Sau thời kỳ mở cửa, đặc biệt là từ những năm 90 trở lại đây, Việt Nam không
ngừng mở rộng mối quan hệ hợp tác hữu nghị, giao lưu, buôn bán với các nước bên
ngoài. Những mối quan hệ này phát sinh từ các lợi ích kinh tế là chủ yếu; và trong đó
thì hoạt động xuất khẩu của Việt Nam là hoạt động mang tầm quan trọng chiến lược.
Cơ sở cho việc lựa chọn chiến lược thương mại quốc tế của Việt Nam phải xuất phát
từ điều kiện môi trường kinh tế quốc tế hiện tại và những điều kiện thuận lợi vốn có
của Việt Nam để tham gia vào sự phân công lao động quốc tế một cách đúng đắn nhất.
Trong giai đoạn đầu, sự phân công lao động đó cần dựa trên lợi thế so sánh của
từng quốc gia để sản xuất các sản phẩm và trao đổi với nhau. Xuất phát từ những lợi
thế so sánh của Việt Nam và các nước trên thế giới, trong giai đoạn đầu này, Việt Nam
sẽ sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm thô và sản phẩm nông nghiệp, một số sản phẩm
sử dụng nhiều lao động, công nghệ trung bình, sử dụng ít vốn ngoại tệ thu được thông
qua hoạt động xuất khẩu đó, Việt Nam sẽ có tiền đề cho hoạt động nhập khẩu tư liệu
sản xuất và công nghệ. Thông qua việc ứng dụng các tư liệu sản xuất và công nghệ
tiên tiến sẽ góp phần giúp Việt Nam đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá hiện đại
hoá đất nước.
Đại hội Đảng lần thứ VII (6/1991) đã xác định đường lối đối ngoại: “độc lập tự
chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá”, và sau Đại hội Đảng lần thứ VIII (7/1996) là: “Xây
dựng một nền kinh tế mới hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất
khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu Chủ động tham gia cộng đồng thương mại thế
giới, các diễn đàn, các tổ chức, các định chế quốc tế một cách có chọn lọc với b ước đi
thích hợp”.
Tuy nhiên, Việt Nam cũng như các quốc gia đang phát triển khác, chiến lược
phát triển trong tương lai phải nhanh chóng chuyển từ việc sản xuất và xuất khẩu các
sản phẩm thô, sản phẩm sơ chế sang sản phẩm chế biến. Muốn vậy, ta cần phải đẩy
mạnh tính hiệu quả từ hoạt động xuất khẩu; đặc biệt là các mặt hàng chủ lực bởi các
mặt hàng này hiện chiếm một tỷ trọng rất lớn trong cơ cấu hàng xuất khẩu của nước ta.
40 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2796 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực trạng: Tình hình xuất khẩu các mặt hàng chủ lực (doanh số, thị trường), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN:
Thực trạng: Tình hình xuất khẩu
các mặt hàng chủ lực
(doanh số, thị trường)
Lời mở đầu
Sau thời kỳ mở cửa, đặc biệt là từ những năm 90 trở lại đây, Việt Nam không
ngừng mở rộng mối quan hệ hợp tác hữu nghị, giao lưu, buôn bán với các nước bên
ngoài. Những mối quan hệ này phát sinh từ các lợi ích kinh tế là chủ yếu; và trong đó
thì hoạt động xuất khẩu của Việt Nam là hoạt động mang tầm quan trọng chiến lược.
Cơ sở cho việc lựa chọn chiến lược thương mại quốc tế của Việt Nam phải xuất phát
từ điều kiện môi trường kinh tế quốc tế hiện tại và những điều kiện thuận lợi vốn có
của Việt Nam để tham gia vào sự phân công lao động quốc tế một cách đúng đắn nhất.
Trong giai đoạn đầu, sự phân công lao động đó cần dựa trên lợi thế so sánh của
từng quốc gia để sản xuất các sản phẩm và trao đổi với nhau. Xuất phát từ những lợi
thế so sánh của Việt Nam và các nước trên thế giới, trong giai đoạn đầu này, Việt Nam
sẽ sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm thô và sản phẩm nông nghiệp, một số sản phẩm
sử dụng nhiều lao động, công nghệ trung bình, sử dụng ít vốn ngoại tệ thu được thông
qua hoạt động xuất khẩu đó, Việt Nam sẽ có tiền đề cho hoạt động nhập khẩu tư liệu
sản xuất và công nghệ. Thông qua việc ứng dụng các tư liệu sản xuất và công nghệ
tiên tiến sẽ góp phần giúp Việt Nam đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá hiện đại
hoá đất nước.
Đại hội Đảng lần thứ VII (6/1991) đã xác định đường lối đối ngoại: “độc lập tự
chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá”, và sau Đại hội Đảng lần thứ VIII (7/1996) là: “Xây
dựng một nền kinh tế mới hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất
khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu…Chủ động tham gia cộng đồng thương mại thế
giới, các diễn đàn, các tổ chức, các định chế quốc tế một cách có chọn lọc với bước đi
thích hợp”.
Tuy nhiên, Việt Nam cũng như các quốc gia đang phát triển khác, chiến lược
phát triển trong tương lai phải nhanh chóng chuyển từ việc sản xuất và xuất khẩu các
sản phẩm thô, sản phẩm sơ chế sang sản phẩm chế biến. Muốn vậy, ta cần phải đẩy
mạnh tính hiệu quả từ hoạt động xuất khẩu; đặc biệt là các mặt hàng chủ lực bởi các
mặt hàng này hiện chiếm một tỷ trọng rất lớn trong cơ cấu hàng xuất khẩu của nước ta.
Đề tài này sẽ nghiên cứu về thực trạng và từ đó tập trung đề ra các biện pháp thúc
đẩy hoạt động xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của nước ta.
Về kết cấu nội dung của đề án, nội dung đề án chia làm 2 phần (ngoài lời mở đầu
và kết luận) như sau:
Phần I: Cơ sở lý luận chung (Tổng quan về lý thuyết)
1- Vai trò của xuất khẩu hàng hoá
2- Các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu
Phần II: Thực trạng và giải pháp
1- Thực trạng: Tình hình xuất khẩu các mặt hàng chủ lực (doanh số, thị
trường)
2- Các vấn đề trong hoạt động xuất khẩu các mặt hàng chủ lực
3- Các giải pháp
Để có thể hoàn thành được vấn đề nghiên cứu đặt ra này với tư cách là đề án của
môn học Kinh Tế Thương Mại, em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình, tận
tụy của Thầy giáo, Thạc sỹ Nguyễn Việt Cường; nhờ đó mà đề án này được hoàn
thành một cách trọn vẹn hơn.
Phần I: Tổng quan về lý thuyết
1/ Vai trò của xuất khẩu:
Khái niệm hàng xuất khẩu: Hàng hoá xuất khẩu được hiểu gắn với khái niệm
thương mại hàng hoá theo quy ước của Liên Hợp Quốc và WTO là những sản phẩm
hàng hoá hữu hình được sản xuất hoặc gia công tại các cơ sở sản xuất và các khu chế
xuất với mục đích tiêu thụ tại thị trường ngoài nước (xuất khẩu) đi qua hải quan
Hàng tạm nhập tái xuất cũng được coi là hàng hoá xuất khẩu, hàng hoá quá cảnh
không thuộc diện khái niệm hàng hoá xuất khẩu.
Vai trò của xuất khẩu hàng hoá đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia:
- Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hoá hiện
đại hoá đất nước.
Công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu để
khắc phục tình trạng nghèo và chậm phát triển của nước ta. Để công nghiệp hoá đất
nước trong một thời gian ngắn, đòi hỏi phải có số vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc,
thiết bị, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến.
Nguồn vốn nước ngoài có thể được hình thành từ các nguồn như: Đầu tư nước
ngoài, vay nợ, viện trợ, các hoạt động du lịch, xuất khẩu sức lao động…tuy vậy, các
nguồn này không ổn định và phải trả bằng cách này hay cách khác ở thời kỳ sau này.
Nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu, đẩy mạnh công nghiệp hoá đất nước là xuất
khẩu. Xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng trưởng của nhập khẩu.
- Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất
phát triển.
Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ. Đó
là thành quả của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế
thế giới là tất yếu đối với nước ta.
Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác phát triển thuận lợi hơn. Ví dụ, khi
phát triển ngành dệt xuất khẩu sẽ tạo cơ hội đầy đủ cho việc phát triển ngành sản xuất
nguyên liệu như bông, thuốc nhuộm; phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm
xuất khẩu (dầu, thực vật, chè..) sẽ kéo theo sự phát triển của ngành công nghiệp chế
tạo ra thiết bị phục vụ cho nó.
Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường hàng tiêu thụ, góp phần cho sản
xuất phát triển ổn định.
Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng
cao năng lực sản xuất trong nước.
Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng
lực sản xuất trong nước. Xuất khẩu là phương tiện quan trọng tạo ra vốn và kỹ thuật,
công nghệ từ bên ngoài vào Việt Nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế đất nước, tạo ra
một năng lực sản xuất mới.
Qua xuất khẩu, hàng hoá nước ta sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh thị trường quốc
tế về giá và lượng; do vậy, ta sẽ phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất
phù hợp, thích nghi được với thị trường.
Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công
việc quản trị sản xuất và kinh doanh.
Xuất khẩu đóng góp tích cực vào việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện
đời sống của nhân dân. Việc sản xuất hàng xuất khẩu sẽ thu hút hàng triệu lao động
vào làm việc và có thu nhập khá; việc xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn nhập khẩu vật
phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng ngày một linh hoạt hơn nhu cầu
tiêu dùng của nhân dân.
Ngoài ra, xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối
ngoại của đất nước. Bản thân xuất khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại. Có thể
hoạt động xuất khẩu có sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác, tạo điều kiện
thúc đẩy các quan hệ này phát triển. Chẳng hạn xuất khẩu và công nghiệp sản xuất
hàng xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế,… mặt
khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại này phát triển lại tạo những điều kiện thuận
lợi khác cho mở rộng xuất khẩu, đó là mối quan hệ biện chứng giữa các hoạt động này.
2/ Các biện pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu
Thị trường cho xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam cũng như nhiều nước khác luôn
luôn gặp khó khăn. Vấn đề thị trường không phải vấn đề của một nước cá biệt nào mà
là vấn đề trọng yếu của nền kinh tế thị trường. Do vậy, việc hình thành một hệ thống
các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu trở thành công cụ quan trọng nhất để chiếm lĩnh thị
trường nước ngoài, nhằm hỗ trợ sản xuất hàng xuất khẩu với những chi phí thấp, tạo
điều kiện cho người xuất khẩu tự do cạnh tranh trên thị trường nước ngoài.
Các nhóm biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu bao gồm:
- Nhóm biện pháp liên quan đến tổ chức nguồn hàng, cải biến cơ cấu xuất khẩu
- Nhóm biện pháp tài chính
- Nhóm biện pháp thể chế - tổ chức.
2.1 Các biện pháp lớn để tạo nguồn hàng và cải biến cơ cấu xuất khẩu
Xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực.
Mặc dù có chính sách đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu, một nước không chỉ
chuyên vào xuất khẩu một vài sản phẩm, nhưng các quốc gia đều có chính sách xây
dựng các mặt hàng chủ lực- những con chủ bài của kinh tế ngoại thương.
Trong nền kinh tế thương mại của một nước, người ta thường chia các mặt hàng
xuất khẩu thành các loại : hàng xuất khẩu chủ lực, hàng xuất khẩu quan trọng và hàng
xuất khẩu thứ yếu.
Hàng xuất khẩu quan trọng là hàng chiếm tỷ trọng không cao trong kim ngạch
xuất khẩu, nhưng đối với từng thị trường, từng địa phương lại có vị trí quan trọng.
Hàng thứ yếu gồm nhiều loại, kim ngạch của chúng thường nhỏ.
Hàng chủ lực là loại hàng chiếm vị trí quyết định trong kim ngạch xuất khẩu do
có thị trường ngoài nước và điều kiện sản xuất trong nước thuận lợi.
Vấn đề xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đã được Nhà nước đề ra từ cuối
những năm 1960. Tuy nhiên, chỉ mới gần đây, khi chúng ta tiếp xúc mạnh mẽ với nền
kinh tế thị trường của thế giới, chúng ta mới thực sự chú trọng đến vấn đề này một
cách nghiêm túc.
Sự hình thành của Hàng xuất khẩu chủ lực: Trước hết, nó được hình thành qua
quá trình thâm nhập vào thị trường nước ngoài, qua những cuộc cọ sát cạnh tranh
mãnh liệt trên thị trường thế giới. Cuộc hành trình này đi vào thị trường thế giới kéo
theo việc tổ chức sản xuất trong nước trên quy mô lớn với chất lượng phù hợp với đòi
hỏi của người tiêu dùng. Nếu đứng vững được thì mặt hàng đó liên tục phát triển. Do
vậy, một mặt hàng chủ lực ra đời ít nhất cần có 3 yếu tố cơ bản:
1- Có thị trường tiêu thụ tương đối ổn định và luôn cạnh tranh được trên thị
trường đó.
2-Có nguồn lực để tổ chức sản xuất và sản xuất với chi phí thấp để thu được lợi
trong buôn bán.
3- Có khối lượng kim ngạch lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của đất nước.
Vị trí của mặt hàng xuất khẩu chủ lực không phải là vĩnh viễn. Một mặt hàng ở
thời điểm này có thể được coi là hàng xuất khẩu chủ lực, nhưng ở thời điểm khác thì
không, có thể chỉ là hàng xuất khẩu quan trọng. Ví dụ, vào những năm 1960 thì than
có thể được coi là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam nhưng đến nay thì không
mà có thể coi dầu thô là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta.
Vai trò của việc xây dựng các mặt hàng chủ lực:
- Mở rộng qui mô sản xuất trong nước, trên cơ sở đó kéo theo việc chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, mở rộng và làm phong phú thị trường nội
địa.
- Tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu.
- Tạo điều kiện giữ vững, ổn định thị trường xuất nhập khẩu
- Tạo cơ sở vật chất để mở rộng các quan hệ hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật
với các nước bên ngoài.
Gia công xuất khẩu
Gia công: là sự cải tiến đặc biệt các thuộc tính riêng của các đối tượng lao động
(vật liệu) được tiến hành một cách có sáng tạo và có ý thức nhằm đạt được một giá trị
sử dụng mới nào đó (theo từ điển kinh tế-CHDC Đức).
Gia công xuất khẩu là một hoạt động mà một bên-bên đặt hàng-giao nguyên vật
liệu, có thể cả máy móc, thiết bị và chuyên gia cho bên nhận gia công để sản xuất ra
một mặt hàng mới theo yêu cầu của bên đặt hàng. Sau khi sản xuất xong, bên đặt hàng
nhận hàng hoá đó từ bên nhận gia công và trả tiền công cho bên làm hàng gọi là hoạt
động gia công. Khi hoạt động gia công vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia thì gọi
là gia công xuất khẩu.
Như vậy gia công xuất khẩu là đưa các yếu tố sản xuất (chủ yếu là nguyên liệu)
từ nước ngoài về để sản xuất hàng hoá, nhưng không phải để tiêu dùng trong nước mà
để xuất khẩu thu ngoại tệ chênh lệch do tiền công đem lại. Gia công xuất khẩu gồm:
gia công sản phẩm công nghiệp xuất khẩu (cả tiểu thủ công nghiệp) và gia công sản
phẩm nông nghiệp xuất khẩu (cả trồng trọt và chăn nuôi).
Lợi ích của gia công xuất khẩu
Gia công xuất khẩu góp phần giải quyết công ăn việc làm cho nhân dân, góp phần
tăng thu nhập quốc dân và đặc biệt tăng nguồn thu ngoại tệ; thúc đẩy các cơ sở sản
xuất trong nước nhanh chóng thích ứng với đòi hỏi của thị trường thế giới, cải tiến quy
trình sản xuất trong nước theo kịp trình độ quốc tế; tạo điều kiện thâm nhập thị trường
các nước tránh hoặc giảm thiểu những biện pháp hạn chế nhập khẩu do các nước đề ra
(như tiêu chuẩn kỹ thuật); khắc phục khó khăn do thiếu nguyên liệu để sản xuất các
mặt hàng xuất khẩu, đặc biệt là trong ngành công nghiệp nhẹ, tranh thủ vốn và kỹ
thuật của nước ngoài.
Những điểm cần lưu ý trong gia công xuất khẩu
Về mặt hàng gia công: Tập trung vào những mặt hàng tiêu dùng truyền thống như
thủ công mỹ nghệ, công nghiệp nhẹ, cũng như một số ngành lắp ráp hàng công nghiệp
tiêu dùng.
Về lựa chọn khách hàng gia công: Tìm đến những khách hàng có nhu cầu gia
công lớn, có tính chất lâu dài và ổn định.
Giải quyết một số khó khăn trong nước như: đầu tư thiết bị, máy móc hiện đại
cho các cơ sở gia công; khắc phục tình trạng làm ăn tuỳ tiện của các cơ sở gia công về
quy cách, phẩm chất, thời gian giao hàng,…
Đầu tư cho xuất khẩu
Trong một nền kinh tế mà sản xuất nhỏ còn là phổ biến, để tăng nhanh nguồn
hàng xuất khẩu, chúng ta không thể chờ vào việc thu gom những của cải tự nhiên,
cũng không thể chỉ dựa vào việc thu mua những sản phẩm thừa mà bấp bênh của nền
sản xuất nhỏ, phân tán hoặc bằng lòng với năng lực sản xuất của các cơ sở công
nghiệp hiện có mà cần phải xây dựng thêm nhiều cơ sở sản xuất mới tạo ra nguồn
hàng xuất khẩu dồi dào, tập trung, có chất lượng cao hơn, đạt tiêu chuẩn quốc tế. Do
đó, đầu tư vốn là biện pháp cần được ưu tiên để gia tăng xuất khẩu.
Trước khi ra quyết định đầu tư, cần làm rõ những vấn đề : Sự cần thiết và mức độ
cần thiết phải đầu tư; quy mô đầu tư và hiệu quả đầu tư.
Nguồn vốn đầu tư cho sản xuất hàng xuất khẩu ở nước ta hiện gồm vốn đầu tư
trong nước và vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nguồn vốn từ bên ngoài là quan trọng
nhưng đầu tư cho xuất khẩu cần khai thác từ các nguồn vốn trong nước là chủ yếu
(vốn Nhà nước và vốn tư nhân).
Thu hút nguồn vốn tư nhân là việc lâu nay chưa được nhiều người coi trọng
tương đương với việc bỏ qua một nguồn lực hết sức tiềm năng. Việc Nhà nước ban
hành luật đầu tư trong nước sẽ là cơ sở pháp lý để các thành phần kinh tế năng động an
tâm bỏ vốn ra đầu tư, nhất là đầu tư vào sản xuất ra hàng xuất khẩu. Nhà nước cần có
các chính sách khuyến khích bỏ vốn đầu tư ra hàng xuất khẩu, các chính sách thể hiện
sự ưu tiên như: Cho phép vay vốn với lãi suất thấp (lãi suất ưu đãi, giảm hoặc miễn
nộp thuế giá trị gia tăng một số năm; những sản phẩm tiềm năng làm ra những năm
đầu chưa có lãi hoặc lãi suất thấp (so với kinh doanh trong nước) Nhà nước có thể áp
dụng chính sách trợ cấp có điều kiện,…
Lập các khu chế xuất (KCX)
KCX là khu vực công nghiệp tập trung chuyên sản xuất hàng xuất khẩu và thực
hiện các dịch vụ sản xuất hàng xuất khẩu và xuất khẩu.
Tính đến đầu năm 2003 đã có trên 100 KCX trên thế giới; riêng ở Đông Nam và
Nam á có tới hơn 40 KCX. Nhà nước ta đã cấp giấy phép cho xây dựng các KCX Sóc
Sơn (Hà Nội), KCX Hải Phòng, KCX Tân Thuận (Tp HCM),… và một số khu khác
đang được xem xét.
Hoạt động của KCX là nơi tập trung sản xuất hàng hoá xuất khẩu và dịch vụ các
mặt, do chủ đầu tư chủ yếu là người nước ngoài đảm nhận. Vật tư nguyên liệu để sản
xuất đều mang từ nước ngoài vào và cũng có thể là tài nguyên của nước sở tại bán cho
chủ đầu tư sau khi qua các thủ tục của nước chủ nhà.
KCX là một đô thị độc lập, là một khu kinh tế xuất khẩu và là nơi giao dịch
thương mại quốc tế. Trong KCX, mọi sinh hoạt, mua bán đều sử dụng ngoại tệ và
ngoại tệ này cấm không được lưu hành rộng rãi trong nội địa. Vì vậy, KCX phải được
tách biệt với nội địa bằng các ranh giới thiên nhiên hoặc nhân tạo. Sự giao lưu giữa
KCX với nội địa được kiểm soát chặt chẽ.
Những lợi ích của KCX: Thu hút vốn và công nghệ, tăng cường khả năng xuất
khẩu tại chỗ, góp phần giải quyết việc làm cho người lao động,góp phần hội nhập kinh
tế nước chủ nhà với nền kinh tế thế giới và các nước trong khu vực.
2.2 Nhóm các biện pháp tài chính, tín dụng nhằm khuyến khích sản xuất và
đẩy mạnh xuất khẩu
Những biện pháp chủ yếu: Tín dụng xuất khẩu; trợ cấp xuất khẩu; áp dụng chính
sách tỉ giá hợp lý; miễn, giảm hoặc hoàn lại thuế.
Nhà nước đảm bảo tín dụng xuất khẩu
Để chiếm lĩnh thị trường nước ngoài, nhiều doanh nghiệp thực hiện việc bán chịu
và trả chậm hoặc dưới hình thức tín dụng hàng hoá với lãi suất ưu đãi đối với người
mua hàng nước ngoài. Việc bán hàng như vậy thường có những rủi ro (do nguyên
nhân kinh tế hoặc chính trị) dẫn đến sự mất vốn. Trong trường hợp đó, để khuyến
khích các doanh nghiệp mạnh dạn xuất khẩu hàng bằng cách bán chịu, quỹ bảo hiểm
xuất khẩu của Nhà nước có thể đứng ra bảo hiểm, đền bù nếu bị mất vốn. Tỉ lệ đền bù
có thể lên đến 100% vốn bị mất, nhưng thường ở mức 60-70% khoản tín dụng để các
nhà xuất khẩu phải quan tâm đến việc kiểm tra khả năng thanh toán của các nhà nhập
khẩu và quan tâm đến việc thu tiền bán hàng sau khi hết thời hạn tín dụng.
Nhà nước đứng ra đảm bảo tín dụng xuất khẩu, ngoài việc thúc đẩy xuất khẩu còn
nâng được giá bán hàng bởi giá bán chịu bao gồm cả giá bán trả tiền ngay và phí tổn
đảm bảo lợi tức. Đây là một hình thức khá phổ biến trong chính sách ngoại thương của
nhiều nước để mở rộng xuất khẩu, chiếm lĩnh thị trường.
Nhà nước thực hiện cấp tín dụng xuất khẩu
Nhà nước trực tiếp cho nước ngoài vay tiền với lãi suất ưu đãi để nước vay sử
dụng số tiền đó mua hàng của nước cho vay. Nguồn vốn cho vay thường lấy từ ngân
sách Nhà nước. Việc cho vay này thường kèm theo các điều kiện kinh tế và chính trị
có lợi cho nước cho vay.
Tác dụng: Giúp cho doanh nghiệp nước cho vay đẩy mạnh được xuất khẩu vì sẵn
có thị trường. Các nước cho vay thường là những nước có tiềm lực kinh tế, hình thức
Nhà nước cấp tín dụng cho nước ngoài trên khía cạnh nào đó giúp các nước này giải
quyết tình trạng dư thừa hàng hoá ở trong nước.
Nhà nước cấp tín dụng cho doanh nghiệp xuất khẩu trong nước. Vốn bỏ ra cho
việc sản xuất và thực hiện các hợp đồng xuất khẩu thường là rất lớn. Người xuất khẩu
cần có được một số vốn cả trước khi giao và sau khi giao hàng để thực hiện một hợp
đồng xuất khẩu. Nhiều khi người xuất khẩu cũng cần có thêm vốn để kéo dài các
khoản tín dụng ngắn hạn mà họ dành cho người mua nước ngoài. Đặc biệt, khi bán
hàng theo phương thức bán chịu thu tiền hàng xuất khẩu sau thì việc cấp tín dụng xuất
khẩu trước khi giao hàng hết sức quan trọng.
Nhiều chương trình phát triển xuất khẩu không thể thiếu được việc cấp tín dụng
của Chính phủ theo những điều kiện ưu đãi. Điều đó càng làm giảm bớt chi phí xuất
khẩu. Các ngân hàng thường hỗ trợ cho các chương trình xuất khẩu bằng cách cung
cấp tín dụng ngắn hạn trong giai đoạn trước và sau khi giao hàng. Vấn đề đặt ra là làm
sao để đảm bảo mọi lô hàng xuất khẩu đều có thể được cấp tín dụng cả trước và sau
khi giao hàng. Người xuất khẩu cần có được các loại bảo đảm về tài chính của phía
ngân hàng bằng các loại trái phiếu, hoặc là sự bảo lãnh của ngân hàng,…Điều đó có
nghĩa là cần có sự bảo lãnh đối với hầu hết 100% các dịch vụ xuất khẩu một cách gián
tiếp, khâu này còn phụ thuộc vào khả năng và uy tín của người xuất khẩu.
Trợ cấp xuất khẩu
Là những ưu đãi tài chính mà Nhà nước dành cho người xuất khẩu khi họ bán
được hàng hoá ra thị trường nước ngoài. Mục đích của sự trợ cấp là giúp nhà xuất
khẩu tăng thu nhập, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu và do đó
đẩy mạnh được xuất khẩu. Có hai loại trợ cấp cho xuất khẩu, đó là
- Trợ cấp trực tiếp: áp dụng thuế suất ưu đãi đối với mặt hàng xuất khẩu, miễn
hoặc giảm thuế đối với các nhà xuất khẩu; cho các nhà xuất khẩu được hưởng các giá
ưu đãi cho đầu vào của sản xuất như điện, nước, thông tin liên lạc, vận tải, trợ giá xuất
khẩu
- Trợ cấp gián tiếp: dùng ngân sách Nhà nước để giới thiệu, triển lãm, quảng cáo,
tạo điều kiện cho các giao dịch xuất khẩu hoặc giúp đỡ kỹ thuật và đào tạo chuyên gia
Chính sách tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái: là giá cả tại đó mà ngoại