lâm vào tình trạng quyệt quệ,đời sống nhân dân rất khó khăn,khổ cực .Tất cả những điều ấy đã thay đổi toàn bộ,ta thấy được điều đó trong nghị quyết đại hội VI của đảng . Trong văn kiện đại hội VI của đảng đã nêu rõ “Mục tiêu về kinh tế , xã hội cho những năm còn lại của chặng đường năm đầu đổi mới (1986-1990) là sản xuất đủ tiêu dùng có tích lũy ,bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất …” “ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học kĩ thuật ,nhất là các thành tựu về cây trồng vật nuôi,tạo ra vật liệu mới,sản phẩm mới từ nguyên liệu trong nước..” “sắp xếp ,bố trí lại cơ cấu và bước đi trước mắt ,phù hợp với khả năng thực tế của đất nước…”. Đại hội đảng lần thứ VI chú trọng tới vấn đề thiết yếu đó là “ Lương thực -thực phẩm” “Hàng tiêu dùng “ “Hàng xuất khẩu” cùng nhiều vấn đề khác như khoa học kĩ thuật ,đời sống của nhân dân .Với quá trình mới về sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước còn nhiều thách thức khó khăn trước mắt đảng và nhà nước đã đề ra những nội dung cần thực hiện để thực hiện mục tiêu đó: + Tăng thêm tốc độ và tỉ trọng sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân.Đầu tư cho nền nông nghiệp để luôn đảm bảo về an ninh lương trong nước. + Dựa trên sự thay đổi về công nghệ chúng ta phải chuyển dich cơ cấu kinh tế để dần tới sự tăng trưởng nhanh và bền . + Khuyến khích và đào tạo những tài năng trẻ nhằm tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cao cho đất nước . + Thực hiện chuyển giao công nghệ kết hợp với năng lực sáng tạo của quần chúng.Muốn vậy cần phải nắm bắt đầy đủ chính xác các thông tin cần thiết thông qua các công ty tư vấn trong và ngoài nước để đảm bảo công nghệ lựa chọn là chính xác và phù hợp.Mở rông liên kết kinh doanh với nước ngoài với sự giám sát chặt chẽ của nhà nước ta,để có thể khai thác công nghệ một cách trực tiếp. + Xây dựng và phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, cần phải chấn chỉnh, đổi mới và có hiệu quả khu vực doanh nghiệp nhà nước làm tốt vai trò hỗ trợ và thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển . + Thận trọng trong sự phát triển xã hội,mở rộng giao lưu văn hóa với các nước trên thế giới,cần có biện pháp ngăn chặn sự thâm nhập của những văn hóa không tốt kết hợp với giữ gìn bảo vệ và phát triển văn hóa dân tộc. Liên tục đổi mới cơ chế của bộ may nhà nước tránh lặp lại cơ chế chuyên quyền độc đoán trong bộ máy nhà nước đã từng mang lại hậu quả nghiêm trọng. +Chống quan liêu độc đoán , chủ quan cá nhân. +Phân biệt rõ chức năng ,thẩm quyền của các cấp các nghành. +Phải đưa ra một hệ thống luật pháp chặt chẽ,hợp tình hợp lý,phù hợp với những phong tục tập quán tốt.Phổ biến và thực thi nghiêm chỉnh mọi điều lệ đã ra. Liên tục thăm dò và lấy ý kiến của nhân dân để hoàn thiệnhơn các bộ luật. +Luật bảo vệ môi trường phải được thực thi và có sự kiểm tra giám sát cụ thể sát sao,để giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Kinh tế tập thể phải không ngừng được phát triển bởi đó là nền tảng của nền kinh tế quốc dân.kinh tế tư nhân là một thành phần không thể thiếu ,nó là một trong những động lực của nền kinh tế.Ngoài ra thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển .Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ ,các loại hình thị trường từng bước được xây dựng và phát triển tuân theo quy luật của nền kinh tế thị trường.Nhưng cần phải nâng cao năng lực của cán bộ quản lý thị trường tránh để thị trường rơi vào tình thế không kiểm soát được Trong đó khoa học công nghệ luân giữ vai trò then trốt trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại ,bảo vệ tài nguyên môi trường ,nâng cao năng suất và trình độ sản xuất tăng tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế.Sự phát triển khoa học kĩ thuật đánh giá trình độ phát triển và dân trí của một quốc gia bởi vậy mà khoa học kĩ thuật luôn được quan tâm và tạo điều kiện phát triển.Nghiên cứu và áp dụng các thabhf tựu khoa học vào thực tiễn,trước hết là ưu tiên cho các lĩnh vực như y tế,nông nghiệp,ngư nghiệp,lâm nghiệp và sau đó là các nghành khác như hóa chất ,công nghệ thông tin,điện tử viễn thông… Lập kế hoạch và thực thi việc xây dựng và tập trung phát triển các trung tâm công nghiệp,trung tâm kinh tế của cả nước.Xây dựng cơ sở hạ tầng vững chắc,đẩy mạnh quá trình đô thị hóa,nhưng tránh xây dựng đô thị ồ ạt thiếu chất lượng gây hậu quả nghiêm trọng.Cải tạo ,nâng cấp và xây mới các hạng mục công trình giao thông,cơ sở hạ tầng đô thị tạo điều kiện cho kinh tế phát triển Đảng và nhà nước luôn cố gắng đưa ra các chính sách và tạo điều kiện cho mọi công dân tham gia hoạt động sản xuất đóng góp cho sự phát triển của đất nước.Chăm lo cho đời sống ,an sinh xã hội cho nhân dân đặc biệt là cho những trẻ em mồ côi lang thang cơ nhỡ,những người cô độc có hoàn cảnh khó khăn.Quan tâm tới đời sống ,sức khỏe của các cựa chiến binh ,gia đình các liệt sĩ ,gia đình có công với cách mạng ,họ là những người đóng góp tuổi thanh xuân thậm chí là mạng sống của mình để mang lại cho chúng ta cuộc sống ấm no hạnh phúc ngày hôm nay. Thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo ,tích cực giúp đỡ các gia đình gặp khó khăn tạo điều kiện cho họ làm ăn kinh tế,giúp đỡ vốn hoặc cho vay dài hạn với lãi suất thấp.Tạo điều kiện cho những người đã từng lầm đường lạc lối để họ làm lại cuộc đời và hòa nhập với đời sống cộng đồng,không phạm lại sai lầm.Quan tâm tới đời sống của các đồng bào dân tộc thiểu số,tạo điều kiện giúp đỡ cho họ làm ăn,tuyên truyền phổ biến chủ trương của đảng cho họ. Những thành tựu của đảng và nhân dân ta đã đạt được sau hơn hai mươi năm đổi mới canh tân đất nước. Sau hơn hai mươi năm kể từ nghị quyết của đảng và nhà nước ta tại đại hội lần thứ VI,sự đồng lòng quyết tâm của nhân dân cùng đảng ,nhà nước chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu lớn về nhiều mặt. *Về thưc hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế đất nước đạt được nhiều kết quả quan trọng. Nền kinh tế đã vượt qua khủng hoảng và đạt được mức tăng trưởng rất ấn tượng, chất lượng ,hiệu quả và sức cạnh tranh của một số lĩnh vực và một số sản phẩm có chuyển biến.Tốc độ tăng trưởng GDP thay đổi rất nhanh thể hiển qua số liệu trong một số năm như sau. +Giai đoạn 1986-1990 tốc độ tăng GDP còn chậm trung bình tăng4,4%/năm,nhưng tới giai đoạn 1991-1995 GDP trung bình đã tăng 8,2% đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh bắt đầu đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.Năm 2005 đạt được tốc độ tăng trưởng cao 8,4%/ năm, năm 2007 là 7,87%. Thu nhập bình quân của nhân dân cũng khá cao năm 2008 là 1024USD/người/năm đời sống nhân dân tăng cao hơn rất nhiều so với thời kì bao cấp và những năm đầu của thời kì đổi mới. Tiếp tục thực hiện tích cực chủ trương giữ vững nền độc lập ,tự chủ nền kinh tế có tiến bộ đáng kể trong việc phát huy các nguồn lực của đất nước , của các thành phần kinh tế cho đầu tư và phát triển.Kinh tế nhà nước vẫn giữ được vai trò và vị trí quan trọng:Kinh tế nhà nước chiếm 38,4% trong tổng GDP của cả nước vào năm năm 2005 Vào những năm 1986 nước ta còn là một nước thiếu lương trầm trọng phải nhập khẩu nhiều,thì nhiều năm gần đây chúng ta đã hoàn toàn chủ động được nguồnlương thực phục vụ trong nước không cần phải nhập khẩu hơn nữa chúng ta còn là một nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới. *Về giáo duc –đào tạo,khoa học công nghệ ,phát triển văn hóa xã hội. Nước ta đã đạt chuẩn về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học.Phát triển văn hóa ,xây dựng nếp sống văn minh , lành mạnh toàn dân.Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được chú trọng, quan tâm hơn rất nhiều,các cơ sở y tế được xây mới với các trang thiết bị hiện đại.Lực lượng y bác sĩ được đào tạo bài bản,có trình độ chuyên môn cao.Phong trào toàn dân tích cực luyện tập thể dục thể thao được nhân dân hưởng ứng và tham gia tích cực.Công tác xóa đói giảm nghèo tiếp tục đạt dược nhiều kết quả ,số hộ nghèo đã giảm từ 31,1% vào năm 2006 xuống 23,43% vào cuối năm 2008.Khoa học công nghệ phát triển mạnh ở nhiều lĩnh vực. *Về sự phát triển cơ sở hạ tầng đô thị ,các trung tân kinh tế và công nghiệp trọng điểm. Chúng ta có nhiều trung tâm kinh tế và công nghiệp lớn như Hà Nội,Tp.Hồ Chí Minh khu công nghiệp Biên Hòa….cùng nhiều trung tâm kinh tế và công nghiệp quan trọng khác,trong đó hai trung tâm kinh tế ,văn hóa lớn nhất đất nước Vào thời kì bao cấp do chính sách của nhà nước không hợp lý ,thiếu thực tế đã làm cho nền kinh tế nước ta bị trì trệ,tụt hậu thì sau hơn hai mươi năm đổi mới những
Luận văn liên quan