Tiểu luận Thực trạng và giải pháp nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại Bình Dương

Trong tình hình hiện nay, khi mà Việt Nam đã trở thành một thành viên của tổ chức thương mại lớn nhất thế giới – WTO, có thể nói chúng ta đang đứng trước muôn vàn những cơ hội để phát triển nền kinh tế nước nhà, để đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp phát triển. Tuy nhiên, để thực hiện được những mục tiêu trên, chúng ta phải dựa vào rất nhiều yếu tố. Chỉ dùng nội lực của mình thôi thì không đủ, chúng ta phải biết tận dụng ngoại lực một cách tối đa. Chính vì thế, để tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế phát triển thì vấn đề thu hút vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN) cần phải được chú trọng một cách đặc biệt. “Làm sao để “kéo” các nhà đầu tư về phía mình”. Đó là một câu hỏi mà cả Chính phủ lẫn các địa phương đang ra sức giải đáp. Trong số các địa phương thành công nhất trong chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài, chúng ta không thể không nhắc đến tỉnh Bình Dương. Bình Dương là một trong tứ giác phát triển kinh tế trọng điểm của phía Nam cùng với Thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Đồng Nai. Do đó, Bình Dương đóng vai trò rất quan trọng trong kế hoạch phát triển kinh tế của miền Nam nói riêng và của cả nước nói chung. Với chính sách ưu đãi, những kế hoạch “thu hút vốn” đúng đắn, rõ ràng và có tính khả thi cao, Bình Dương đã tạo được lòng tin của các nhà đầu tư. Thông qua đó, tỉnh đã thu hút được một số vốn đáng kể từ các nhà đầu tư nước ngoài để tạo điều kiện phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Bình Dương còn chưa tương xứng với tiềm năng do nhiều nguyên nhân khác nhau.

doc31 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4748 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực trạng và giải pháp nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại Bình Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN MỤC LỤC NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN 0 MỤC LỤC 1 LỜI MỞ ĐẦU 3 CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN 5 1.1 Một số khái niệm liên quan: 5 1.1.1. Vốn đầu tư nước ngoài: 5 1.1.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI = Foreign Direct Investment): 5 1.1.3. Đầu tư gián tiếp nước ngoài (ODA= Official Development Assistance) 6 1.1.4. Đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI = Foreign Portfolio Investment) 8 1.2 Giới thiệu về tỉnh Bình Dương: 9 1.2.1 Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên: 9 1.2.2 Kinh tế: 10 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG 12 2.1 Tình hình thu hút vốn FDI tại Bình Dương: 12 2.2 Những ưu đãi dành cho các nhà đầu tư: 14 2.3 Một số dự án lớn mới dược cấp phép đầu tư gần đây: 17 CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP 20 3.1 Những giải pháp nhằm tăng cao khả năng thu hút vốn FDI: 20 3.1.1 Về luật pháp, chính sách: 20 3.1.2 Về thủ tục hành chính: 20 3.1.3 Về xúc tiến đầu tư (XTĐT) và hợp tác quốc tế: 20 3.1.4 Về lao động - tiền lương: 21 3.1.5 Về kết cấu hạ tầng: 21 3.2. Những kiến nghị của Nhóm 3 đối với tỉnh Bình Dương: 22 3.2.1 Về vấn đề Pháp lý – Hành chính: 22 3.2.2 Về chính sách khuyến khích đầu tư: 23 3.3.3 Về nguồn nhân lực 23 3.3.4 Về cơ sở hạ tầng: 24 3.3.5 Đa dạng hóa các kênh thu hút vốn đầu tư: 24 3.3.6. Đẩy mạnh công tác marketing, kêu gọi nhà đầu tư: 25 TỔNG KẾT 26 PHỤ LỤC 1: 27 PHỤ LỤC 2:………………………………………………………………29 PHỤ LỤC 3:………………………………………………………………32 TÀI LIỆU THAM KHẢO 30 LỜI MỞ ĐẦU T rong tình hình hiện nay, khi mà Việt Nam đã trở thành một thành viên của tổ chức thương mại lớn nhất thế giới – WTO, có thể nói chúng ta đang đứng trước muôn vàn những cơ hội để phát triển nền kinh tế nước nhà, để đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp phát triển. Tuy nhiên, để thực hiện được những mục tiêu trên, chúng ta phải dựa vào rất nhiều yếu tố. Chỉ dùng nội lực của mình thôi thì không đủ, chúng ta phải biết tận dụng ngoại lực một cách tối đa. Chính vì thế, để tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế phát triển thì vấn đề thu hút vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN) cần phải được chú trọng một cách đặc biệt. “Làm sao để “kéo” các nhà đầu tư về phía mình”. Đó là một câu hỏi mà cả Chính phủ lẫn các địa phương đang ra sức giải đáp. Trong số các địa phương thành công nhất trong chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài, chúng ta không thể không nhắc đến tỉnh Bình Dương. Bình Dương là một trong tứ giác phát triển kinh tế trọng điểm của phía Nam cùng với Thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Đồng Nai. Do đó, Bình Dương đóng vai trò rất quan trọng trong kế hoạch phát triển kinh tế của miền Nam nói riêng và của cả nước nói chung. Với chính sách ưu đãi, những kế hoạch “thu hút vốn” đúng đắn, rõ ràng và có tính khả thi cao, Bình Dương đã tạo được lòng tin của các nhà đầu tư. Thông qua đó, tỉnh đã thu hút được một số vốn đáng kể từ các nhà đầu tư nước ngoài để tạo điều kiện phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Bình Dương còn chưa tương xứng với tiềm năng do nhiều nguyên nhân khác nhau. Là những sinh viên theo học về lĩnh vực kinh tế, đứng trước sự chuyển mình hội nhập của đất nước. Nhóm 3 - ĐHQT 2A đã cùng nghiên cứu và rút ra một số nhận xét, một số quan điểm của riêng mình về vấn đề trên. Bài Tiểu luận: “Thực trạng và giải pháp nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại Bình Dương” sẽ trình bày những nhận xét và quan điểm ấy với hi vọng sẽ giúp các bạn, cũng như từng cá nhân trong nhóm tích lũy được thêm nhiều kiến thức, kinh nghiệm cho quá trình học tập sau này. Chắc chắn với kiến thức và kinh nghiệm chưa đầy đủ, Bài Tiểu luận sẽ khó tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong quý Thầy cô và các bạn giúp đỡ, đóng góp những ý kiến, chia sẻ kinh nghiệm để Bài Tiểu luận thêm hoàn chỉnh. Nhóm 3 – ĐHQT 2A CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN Một số khái niệm liên quan: Vốn đầu tư nước ngoài: Ngoại trừ việc sử dụng nguồn vốn trong nước để phát triển kinh tế thì việc sử dụng và quản lý tốt nguồn vỗn nước ngoài cũng là một chìa khóa quan trọng đối với sựu phát triển của một quốc gia. Có 3 hình thức vốn đầu tư nước ngoài: + Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) + Đầu tư gián tiếp nươc ngoài (FPI) + Hình thức hỗ trợ phát triển (ODA) Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI = Foreign Direct Investment): Là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này. Lợi ích từ FDI: + Bổ sung cho nguồn vốn trong nước. + Tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý: Thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia sẽ giúp một nước có cơ hội tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý kinh doanh mà các công ty này đã tích lũy và phát triển qua nhiều năm và bằng những khoản chi phí lớn + Tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu: Khi thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia, không chỉ xí nghiệp có vốn đầu tư của công ty đa quốc gia, mà ngay cả các xí nghiệp khác trong nước có quan hệ làm ăn với xí nghiệp đó cũng sẽ tham gia quá trình phân công lao động khu vực. Chính vì vậy, nước thu hút đầu tư sẽ có cơ hội tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu thuận lợi cho đẩy mạnh xuất khẩu. + Tăng số lượng việc làm và đào tạo nhân công: Thu hút các DN nước ngoài đến sản xuất kinh doanh tại đất nước mình giúp cho ngừoi lao động gia tăng thu nhập, nâng cao trình độ kỹ thuật và nhận thức. + Nguồn thu ngân sách lớn: các khoản thu từ thuế từ các DN có vốn đầu tư nước ngoài sẽ là một nguồn thu lớn. Đầu tư gián tiếp nước ngoài (ODA= Official Development Assistance) Được xem như là viện trợ chính thức. Các khoản đầu tư này thường là các khoản cho vay không lãi suất hoặc lãi suất thấp với thời gian vay dài mà các nước hoặc các tổ chức thế giới dành cho một nước nào đó. Những quốc gia có nguồn vốn ODA lớn:  Hình 1.1: Danh sách các nước cung cấp ODA lớn trên thế giới, 2004. Ưu điểm của ODA: + Lãi suất thấp (dưới 2%, trung bình từ 0.25%năm). + Thời gian cho vay cũng như thời gian ân hạn dài (25-40 năm mới phải hoàn trả và thời gian ân hạn 8-10 năm). + Trong nguồn vốn ODA luôn có một phần viện trợ không hoàn lại, thấp nhất là 25% của tổng số vốn ODA. Nhược điểm của ODA: + Về kinh tế, nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận một số những “điều kiện” mà nước cung cấp ODA đưa ra theo tiến trình giải ngân như: hàng rào thuế quan bảo hộ các ngành công nghiệp trong nước và bảng thuế xuất nhập khẩu hàng hoá của nước tài trợ. Nước tiếp nhận ODA cũng được yêu cầu từng bước mở cửa thị trường bảo hộ cho những danh mục hàng hoá mới của nước tài trợ; yêu cầu có những ưu đãi đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài như cho phép họ đầu tư vào những lĩnh vực hạn chế, có khả năng sinh lời cao. + Nguồn vốn ODA từ các nước giàu cung cấp cho các nước nghèo cũng thường gắn với việc mua các sản phẩm từ các nước này mà không hoàn toàn phù hợp, thậm chí là không cần thiết đối với các nước nghèo. Ví như các dự án ODA trong lĩnh vực đào tạo, lập dự án và tư vấn kỹ thuật, phần trả cho các chuyên gia nước ngoài thường chiếm đến hơn 90% (bên nước tài trợ ODA thường yêu cầu trả lương cho các chuyên gia, cố vấn dự án của họ quá cao so với chi phí thực tế cần thuê chuyên gia như vậy trên thị trường lao động thế giới). + Nguồn vốn viện trợ ODA còn được gắn với các điều khoản mậu dịch đặc biệt nhập khẩu tối đa các sản phẩm của họ. Cụ thể là nước cấp ODA buộc nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận một khoản ODA là hàng hoá, dịch vụ do họ sản xuất. + Nước tiếp nhận ODA tuy có toàn quyền quản lý sử dụng ODA nhưng thông thường, các danh mục dự án ODA cũng phải có sự thoả thuận, đồng ý của nước viện trợ, dù không trực tiếp điều hành dự án nhưng họ có thể tham gia gián tiếp dưới hình thức nhà thầu hoặc hỗ trợ chuyên gia. + Tác động của yếu tố tỷ giá hối đoái có thể làm cho giá trị vốn ODA phải hoàn lại tăng lên. + Ngoài ra, tình trạng thất thoát, lãng phí; xây dựng chiến lược, quy hoạch thu hút và sử dụng vốn ODA vào các lĩnh vực chưa hợp lý; trình độ quản lý thấp, thiếu kinh nghiệm trong quá trình tiếp nhận cũng như xử lý, điều hành dự án… khiến cho hiệu quả và chất lượng các công trình đầu tư bằng nguồn vốn này còn thấp... có thể đẩy nước tiếp nhận ODA vào tình trạng nợ nần. Đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI = Foreign Portfolio Investment) Là hình thức đầu tư gián tiếp xuyên biên giới. Nó chỉ các hoạt động mua tài sản tài chính nước ngoài nhằm kiếm lời. Hình thức đầu tư này không kèm theo việc tham gia vào các hoạt động quản lý và nghiệp vụ của doanh nghiệp giống như trong hình thức Đầu tư trực tiếp nước ngoài. Ưu điểm của FPI: + Góp phần làm tăng nguồn vốn trên thị trường vốn nội địa và làm giảm chi phi vốn thông qua việc đa dạng hoá rủi ro. + Thúc đẩy sự phát triển của hệ thống tài chính nội địa. + Thúc đẩy cải cách thể chế và nâng cao kỷ luật đối với các chính sách của chính phủ. Nhược điểm của FPI: + Nếu dòng FPI vào tăng mạnh, thì nền kinh tế tiếp nhận dễ rơi vào tình trạng phát triển quá nóng (bong bóng), nhất là các thị trường tài sản tài chính của nó. + Vốn FPI có đặc điểm là di chuyển (vào và ra) rất nhanh, nên no sẽ khiến cho hệ thống tài chính trong nước dễ bị tổn thương và rơi vào khủng hoảng tài chính một khi gặp phải các cú sốc từ bên trong cũng như bên ngoài nền kinh tế. + FPI làm giảm tính độc lập của chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái. Trong khuôn khổ của bài tiểu luận, nhóm chỉ xin đề cập đến nguồn vốn FDI tại tỉnh Bình Dương. Giới thiệu về tỉnh Bình Dương: Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên: Bình Dương là một tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ được tách ra từ tỉnh Sông Bé cũ từ ngày 1 tháng 1 năm 1997, phía bắc giáp tỉnh Bình Phước, phía nam và tây nam giáp thành phố Hồ Chí Minh, phía tây giáp tỉnh Tây Ninh, phía đông giáp tỉnh Đồng Nai. Tỉnh lỵ của Bình Dương hiện nay là thị xã Thủ Dầu Một, cách trung tâm thành phố Hồ Chí Minh 30 km, lại nằm trên các trục lộ giao thông huyết mạch của quốc gia đã được đầu tư, nâng cấp và mở rộng như Quốc lộ 1, 13, 14, đường sắt Bắc – Nam và tuyến đường xuyên Á. Với diện tích tự nhiên 2.681,01km2 (chiếm 0,83% diện tích cả nước và xếp thứ 42/61 về diện tích tự nhiên), đất đai bằng phẳng, nền địa chất ổn định vững chắc, quỹ đất còn lớn, có nguồn tài nguyên, Bình Dương có nhiều thế mạnh về nông sản, khoáng sản, vật liệu xây dựng đáp ứng cho sản xuất công nghiệp, xuất khẩu. Kinh tế: Vùng đất Bình Dương - Thủ Dầu Một ra đời cùng lúc với lịch sử hình thành Sài Gòn - Đồng Nai, từ thuở Nguyễn Hữu Cảnh "mang gươm đi mở cõi". Bắt đầu những năm 90, với phương châm: “Trải chiếu hoa mời gọi các nhà đầu tư” và các chính sách biện pháp thông thoáng nhằm phát huy tiềm năng thế mạnh sẵn có của tỉnh, Bình Dương phút chốc trở thành địa phương phát triển năng động nhất trong tứ giác kinh tế trọng điểm của cả nước. Để đạt được kết quả khả quan trên, chính sách “trải thảm đỏ” của tỉnh tiếp tục phát huy hiệu quả. Dưới góc nhìn của nhà đầu tư FDI, Bình Dương hội tụ đủ các yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” cộng với hạ tầng công nghiệp được đầu tư tốt nên vẫn là điểm đến lý tưởng để đầu tư. Bình Dương là một trong những địa phương năng động trong kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài. Năm 2008, dù tình hình kinh tế toàn cầu có nhiều biến động theo chiều hướng không thuận lợi, nhưng thành công về kinh tế của tỉnh phải nói đến lĩnh vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Đây là kết quả đáng tự hào và minh chứng Bình Dương vẫn là mảnh đất lành thu hút các doanh nghiệp FDI. Nét nổi bật trong việc thu hút vốn FDI của Bình Dương năm 2008 là xu hướng gia tăng vào lĩnh vực sản xuất sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, ít thông dụng lao động và sản phẩm được sản xuất có khả năng cạnh tranh tốt. Điều này vừa tạo sự cân bằng trong việc thu hút đầu tư và phù hợp với định hướng quy hoạch, phát triển công nghiệp bền vững của Bình Dương. Mục tiêu kinh tế của Bình Dương thời kỳ 2006 -2010 Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Dương lần thứ VIII năm 2006 đã nêu mục tiêu phấn đấu thời kỳ 2006-2010 về kinh tế của tỉnh như sau: Tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân hàng năm là 15%. Quy mô GDP (giá hiện hành) đến năm 2010 đạt khoảng 45.800 tỷ đồng, tương đương 2,9 tỷ USD. GDP bình quân đầu người đạt khoảng 30 triệu đồng. Cơ cấu kinh tế của tỉnh là công nghiệp: 65,5%; dịch vụ: 30%; nông nghiệp: 4,5%. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng bình quân 14-15%/năm. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cả thời kỳ đạt 3 tỷ USD. Theo mục tiêu phấn đấu đến năm 2020, để nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại thì nông nghiệp giảm xuống còn 15-16%, công nghiệp và xây dựng 43-44%, dịch vụ 40-41%. Với tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp luôn ở mức cao như hiện nay là 35%/năm (2001-2005) thì Bình Dương sẽ là một trong những tỉnh về đích trước và sớm trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại. Để đạt được các mục tiêu phát triển này, ngoài nội lực và sự vươn lên của chính mình, Bình Dương mong muốn và mời gọi sự góp sức của bạn bè xa gần, các nhà đầu tư trong và ngoài nước và của tất cả những ai nhận ra Bình Dương là nơi “đất lành chim đậu”. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG Tình hình thu hút vốn FDI tại Bình Dương: Trong những năm gần đây, nền kinh tế Bình Dương phát triển rất ấn tượng, với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm trên 15% và trở thành một trong những tỉnh có nền công nghiệp phát triển năng động nhất trong vùng kinh tế động lực phía Nam và của cả nước. Quá trình phát triển đó có sự đóng góp của nhiều thành phần kinh tế, trong đó thành phần kinh tế có nguồn vốn đầu tư FDI được sử dụng hiệu quả nhất vào quá trình sản xuất công nghiệp, tạo bước đột phá đưa nền kinh tế Bình Dương phát triển với tốc độ cao. Nhằm tận dụng thế mạnh, đón đầu một làn sóng đầu tư mới, Bình Dương đang tiếp tục nỗ lực cải cách hành chính theo cơ chế "một cửa", đơn giản các thủ tục cấp phép, đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến đầu tư nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp đến đầu tư và sản xuất kinh doanh tại địa phương. Tính đến giữa năm 2008, lũy kế vốn đầu tư thực hiện của các doanh nghiệp trong các KCN của tỉnh ước đạt hơn 1,8 tỉ USD, chiếm khoảng 49% số vốn đăng ký. So với năm 2007, số dự án đi vào hoạt động tăng 81 dự án, đạt 135% kế hoạch năm 2008. Năm 2008, FDI chảy vào tỉnh Bình Dương đạt 11 tỉ USD, với tỷ lệ giải ngân đạt 64%. Bình Dương thu hút thêm hơn 2 tỷ USD vốn FDI, kết quả này nâng nguồn vốn FDI trên địa bàn tỉnh lên gần 11 tỷ USD với hơn 1.800 dự án, bình quân 6 triệu USD/dự án, nhưng số vốn các dự án đầu tư đã tăng lên so với trước. Có 37 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào tỉnh; các quốc gia, vùng lãnh thổ đứng đầu về số lượng dự án và vốn đầu tư là  Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore, Nhật Bản, Malaysia... Riêng quý 1 năm 2009, Bình Dương thu hút thêm 314,7 triệu USD vốn FDI, trong đó có 21 dự án đầu tư mới với tổng vốn hơn 206 triệu USD, và 28 dự án bổ sung vốn thêm hơn 108 triệu USD. Tuy ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế khiến cho mức thu hút này chỉ bằng 46% cùng kỳ, nhưng cũng đã đánh dầu được sự nổi trội của Bình Dương khi mà lượng tiền và số dự án trên cả nước có nguồn vốn này giảm 40% so với cùng kỳ. Trong những năm gần đây, các KCN Bình Dương tiếp tục phát triển, nhiều KCN mới được thành lập, nâng tổng số KCN quy hoạch đến năm 2010 là 24 KCN (không kể 2 KCN Việt Nam – Singapore 1, 2) với tổng diện tích được phê duyệt là 6.840,68 ha (tăng gấp 1,4 lần so với cùng kỳ), trong đó bao gồm 21 KCN hiện hữu với tổng diện tích 5.130 ha và 3 KCN mới có chủ trương đầu tư như KCN Bàu Bàng, KCN An Tây, KCN Bình Dương Xanh. Chủ đầu tư của 21 KCN đã tập trung 908 tỷ đồng cho việc đầu tư cơ sở hạ tầng, tập trung chủ yếu ở các KCN mới như Kim Huy, Mỹ Phước 3, Đồng An II, Sóng Thần 3. Trong số này, các KCN có tỷ lệ thực hiện vốn đầu tư cao là Sóng Thần 2, Đồng An II, Sóng Thần 3. Xu hướng thu hút đầu tư chuyển hướng tập trung vào các ngành cơ khí, điện, điện tử từ các nhà đầu tư Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ; đặc biệt thu hút đầu tư đã tập trung chủ yếu vào KCN Mỹ Phước, nơi có cơ sở hạ tầng khá hoàn chỉnh. Đứng đầu quốc gia, vùng lãnh thổ đầu tư là Hàn Quốc với 21 dự án và xếp theo vốn đầu tư thì Thái Lan dẫn đầu. Công tác xúc tiến đầu tư được tăng cường và là hoạt động thường xuyên, liên tục; bước đầu, đã thu hút được một số nhà đầu tư đến từ Hoa Kỳ và Châu Âu, tuy số lượng còn ít, nhưng ngành nghề đầu tư vào KCN có công nghiệp cao như cơ khí, công nghiệp điện, điện tử. Điều này, đã góp phần trong việc định hướng ngành nghề, thu hút đầu tư vào các KCN trong thời gian tới. Lũy kế đến nay các KCN Bình Dương có 730 dự án đầu tư còn hiệu lực, trong đó 250 dự án có vốn đầu tư trong nước (bao gồm cả các chi nhánh) và 480 dự án có vốn đầu tư nước ngoài. Vốn đầu tư thực hiện của các doanh nghiệp là 1.511.382.794 USD (đạt 51% tổng vốn đầu tư đăng ký). Các chỉ tiêu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp KCN đạt kết quả cao, doanh thu đạt 56,76% kế hoạch năm. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nổi trội hơn với doanh thu tăng gần 48%, kim ngạch xuất khẩu tăng 86,87%, kim ngạch nhập khẩu tăng 61,97% và nộp thuế tăng 101,32% so với cùng kỳ. Hiện có 493 doanh nghiệp đã đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh (đạt tỷ lệ 68% trên tổng số doanh nghiệp được cấp phép hoạt động) trong đó 307 doanh nghiệp FDI và 186 doanh nghiệp trong nước, giải quyết nhiều việc làm cho hơn 149.000 lao động. So với cùng kỳ năm trước, cả đầu tư trong và ngoài nước vào các KCN đều tăng và vượt hầu hết các chỉ tiêu kế hoạch năm 2007. Những ưu đãi dành cho các nhà đầu tư: Trong buổi hội thảo liên kết phát triển chính sách và cơ chế quản lý vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, khi đề cập đến “Hiện tượng Bình Dương”, tiến sĩ Trần Du Lịch - Viện trưởng Viện Kinh tế TP.HCM, nói: “Về chính sách thu hút đầu tư, chính quyền Bình Dương có một sự trọng thị thật sự. Tôi cảm nhận tỉnh rất khát khao mời gọi các nhà đầu tư. Và, lãnh đạo tỉnh nhận thức được rằng, muốn vậy, phải đổi mới cơ chế, thủ tục hành chính, xây dựng hạ tầng kinh tế và xã hội tốt nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho nhà đầu tư”. Quả đúng như nhận định của tiến sĩ Trần Du Lịch, nếu không khát khao, không trọng thị thu hút đầu tư thì đã không thể có "nét riêng Bình Dương", được các nhà đầu tư "gắn" nhãn mác "thương hiệu Bình Dương". Bởi suy cho cùng, Bình Dương không thể thoát ra khỏi những quy định chung của Nhà nước trong lĩnh vực kêu gọi, thu hút vốn FDI. Nên phải tạo nét riêng cho mình. Nét riêng đó là gì? Ở Bình Dương, lãnh đạo tỉnh luôn “xắn tay áo” sát cánh cùng nhà đầu tư. Bình Dương coi tất cả những khó khăn, vướng mắc của nhà đầu tư chính là khó khăn, vướng mắc của tỉnh để cùng hợp tác cải thiện môi trường đầu tư cho lành mạnh và thông thoáng hơn. Cụ thể, về cấp phép đầu tư, chỉ trong vòng 3 ngày trở lại kể từ khi nộp hồ sơ (ở một số địa phương khác từ 15-30 ngày), các DN sẽ có trong tay giấy phép đầu tư. Sở Kế hoạch - Đầu tư là đầu mối thực hiện cơ chế một cửa, giải quyết tất cả những thủ tục cho các nhà đầu tư. Bình Dương còn được Bộ Kế hoạch - Đầu tư ủy quyền xét cấp phép các dự án từ 40 triệu USD trở xuống (ngay như TP.HCM cũng chưa nhận được “đặc cách” này).   Giám đốc một công ty cơ khí ở KCN Sóng Thần I cho hay: là một người ở TP.HCM, ban đầu ông định lập nhà máy hoạt động tại một KCN ở TP.HCM. Tuy nhiên, để hoạt động, công ty phải chờ cấp phép trong thời gian 30 ngày; còn để có đất xây dựng nhà xưởng thì được chủ đầu tư KCN trả lời rất mơ hồ: khi nào có đất, chúng tôi sẽ báo. Trong khi đó ở Bình Dương: “Chỉ 3 ngày là chúng tôi được cấp phép và được giao đất ngay. Bởi vậy, chúng tôi không ngần ngại tìm đến đây, dù phải chấp nhận trả một khoản chi phí vận chuyển cao hơn".  Tương tự, ông Kim Yong Min - Tổng giám đốc Công ty TNHH Pukyong (Hàn Quốc) chuyên sản xuất loa và xi mạ, nói rằng, trước khi đầu tư vào Việt Nam, công ty đã thăm dò, khảo sát một số nơi. Cuối cùng, công ty quyết định đầu tư vào Bình Dương với 3 lí do: thái độ trọng thị nhà đầu tư của lãnh đạo tỉnh, cơ chế thủ tục thông thoáng và dịch vụ đi kèm tại các KCN tốt. Ông John Brudsall - Giám đốc Cô
Luận văn liên quan