Quảng Nam là một tỉnh thuộc vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, Việt Nam, là vùng
đất còn lưu giữ nhiều dấu tích của nền Văn hóa Chămpa. Tên gọi Quảng Nam có
nghĩa là "mở rộng về phương Nam". Quảng Nam nằm ở chính trung điểm đất nước
theo trục Bắc - Nam, là nơi giao hòa của những sắc thái văn hóa giữa hai miền và
giao lưu văn hóa với bên ngoài, điều này góp phần làm cho Quảng Nam giàu
truyền thống văn hóa, độc đáo về bản sắc văn hóa.
Quảng Nam có 14 huyện, thị xã và 211 xã, phường với gần 1,365 triệu dân, trong
đó 85% dân cư nông thôn và 78% lao động nông nghiệp. Đến nay, toàn tỉnh đã có
18 huyện, thành phố với 244 xã, phường, trong đó có đến 9 huyện miền núi đặc
biệt khó khăn như Tây Giang, Đông Giang, Nam Trà My, Bắc Trà My Thêm
vào đó, thiên tai liên tục xảy ra ảnh hưởng nặng nghề đến sản xuất cũng như đời
sống của người dân.
17 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2147 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tác động của tổ chức lãnh thổ du lịch đến tỉnh Quảng Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Tiểu luận
Tác động của tổ chức lãnh thổ du
lịch đến tỉnh Quảng Nam
2
I- Giới thiệu đôi nét về ngành du lịch tỉnh
Quảng Nam
Quảng Nam là một tỉnh thuộc vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, Việt Nam, là vùng
đất còn lưu giữ nhiều dấu tích của nền Văn hóa Chămpa. Tên gọi Quảng Nam có
nghĩa là "mở rộng về phương Nam". Quảng Nam nằm ở chính trung điểm đất nước
theo trục Bắc - Nam, là nơi giao hòa của những sắc thái văn hóa giữa hai miền và
giao lưu văn hóa với bên ngoài, điều này góp phần làm cho Quảng Nam giàu
truyền thống văn hóa, độc đáo về bản sắc văn hóa.
Quảng Nam có 14 huyện, thị xã và 211 xã, phường với gần 1,365 triệu dân, trong
đó 85% dân cư nông thôn và 78% lao động nông nghiệp. Đến nay, toàn tỉnh đã có
18 huyện, thành phố với 244 xã, phường, trong đó có đến 9 huyện miền núi đặc
biệt khó khăn như Tây Giang, Đông Giang, Nam Trà My, Bắc Trà My… Thêm
vào đó, thiên tai liên tục xảy ra ảnh hưởng nặng nghề đến sản xuất cũng như đời
sống của người dân.
Nằm ở vị trí trung điểm khu vực duyên hải miền Trung Việt Nam, Quảng Nam có
vị trí giao thông khá thuận lợi cả về đường bộ, đường sắt, đường hàng không và
đường thủy… Đây cũng là nơi sinh sống của nhiều dân tộc như: Kinh, Cơtu,
Xêđăng, Cor, Dẻ Triêng… với các bản sắc văn hóa riêng khá độc đáo cả về phong
tục, tập quán, kiến trúc, trang phục, lễ hội, ẩm thực…Đặc biệt, Quảng Nam cũng là
nơi sở hữu 2 di sản văn hóa thế giới là đô thị cổ Hội An và Khu đền Tháp Mỹ Sơn;
ngoài ra còn có Khu Dự trữ sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm. Tất cả đã tạo nên
những lợi thế quan trọng tạo cơ hội cho ngành công nghiệp không khói ở Quảng
Nam phát triển.
Sự phát triển du lịch cũng đã kéo theo sự ra đời của nhiều loại hình dịch vụ như
mua sắm, hàng lưu niệm, may mặc, ăn uống, chăm sóc sức khỏe…, đáp ứng nhu
cầu du lịch, nghỉ dưỡng ngày càng cao của du khách, góp phần tạo việc làm, tăng
thu nhập cho người dân. Các điểm tham quan mới được đầu tư, khai thác và ngày
càng thu hút du khách như: Bãi biển Cửa Đại, Hà My, Bình Minh, Tam Thanh,
Biển Rạng ; Khu du lịch hồ Phú Ninh, Thuận Tình, Suối Mơ, Khe Tân, Khe Lim,
Suối Tiên, thủy điện Duy Sơn 2..., nhiều công trình hạ tầng quan trọng đã được đầu
tư, nâng cấp và ngày càng hoàn thiện, không chỉ phục vụ cho phát triển du lịch mà
còn đáp ứng các mục tiêu về dân sinh, kinh tế khác. Trong đó, có các tuyến giao
thông quan trọng như: Đường Nam Phước - Mỹ Sơn, đường du lịch ven biển Điện
3
Ngọc - Cẩm An, đường Thanh Niên ven biển,… với tổng vốn đầu tư hơn hàng
nghìn tỷ đồng… Một số khu du lịch như: Suối Mơ, Khe Tân, hồ Phú Ninh, Thác
Grăng,... cũng đã được đầu tư bước đầu, góp phần mở rộng không gian du lịch, huy
động sự tham gia của cộng đồng dân cư vào sự nghiệp phát triển du lịch….
Cùng với việc tham gia các hội chợ du lịch tại Đức, Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Trung Quốc, Thái Lan, Singapore…, hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch cũng đã
được tổ chức với nhiều hình thức phong phú như: Tổ chức các roadshow trong và
ngoài nước; phối hợp với các Đài phát thanh, Truyền hình Trung ương và địa
phương thực hiện nhiều video clip quảng bá các sự kiện văn hóa du lịch tỉnh của
tỉnh ; phủ sóng wifi miễn phí tại Hội An; tổ chức in ấn phẩm, quảng bá du lịch trên
các phương tiện thông tin đại chúng... đưa hình ảnh du lịch Quảng Nam đến với du
khách trong và ngoài nước, để lại ấn tượng đẹp và khá hấp dẫn… Đặc biệt, bằng
việc tổ chức thành công các sự kiện văn hóa du lịch như Tuần Văn hóa du lịch
Quảng Nam tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Đà Nẵng..., thương hiệu, hình
ảnh du lịch Quảng Nam, du lịch Hội An được nhìn nhận là một điểm đến an toàn,
thân thiện.
II- Tổ chức lãnh thổ du lịch tỉnh Quảng Nam
4
Theo điều chỉnh định hướng quy hoạch du lịch Quảng Nam đến năm 2015 và
tầm nhìn năm 2020
Tổ chức không gian phát triển du lịch được lồng ghép trong không gian kinh tế –
xã hội của vùng nghiên cứu và mối quan hệ về du lịch với các lãnh thổ lân cận
cũng như phụ thuộc vào sự phân bổ của các nguồn tài nguyên du lịch nổi trội, của
hệ thống kết cấu hạ tầng và phù hợp các nhu cầu ngày càng cao của khách du lịch
trong nước và quốc tế .
- Đảm bảo việc khai thác có hiệu quả tiềm năng tài nguyên du lịch nổi trội và lợi
thế về vị trí địa lý:
Quảng Nam là nơi hội tụ hai di sản thế giới và nhiều tài nguyên du lịch có giá trị
khác Cần tận dụng hiệu quả những thế mạnh tài nguyên du lịch đặc thù cũng như
mối liên hệ toàn vùng đề xây dựng các sản phẩm du lịch có chất lượng và thương
hiệu du lịch Quảng Nam nổi tiếng cả trong và ngoài nước.
- Phù hợp với định hướng phát triển KTXH của tỉnh Quảng Nam:
Tổ chức không gian du lịch để đảm bảo tính thống nhất và đồng bộ với các ngành
đồng thời giảm bớt những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình triển khai đối với các
ngành kinh tế khác.
5
- Tạo được liên kết hợp lý và hỗ trợ lẫn nhau giữa các cum, điểm du lịch:
Không gian phát triển du lịch mang tính hệ thống, có sự liên kết hợp lý giữa các
điểm du lịch và tránh sự trùng lặp, cạnh tranh triệt tiêu lẫn nhau
1. Khu vực ưu tiên phát triển du lịch các di sản Văn hoá - Lịch sử:
+ Phạm vi tổ chức không gian:ở phía Đông-Bắc tỉnh Quảng Nam bao gồm thị xã
Hội An và các huyện: Điện Bàn, Duy Xuyên. Trung tâm cụm du lịch là Đô thị du
lịch Hội An. Các khu, điểm du lịch chính :
- Đô thị du lịch Hội An.
- Khu di sản thế giới Mỹ Sơn và phụ cận:
- Khu du lịch sinh thái Cù Lao Chàm:
- Ven biển Điện Ngọc - Cẩm An và ven sông Cổ Cò:
2. Khu vực phát triển du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng :
+ Phạm vi cho không gian gồm:phía Đông Nam Quảng Nam gồm các huyện:
Thăng Bình., Đông Duy Xuyên. Phát triển du lịch ven biển sông Trường Giang và
các loại hình du lịch nghỉ dưỡng, tắm biển, vui chơi giải trí, thể thao, nghỉ cuối
tuần, thể thao trên bờ và trên mặt nước...Khai thác loại hình du lịch sông nước dọc
theo sông Trường Giang, mở ra các tuyến du lịch đường thuỷ kết hợp du lịch sinh
thái tham quan các làng quê, làng nghề hai bên bờ sông. Du lịch tuyến sông
Trường Giang sẽ là mắt xích nối vùng du lịch phía Bắc với vùng du lịch phía Nam
của tỉnh. Các dự án ưu tiên đầu tư:
- Các cơ sở vui chơi giải trí.
- Hệ thống hạ tầng kỹ thuật, đặc biệt là tuyến giao thông ven biển nối khu
vực của Đại đến các khu kinh tế mở Chu Lai
- Các khu lưu trú dạng nhà nghỉ nhỏ, nhà nghỉ tại gia đình
- Các ngành nông nghiệp, công nghiệp , thủ công nghiệp
- Các trang trại kết hợp du lịch sinh thái
3. Khu vực phát triển du lịch thương mại , giải trí cao
- Bao gồm Thành phố Tam Kỳ, huyện Núi Thành, huyện Phó Ninh. Trung tâm khu
vực : Thành phố Tam Kỳ
- Các điểm du lịch:
- Khu kinh tế mở Chu Lai.Diện tích phát triển du lịch trong là 1.700
Ha trong các sân golf và khu Casino
- Di tích chiến thắng Núi Thành
- Địa đạo Kỳ Anh
- Phật viện Đông Dương
- Tháp Khương Mỹ
- Tháp Chiên Đàn
6
- Điểm dừng quốc lộ 1A và biểu tượng điểm giữa Việt Nam
- Du lịch sinh thái hồ Phú Ninh
- Tham quan mỏ vàng Bồng Miêu.
- Các trung vui chơi, giải trí, mua sắm tại thành phố Tam Kỳ.
- Trung tâm mua sắm khu vực phi thuế quan tại khu kinh tế mở Chu Lai
4. Khu vực phát triển du lịch sinh thái, văn hóa – lịch sử
Phạm vi gồm Huyện Phước Sơn, Tây Giang, Nam Giang, Đông Giang, Bắc
Trà My, Nam Trà My .Trung tâm cụm Du lịch là Thị trấn Khâm Đức
Đường Hồ Chi Minh được xây dựng, đưa vào sử dụng sẽ đánh thức tiềm
năng du lịch vùng rừng núi phía tây của tỉnh. Với các địa danh và thắng cảnh
nổi tiếng như: khu bảo tồn sông Thanh, A Sờ, các di tích lịch sử, các làng văn
hoá của các dân tộc thiểu số, di tích lịch sử Thượng Đức, làng Rô, thác Grăng...
hướng phát triển các loại hình dịch vụ du lịch ở đây là: tham quan di tích lịch
sử, du lịch nghỉ dưỡng núi, tham quan các hang động tự nhiên, rừng nguyên
sinh. Đặc biệt thu hút du khách tham quan làng văn hoá các dân tộc thiểu số...
Gắn du lịch đường Hồ Chí Minh với tuyến du lịch đường bộ qua cửa khẩu Đắc
ốc khai thác thị trường khách từ Thái Lan đến Lào và vàoViệtNam.
Dự án ưu tiên đầu tư: cơ sở hạ tầng du lịch, cơ sở lưu trú, dịch vụ phục vụ
du khách, xây dựng các thiết chế văn hoá, làng văn hoá. Các điểm DLST rừng
nguyên sinh, thác nước , suối nước nóng . Tham quan các bản dân tộc Cơ Tu,
Xê Đăng, Cor, GỉeTriêng...
III- Tác động của tổ chức lãnh thổ du lịch đến
tỉnh Quảng Nam
1. Tác động tích cực
a) Phát triển kinh tế
Tốc độ tăng tổng sản phẩm (GDP) trên địa bàn giai đoạn 1997-2010 tăng 10,57%.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh, công nghiệp và dịch vụ ngày càng phát triển.
Giá trị các ngành thương mại – dịch vụ tăng bình quân hơn 14%. Du lịch có tốc độ
tăng trưởng nhanh nhất là sau khi Khu Di tích Mỹ Sơn và Khu phố cổ Hội An
được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới. Năm 2011, ngành du lịch đã
đón trên 2,5 triệu lượt khách, gấp hơn 11 lần so với 1997. Giá trị sản xuất các
ngành nông, lâm ngư nghiệp tăng bình quân hàng năm 3,56%. Tổng kim ngạch
7
xuất khẩu tăng bình quân hàng năm trên 27%, riêng năm 2011 xuất khẩu đạt 336
triệu USDD, gấp hơn 22 lần so với 1997.
Từ một tỉnh lệ thuộc hoàn toàn vào trợ cấp ngân sách Trung ương, thu nội địa chỉ
đạt 157 tỷ đồng năm 1997, đến nay, tổng thu nội địa trên địa bàn đạt 4.200 tỷ đồng,
tăng gần 27 lần, tỷ lệ thu nội địa đóng góp trong GDP chiếm 5,3% năm 1997 lên
trên 12,2% năm 2011.
Kết quả kinh doanh khách sạn, nhà hàng, du lịch lữ hành
Đơn vị
tính
Thực
hiện
tháng
7/2012
Dự tính
tháng
8/2012
Cộng dồn
8 tháng
đầu năm
2012
Tháng
8/2012
so với
cùng kỳ
năm
2011(%)
8 tháng
năm
2012 so
với cùng
kỳ năm
2011(%)
I. Hoạt động
khách
sạn
1. Doanh thu Triệu
đồng
129.180 130.800 929.792 138,65 131,68
2. Lượt khách
phục vụ
Lượt
khách
77.547 78.375 604.926 114,63 109,46
3. Ngày khách
phục vụ
Ngày
khách
157.179 160.700 1.145.424 110,65 105,86
II. Hoạt động
nhà hàng
Doanh thu Triệu
đồng
350.732 356.700 2.598.964 141,37 143,56
III. Hoạt động
du lịch
lữ hành
8
1. Doanh thu Triệu
đồng
8.520 9.100 55.710 156,36 130,78
2. Lượt khách
du lịch theo
tour
Lượt
khách
93.700 96.200 897.462 110,66 116,65
3. Ngày khách
du lịch theo
tour
Ngày
khách
166.420 187.200 1.519.232 103,88 98,55
Tổng lượt khach tham quan và lưu trú trên địa bàn tỉnh tháng 8 năm 2012 ước đạt
263.875 lượt tăng 2,1 % so với tháng trước và tăng 22,8% so với cùng kỳ ( cùng kỳ
+12%), trong đó : khách lưu trú đạt 78,375 lượt (+1,1%; +14,6%), khách thăm
quan 185.500 lượt (+2,5%;+26,7%).Doanh thu hoạt động khách sạn nhà hàng
tháng 8 ước đạt gần 488 tỷ đồng tăng 1,6 % so với tháng 7 và tăng
41 % so với cùng kỳ ( cùng kỳ +19%), trong đó khách sạn đạt 131 tỷ đồng
(+1,3%;+38,7%); du lịch lữ hành ( bao gồm cả 2 văn phòng hướng dẫn du lịch:
Hội An , Mỹ Sơn) đạt trên 9 tỷ đồng (+6,8%;+56,4%).
Dự tính 8 tháng đầu năm 2012 tổng lượt khách tham quan và lưu trú trên địa bàn
tỉnh ước đạt 2.286.916 lượt, tăng 32,6%( cùng kỳ :+5,8%), đạt 83% KH, trong đó :
khách tham quan đạt 1.681.990 lượt tăng 43,5%(+4%), khách lưu trú đạt 604.926
lượt tang 9,5%(+9,9%). Doanh thu hoạt động khách sạn , nhà hàng trong 8 tháng
ước đạt 3.529 tỷ đồng tăng 40,7% ( cùng kỳ:+28,2%), trong đó khách sạn đạt 930
tỷ đồng tăng 31,7%(+19%); du lịch lữ hành đtạt gần 56 tỷ đồng tăng 30,8%
(+1,5%).
Theo một báo cáo mới đây, Quảng Nam hiện có khoảng 110 dự án đầu tư du lịch
hoạt động và tiếp tục đa dạng hóa sản phẩm du lịch, phát triển du lịch cộng đồng,
mở rộng xúc tiến, quảng bá hình ảnh địa phương. Tính đến giữa năm 2012, ngành
du lịch đã thu hút gần 3,5 triệu lượt khách quốc tế và nội địa (51% và 49%), công
suất sử dụng buồng phòng 55%, 110 khách sạn hoạt động với gần 4.500 phòng,
doanh thu du lịch tăng bình quân 25 - 30%/năm.
Với những lợi thế trên, 15 năm qua, du lịch Quảng Nam không ngừng phát triển.
Nếu như năm 1997 khi mới tái lập tỉnh, Quảng Nam đón hơn 200 ngàn lượt khách,
9
thì đến năm 2000, số khách đến Quảng Nam tăng lên 400 ngàn lượt Đến năm
2011, Quảng Nam đón được 2 triệu 530 ngàn lượt khách trong đó khách quốc tế
chiếm 1,2 triệu lượt, thu nhập xã hội từ du lịch đạt hơn 2.000 tỷ đồng, tăng 53 lần
so với năm 1997.
Cùng với đó, cơ sở lưu trú, hạ tầng du lịch cũng không ngừng được cải thiện theo
chiều hướng tăng dần từ 8 phòng nghỉ của Công ty Du lịch dịch vụ Hội An vào
giữa những năm 90 đến nay. Nhiều khách sạn, khu nghỉ mát tại Hội An đã được
đầu tư mở rộng và phát triển nhanh chóng với 108 đơn vị dịch vụ, hơn 4 nghìn
phòng đạt tiêu chuẩn đón khách quốc tế. Nhiều dự án đi vào hoạt động tốt như :
Khu nghỉ mát The Nam Hải, Palm Garden, Golden Sand, Victoria, Life Resort,
Hội An Beach, Vĩnh Hưng… Hiện, Quảng Nam có hơn 200 dự án đầu tư với tổng
vốn đăng ký hàng chục nghìn tỷ đồng và gần 5 tỷ USD, trong đó 110 dự án đã
hoàn thành đi vào hoạt động, 20 dự án đang trong quá trình xây dựng. Nhiều dự án
khác đã có thông báo thoả thuận địa điểm và đang làm các thủ tục xây dựng... chủ
yếu là ở khu vực Hội An, tuyến du lịch ven biển Điện Ngọc - Cẩm An và KTM
Chu Lai.
Ngày 7/5/2012, Tổ chức lao động quốc tế (ILO) vừa phối hợp cùng Sở VHTTDL
Quảng Nam tổ chức hội thảo giảm nghèo và việc làm bền vững thông qua phát
triển du lịch. Hội thảo đưa ra một kế hoạch hành động nhằm phát triển ngành du
lịch Việt Nam bền vững mà điểm nhấn là thúc đẩy du lịch giảm nghèo.
Được biết, dự án “Tăng cường du lịch sâu trong đất liền ở Quảng Nam” của ILO trị
giá 1,35 triệu USD do chính phủ Luxembourg viện trợ nhằm mục đích phát triển
hướng tiếp cận bền vững giúp giảm nghèo cho du lịch Việt Nam đã khởi động vào
tháng 5/2010 và kết thúc vào tháng 12/2013. ILO phát triển 2 chuỗi giá trị quan
trọng đối với ngành du lịch lữ hành Quảng Nam đó là điểm đến sâu trong đất liền
và các sản phẩm địa phương nhằm tạo thu nhập cho cộng đồng ở nông thôn.
b) Chất lượng cuộc sống
- Tạo cơ hội việc làm
Ngoài đóng góp về mặt thu nhập cho nền kinh tế địa phương, du lịch đã mang lại
nhiều cơ hội nghề nghiệp cho người dân và đặc biệt là cho lớp thanh niên trẻ của
Quảng Nam. Ở Quảng Nam, số lượng các khách sạn, nhà nghỉ, nhà hàng, quán bar
và các cửa hàng bán đồ lưu niệm, thủ công mỹ nghệ, may quần áo, giầy dép và túi
10
xách….xuất hiện ngày càng nhiều và nhờ thế, đòi hỏi có một lượng nhân công lớn
làm việc cho họ. Sẽ rẻ và an toàn hơn nếu những đơn vị kinh doanh này thuê người
dân địa phương làm cho mình. Và ở Quảng Nam, họ được khuyến khích để làm
điều này. Ngoài ra, có hàng ngàn người đang làm việc trong các loại hình kinh
doanh dịch vụ khác liên quan đến du lịch như là các văn phòng du lịch, dịch vụ
cung cấp thông tin du lịch, vận chuyển, bưu chính, hướng dẫn khách tại các địa
điểm tham quan… Những con số đó phần nào có thể cho chúng ta thấy vai trò của
du lịch trong việc mang lại nhiều việc làm cho người dân địa phương ở Quảng
Nam. Nhiều người vốn là nông dân, ngư dân và những người làm nghề thủ công
tạm thời dời làng để đến làm việc, trở thành nhân viên trong các nhà hàng, khách
sạn, doanh nghiệp may mặc, nhiều người trong số họ trở thành những người bán
hàng rong.
Tác dụng tạo công ăn việc làm của du lịch ở Quảng Nam còn rõ ràng hơn trong
trường hợp của những làng nghề truyền thống. Quảng Nam có nhiều làng nghề,
trong đó có làng mộc Kim Bồng, làng rau Trà Quế, làng gốm Thanh Hà, làng yến
Thanh Châu,… Trước ngày du lịch phát triển, những làng này chủ yếu là để phục
vụ nhu cầu đời sống của bà con nhân dân địa phương. Tuy nhiên, khi du lịch phát
triển mạnh ở tỉnh, những làng này dẫn trở thành những điểm tham quan và ngày
càng thu hút lượng lớn khách du lịch, đặc biệt là khách nước ngoài. Nhờ đó, những
làng nghề truyền thống vốn đã từng có nguy cơ biến mất nay lại hồi phục và phát
triển. Những làng nghề này sống trở lại đồng nghĩa với việc có nhiều việc làm hơn
cho người dân địa phương. Những thanh niên vốn từng rời làng đi làm ăn xa giờ
dần quay trở lại. Giờ họ có thể kiếm tiền ngay tại ngôi làng của họ thay vì phải đi
kiếm ăn ở các nơi xa.
Năm 2006, ông Huỳnh Ri, một trong những nghệ nhân còn lại của làng mộc Kim
Bồng đã vui vẻ thông báo là ông đã đào tạo được 12 người thợ trẻ có tay nghề và
rằng, xưởng của ông đang làm ăn rất tốt và đảm bảo thu nhập cho thợ. Một nghệ
nhân khác của nghề mộc, ông Đinh Văn Lời cũng cho biết rằng, việc phát triển
nhanh của du lịch đã thúc đẩy công việc làm ăn của ông tốt hơn và hiện ông có
khoảng 100 thợ, phần lớn trong số họ là thương binh, những người tàn tật và
những thanh niên trẻ tuổi.
Trong năm 2006, các làng nghề truyền thống khác như là làm đèn lồng, đồ thêu,
khắc trên tre đã mang lại công việc cho khoảng 1.150 người dân địa phương. Dù
rằng thu nhập từ những nghề thủ công này không cao so với các hoạt động du lịch
khác nhưng chúng vẫn giúp cho nhiều người dân Quảng Nam có việc làm. Tổng số
lao động trực tiếp 7.604 người, có 43 đơn vị kinh doanh lữ hành và vận chuyển (7
lữ hành quốc tế, 16 lữ hành nội địa và 20 doanh nghiệp vận chuyển). Sự quan tâm
của chính quyền, đầu tư đang được đẩy mạnh và tính liên kết đã bắt đầu mở rộng,
đưa đến ý thức làm du lịch của người dân được nâng lên.
11
Hiện tại Quảng Nam có 6 cơ sở tham gia đào tạo nguồn nhân lực cho ngành du
lịch. Toàn tỉnh hiện có 4.021 lao động hoạt động tại các doanh nghiệp du lịch.
Có 2.411 lao động (chiếm 60,7%) được đào tạo chuyên ngành, trong đó chỉ có
1,43% trình độ đào tạo sau đại học; 19,41% có trình độ đại học. Trình độ sơ cấp và
trung cấp chiếm đến 68, 84%.
Có 39,3% trong tổng số lao động làm việc trong các doanh nghiệp du lịch được
đào tạo nghiệp vụ, chủ yếu tập trung trong lĩnh vực khách sạn (99%) và chỉ có 1%
còn lại được đào tạo trong hoạt động lữ hành.
- Nâng cao chất lượng đời sống
Chất lượng đời sống người dân Quảng Nam ngày càng cao hơn nhờ vào nguồn thu
cao, hệ thống cơ sở hạ tầng được cải thiện, và nhiều cơ hội việc làm từ việc phát
triển du lịch địa phương. Thu nhập bình quân đầu người tỉnh tăng trên 10 lần, từ
2,1 triệu đồng năm 1997 lên gần 22,5 triệu đồng năm 2011.
Ví dụ như Hội An: thu nhập trung bình hàng năm của người dân tăng đáng kể từ
7.92 triệu đồng (528 USD) năm 2003, 11.22 triệu đồng năm 2005 và khoảng 14.71
triệu đồng (>900USD) năm 2007 (Lê Phương, 2007; Lê Văn Giảng, 2007; Thanh
Hải, 2003). So với các thành phố khác cùng cấp ở Việt Nam, Hội An rõ ràng có thu
nhập bình quân cao hơn nhiều nhờ vào chính sách chiến lược biến du lịch thành
ngành công nghiệp chính của thị xã kể từ năm 1995. Tại khu vực trung tâm của
phố cổ, đặc biệt là dọc các con phố chính như Nguyễn Thái Học, Bạch Đằng, Lê
Lợi, Trần Phú,…nhiều hộ dân đã cải tạo ngôi nhà cổ của mình thành các cửa tiệm,
quầy hàng, nhà hàng, quán bar hoặc phòng triển lãm nghệ thuật… Nhờ thế mà thu
nhập bình quân hàng năm của các hộ gia đình này có tăng lên đáng kể
c) Văn hóa xã hội
- Chục năm qua, kể từ khi Hội An và Khu đền tháp Mỹ Sơn trở thành Di sản
thế giới, người dân Quảng Nam đã chứng kiến nhiều sự đổi thay to lớn trong cuộc
sống của họ. Nhiều người có cơ hội việc làm và kinh doanh hơn, thu nhập cao hơn,
mức sống cao hơn… Người dân Quảng Nam ngày càng nhận thức rõ hơn về mức
độ quan trọng của di sản và việc bảo vệ chúng. Họ đều hiểu rõ rằng du lịch, một
công cụ hữu hiệu, đã và đang mang lại nhiều thay đổi cho đời sống kinh tế, xã hội,
văn hoá cho người dân hoàn toàn dựa trên các di sản văn hoá của địa phương. Nếu
không có các di sản đó, du lịch không thể có cơ hội để phát triển ở Quảng Nam.
Mọi cố gắng từ chính phủ, chính quyền địa phương, từ các nhà quản lý di sản hay
12
các chuyên gia di sản luôn luôn là không đủ để đảm bảo sự tồn tại lâu dài của các
di sản văn hoá vốn đã đang gắn kết chặt chẽ với đời sống hiện tại của người dân
địa phương.
Sự xuất hiện của du lịch đã mang lại nhiều cơ hội cho nhiều người để nâng cao thu
nhập. Một khi đời sống kinh tế của họ được đảm bảo, người ta dườ