Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Thực hiện chủ trương này diện tích đất cho sản xuất nông nghiệp của nhiều địa phương đã bị thu hẹp lại để dành cho phát triển công nghiệp. Kéo theo đó có nhiều vấn đề phát sinh đặt ra cho lãnh đạo các ngành, các cấp phải nghiên cứu và giải quyết.
Thời gian vừa qua, việc làm nông thôn phụ thuộc chủ yếu vào đất đai canh tác. Thiếu đất canh tác, ở mức độ nào đó, đồng nghĩa với việc thiếu việc làm của lao động nông thôn và đặc biệt là lao động phi nông nghiệp. Tình trạng thiếu việc làm hay còn gọi là thất nghiệp bộ phận, bán thất nghiệp là đặc trưng phổ biến của lao động nông thôn. Khu vực nông thôn chiếm khoảng 70% lực lượng lao động của cả nước, trong đó thường xuyên có gần 30% lao động thiếu việc làm, phổ biến là thiếu mang tính thời vụ.
Mấy năm gần đây, tình trạng nông nhàn trở thành vấn đề xã hội nổi cộm vì đó là một trong những nguyên nhân đầu tiên dẫn đến di chuyển lao động nông thôn mang tính thời vụ để tìm kiếm thêm việc làm và tăng thu nhập. Đặc biệt, trong điều kiện gia tăng tình trạng thiếu việc làm trong toàn nền kinh tế thì vấn đề lao động nông nhàn ở nông thôn ngày càng trở nên bức bách. Đó là nguồn bổ sung đáng lo ngại vào lực lượng lao động thiếu việc làm nói chung và làm tăng thêm dòng người di dân, di chuyển lao động từ vùng này đến vùng khác, từ nông thôn ra thành thị. Dẫn tới nhiều tệ nạn xã hội và tội phạm có chiều hướng gia tăng.
12 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3771 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Thực trạng và giải pháp sử dụng lao động nông nghiệp nông thôn khi mất đất hiện nay tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận
Thực trạng và giải pháp sử dụng lao động nông nghiệp nông thôn khi mất đất hiện nay tại Việt Nam
Họ và tên học Viên nhóm 2:
1. Lê Quang Đại
2. Đặng Đình Đạm
3. Hoàng Trọng Đông
4. Quán Vi Giang
5. Nguyễn Thị Thu Hà
6. Trần Thị Thu Hà
7. Nguyễn Huy Hải
I. Đặt vấn đề
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Thực hiện chủ trương này diện tích đất cho sản xuất nông nghiệp của nhiều địa phương đã bị thu hẹp lại để dành cho phát triển công nghiệp. Kéo theo đó có nhiều vấn đề phát sinh đặt ra cho lãnh đạo các ngành, các cấp phải nghiên cứu và giải quyết...
Thời gian vừa qua, việc làm nông thôn phụ thuộc chủ yếu vào đất đai canh tác. Thiếu đất canh tác, ở mức độ nào đó, đồng nghĩa với việc thiếu việc làm của lao động nông thôn và đặc biệt là lao động phi nông nghiệp. Tình trạng thiếu việc làm hay còn gọi là thất nghiệp bộ phận, bán thất nghiệp là đặc trưng phổ biến của lao động nông thôn. Khu vực nông thôn chiếm khoảng 70% lực lượng lao động của cả nước, trong đó thường xuyên có gần 30% lao động thiếu việc làm, phổ biến là thiếu mang tính thời vụ.
Mấy năm gần đây, tình trạng nông nhàn trở thành vấn đề xã hội nổi cộm vì đó là một trong những nguyên nhân đầu tiên dẫn đến di chuyển lao động nông thôn mang tính thời vụ để tìm kiếm thêm việc làm và tăng thu nhập. Đặc biệt, trong điều kiện gia tăng tình trạng thiếu việc làm trong toàn nền kinh tế thì vấn đề lao động nông nhàn ở nông thôn ngày càng trở nên bức bách. Đó là nguồn bổ sung đáng lo ngại vào lực lượng lao động thiếu việc làm nói chung và làm tăng thêm dòng người di dân, di chuyển lao động từ vùng này đến vùng khác, từ nông thôn ra thành thị. Dẫn tới nhiều tệ nạn xã hội và tội phạm có chiều hướng gia tăng.
II. Cơ sở lý luận và thực tiễn
Nông thôn Việt nam có nguồn lao động dồi dào và tiềm năng, là nơi cung cấp và hậu thuẫn đắc lực về nguồn nhân lực cho các khu đô thị và khu công nghiệp. Thế nhưng, tồn tại một thực tế đối với lao động nông thôn hiện nay là thị trường lao động tại khu vực này chưa thực sự phát triển, nó còn phân mảng, phân tán và sơ khai. Bản thân lao động nông thôn chưa có cơ hội phát huy khả năng cống hiến của mình cho sự nghiệp phát triển nông thôn. Đây là thách thức lớn đối với chính lao động nông thôn cũng như các nhà làm chính sách trước yêu cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông thôn nhất là khi đất nước thực hiện công nghiệp hoá làm thu hẹp dần diện tích đất nông nghiệp và tăng tỷ lệ lao động nông nghiệp không có việc làm.
Ở Việt Nam, đại bộ phận dân cư tập trung sinh sống ở khu vực nông thôn, tính đến ngày 1/7/2002, dân số cả nước là 79,93 triệu người, thì dân số nông thôn là 60,05 triệu người (75,13%). Số người trong độ tuổi lao động là 35,44 triệu, khoảng 59% dân số, trong đó 30,9 triệu người tham gia vào lực lượng lao động. Tốc độ tăng dân số bình quân hơn 10 năm qua là 1,7%, mức tăng trung bình của số người trong độ tuổi lao động là 2,6% năm.
Khu vực nông thôn đang tập trung một số lượng lớn lực lượng lao động của cả nước và với tốc độ tăng khoảng hơn 2,5% năm. Nhưng thời gian trung bình chưa sử dụng của cả nước có xu hướng giảm xuống, nếu năm 1998 là 29,12% thì năm 2002 còn 24,46%. Với lực lượng lao động ở nông thôn năm 2002 là 30,98 triệu người và thời gian chưa sử dụng trung bình cả nước là 24,46 %, nếu quy đổi thì sẽ tương đương đương khoảng 7,5 triệu người không có việc làm.
Cơ cấu của lao động hiện nay ở nông thôn Việt Nam vẫn thể hiện tính thuần nông. Trong tổng số 12 triệu hộ dân ở khu vực nông thôn thì có tới 81% làm việc trong lĩnh vực nông-lâm- thuỷ sản, chỉ có 16,1% làm việc ở khu vực phi nông nghiệp. Trong khi đó diện tích đất cho nông nghiệp quá chật hẹp. Với 12 triệu hộ gia đình, nhưng chỉ có 9,4 triệu ha đất nông nghiệp. Bình quân mỗi hộ chỉ 0,7-0,8ha, mỗi lao động 0,3ha và mỗi nhân khẩu 0,15ha. Ở Đồng bằng Bắc Bộ, con số này còn nhỏ hơn, chỉ 360m2/khẩu. Nếu chia ra, tất cả các hoạt động ăn, ở, đi lại, sinh hoạt hàng ngày của một người nông dân ở Bắc Bộ chỉ dựa vào... 1m2 đất.
Chưa kể, nông dân - đối tượng đông nhất trong xã hội - lại ít được đào tạo nghề nên tỷ lệ thất nghiệp ở mức báo động, trên 83% lao động ở nông thôn chưa qua đào tạo bất kỳ chuyên môn gì (con số từ Bộ LĐTB-XH), trong khi tỷ lệ này ở thành thị là 49%. 20% lao động ở nông thôn thất nghiệp, tương đương khoảng 4,8 triệu người, cộng thêm hàng triệu thanh niên bước vào độ tuổi lao động mỗi năm.
Với tốc độ đô thị hoá cùng với việc phát triển các khu công nghiệp đang diễn ra, khi mỗi ha đất nông nghiệp bị "xà xẻo" sẽ kéo theo 13 người rơi vào cảnh không có việc làm. Điển hình, mỗi năm, Hà Tây có 28.000-30.000 lao động đổ ra thành thị kiếm sống, trong khi con số này phải "Nam tiến" ở Quảng Nam là 46.000 người.
III. Thực trạng
Thực tiễn xây dựng và phát triển các khu công nghiệp (KCN) ở nước ta trong những năm qua cũng đang đặt ra nhiều vấn đề đối với sự phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Những người “làm KCN” lẫn người nông dân chưa tính hết được những vấn đề phát sinh sau khi “KCN hoá”. Vậy, quá trình xây dựng và phát triển các KCN đã ảnh hưởng như thế nào đến nông nghiệp, nông thôn và nông dân nước ta.
1. Tác động của việc phát triển các KCN tới Nông nghiệp
Đến nay, việc xây dựng và phát triển các KCN ở nước ta những năm qua đã sử dụng 43.687 ha đất nông nghiệp (chưa kể diện tích đất xây dựng các khu kinh tế mở). Nếu tính cả phần diện tích đất nông nghiệp được chuyển đổi mục đích sử dụng vào việc đô thị hoá xung quanh các KCN thì con số này còn cao hơn nhiều lần. Mặc dù diện tích canh tác nông nghiệp có giảm do phải dành một phần quỹ đất để xây dựng các KCN, song kinh tế nông nghiệp vẫn có sự phát triển liên tục với nhịp độ tăng trưởng từ 4,5%-5%. Năm 2007, sản lượng lương thực đạt 39.977 nghìn tấn, tăng 5.704 nghìn tấn so với năm 2001, bình quân mỗi năm tăng 950 ngàn tấn. Hàng năm nước ta vẫn xuất khẩu khoảng 3,5-4 triệu tấn gạo. Nhờ đó mà an ninh lương thực ở nước ta được bảo đảm.
Đạt được kết quả đó là do những năm qua các KCN đã thu hút được hàng ngàn dự án hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh các sản phẩm nông nghiệp hoặc sử dụng sản phẩm nông nghiệp như công nghiệp thực phẩm, nông-lâm-thuỷ sản; sản xuất phân bón, nông dược, thức ăn gia súc… Các dự án trên không chỉ trực tiếp đưa đến cho nông nghiệp Việt Nam nguồn vốn phát triển, công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý mà còn gián tiếp, thông qua các mối quan hệ sản xuất, kinh doanh tạo ra những tác động lan truyền, thúc đẩy tăng năng suất lao động và hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Nhiều doanh nghiệp trong KCN đã đem vào Việt Nam nhiều giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao đạt tiêu chuẩn quốc tế; tạo ra những mô hình làm ăn mới, có hiệu quả cao.
Tuy nhiên, xét một cách tổng thể, đến nay đóng góp của các KCN vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngành nông nghiệp chưa thực sự lớn. Vai trò động lực, vai trò kích cầu của các KCN đối với ngành nông nghiệp chưa thể hiện rõ. Hầu hết các địa phương đều có những chương trình, mô hình khuyến khích sự hợp tác giữa nhà nông với doanh nghiệp trong KCN, nhất là vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Nhưng trên thực tế sự hợp tác này còn lỏng lẻo và chưa có hiệu quả. Các sản phẩm nông nghiệp được sản xuất ra không được các doanh nghiệp bao tiêu hết, thường xuyên trong tình trạng canh cánh nỗi lo “được mùa mất giá”; và ngược lại các sản phẩm công nghiệp phục vụ trực tiếp sản xuất nông nghiệp còn thiếu. Một số vật tư nông nghiệp như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật… vẫn phụ thuộc vào hàng hoá nhập khẩu từ nước ngoài.
Bên cạnh đó, việc phát triển các KCN ở nước ta thời gian qua mặc dù đã sử dụng một quỹ đất khá lớn đất nông nghiệp (chủ yếu là những nơi “đắc địa”), nhưng những tác động tích cực trở lại của các KCN đối với sự phát triển nông nghiệp là chưa tương xứng. Hay nói cách khác, lợi ích do phát triển KCN đem lại đối với nông nghiệp chưa xứng với chi phí (cả trước mắt và lâu dài) mà nông nghiệp phải hy sinh để xây dựng các KCN.
2. Tác động của việc phát triển KCN tới nông thôn
Một trong những mục tiêu quan trọng của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là hiện đại hoá nông thôn. Trong quá trình thực hiện mục tiêu này, các KCN đóng vai trò rất quan trọng. Các KCN ở nước ta đã tạo nên một diện mạo nông thôn mới, mang lại văn minh đô thị, góp phần cải thiện đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội cho khu vực rộng lớn được đô thị hoá.
Tuy nhiên, có một thực tế là việc quy hoạch và xây dựng đồng bộ các khu dân cư, hệ thống hạ tầng kỹ thuật-xã hội gắn với các KCN chưa được chú trọng. Điều đó đã dẫn đến một hệ quả là các KCN đã góp phần đô thị hoá nông thôn nhiều hơn là hiện đại hoá nông thôn. Nhiều vấn đề xã hội nổi cộm như trật tự, an ninh, nhà ở, đời sống văn hoá…ở các vùng nông thôn vốn không được trù tính đầy đủ khi lập quy hoạch và đánh giá các tác động của KCN. Vì vậy, sau nhiều năm đổi mới, bộ mặt nông thôn nước ta nói chung, vùng xây dựng KCN nói riêng tuy đã khá hơn trước, nhưng vẫn chưa mang dáng dấp của một nông thôn trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thêm vào đó, cùng với sự phát triển KCN, nông thôn nước ta bắt đầu đang phải đối mặt với vấn đề môi trường do các nhà máy thải ra. Các loại chất thải từ KCN không chỉ ảnh hưởng tới môi trường sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong KCN mà tác hại hơn còn ảnh hưởng tới môi trường và đời sống nhân dân ở các khu vực xung quanh KCN. Theo tính toán, dự kiến khi các KCN đã lấp đầy, các doanh nghiệp thải ra một lượng chất thải lên tới 567.131 m3/ngày đêm. Đây thực sự là một khối lượng nước thải khổng lồ và là một thách thức lớn đối với các KCN trong công tác xử lý. Đó là chưa kể đến hàng chục vạn m3/ngày đêm nước thải sinh hoạt của người lao động trong các doanh nghiệp KCN
3. Tác động của việc phát triển KCN tới việc làm và đời sống nông dân
Theo số liệu thống kê, đến nay, các doanh nghiệp trong KCN đã thu hút trên 1 triệu lao động trực tiếp, và hàng triệu lao động gián tiếp. Tính bình quân 1 ha đất công nghiệp đã cho thuê thu hút 72 lao động. Nếu so với khả năng tạo việc làm thì những con số này chưa phải là lớn, và chưa tương xứng với tiềm năng. Nhưng điều quan trọng đáng nói ở chỗ: phần lớn những lao động này là lao động trẻ ở nông thôn (có đến 90% lao động có độ tuổi từ 18 cho đến 35), có khả năng nhanh chóng tiếp thu kỹ thuật mới.
Việc mở mang các KCN không chỉ góp phần tạo công ăn việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, mà còn góp phần đáng kể vào việc thực hiện xoá đói giảm nghèo, tăng thu nhập, ổn định đời sống cho người lao động ở nông thôn nước ta.
Tuy nhiên, việc phát triển các KCN tất yếu phải đi liền với việc thu hồi đất, mà chủ yếu là đất nông nghiệp của một bộ phận nông dân. Điều này đang đẩy hàng chục vạn nông dân rơi vào cảnh mất đất, mất việc làm và chưa tìm được việc làm mới. Trong số hơn 1 triệu lao động được thu hút vào làm việc trong các KCN, liệu có bao nhiêu phần trăm trong số đó là nông dân bị thu hồi đất và con em của họ! Điều này cũng dễ hiểu vì các doanh nghiệp KCN cần tuyển dụng lao động có trình độ, đã được đào tạo theo từng nghề nhất định, trong khi đó phần đông nông dân chỉ biết nghề làm ruộng, chăn nuôi ở trình độ thấp, hoặc nghề thủ công truyền thống; chưa có tác phong làm việc công nghiệp. Đây là một mâu thuẫn và là vấn đề xã hội phát sinh khá gay gắt hiện nay ở nông thôn, dẫn đến những điểm “nóng” về mặt xã hội cần phải giải quyết trong thời gian tới.
Việc thu hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng đất vừa mang tính chất kinh tế vừa mang tính chất xã hội lớn, phức tạp. Nếu chỉ giải quyết được mặt kinh tế của vấn đề mà lại làm trầm trọng thêm mặt xã hội thì hiệu quả kinh tế sẽ rất hạn chế, nếu không muốn nói là không thành công.
Con số thống kê cho thấy, hiện nay trung bình mỗi hộ nông dân có 1,5 lao động, việc thu hồi đất nông nghiệp và đất ở trong những năm qua đã tác động đến khoảng 950.000 lao động. Với một lượng lớn lao động như vậy, việc giải quyết việc làm gặp vô vàn khó khăn. Hầu hết các tỉnh đều thừa nhận, lượng lao động bị thu hồi đất nông nghiệp vào làm tại các khu công nghiệp có thể... đếm trên đầu ngón tay. Mặc dù các doanh nghiệp cũng có đăng tuyển dụng lao động, nhưng một lượng lớn lao động địa phương chỉ làm được một thời gian rồi lại bỏ.
Nguyên nhân một phần do các doanh nghiệp trả lương thấp (lao động phổ thông), một phần cũng phải kể đến một số doanh nghiệp “ma” lợi dụng sức lao động, yêu cầu người lao động thử việc 2-3 tháng với mức lương hoặc là thấp hoặc không trả lương khiến người lao động bỏ, ở nhà... còn hơn”.
Tuy nhiên, cũng phải kể đến, phần lớn lao động tại khu vực nông thôn hiện nay đều rơi vào độ tuổi đã khá cao, trên 35 tuổi. Do vậy, tâm lý trồng lúa đã ăn sâu, bén rễ, chuyện học nghề để chuyển đổi chẳng khác nào... đánh đố. Hơn nữa, để học những nghề đòi hỏi nhiều chất xám thì người nông dân khó tiếp thu, còn đào tạo nghề đơn giản thì doanh nghiệp không chấp nhận. Thành thử, những trường, trung tâm dạy nghề được mở tại những vùng có diện tích thu hồi đất nông nghiệp lớn rơi vào tình trạng “dở khóc, dở cười”. Nơi thì không đủ học viên vào học phải đóng cửa hoặc hoạt động cầm chừng, nơi thì hầu như toàn học viên từ các tỉnh khác, nơi khác về học.
Một thực trạng đáng buồn nữa, do trình độ hạn chế, sau khi bị thu hồi đất có tới 67% nông dân vẫn giữ nguyên nghề sản xuất nông nghiệp, 13% chuyển sang nghề mới và khoảng 20% khác không có việc làm hoặc có việc làm nhưng không ổn định. Số nông dân bị thu hồi đất không tìm được công việc mới, quay lại làm nghề nông lại đối mặt với nỗi lo không có đất để cấy cày, rơi vào cảnh thất nghiệp... Đơn thuần, không có đất canh tác, lại không kiếm được công việc mới nên thu nhập của 37% số hộ nông dân bị thu hồi đất bị sụt giảm so với trước đây, và chỉ có 13% số hộ có thu nhập tăng hơn trước.
Thêm vào đó, những hộ nông dân giao đất để xây dựng các KCN, sau khi nhận được tiền đền bù hay hỗ trợ sử dụng chúng theo nhiều cách khác nhau. Có nhiều gia đình biết dùng số tiền đó để đào tạo lại chuyển đổi ngành nghề, nhanh chóng ổn định được cuộc sống và tạo tiềm năng để phát triển kinh tế lâu dài. Nhưng cũng có không ít gia đình sau khi nhận được tiền đền bù đã sử dụng không hiệu quả, tiêu xài hoang phí, chủ yếu dùng để xây nhà, mua sắm để sau một thời gian ngắn hết tiền, mất kế sinh nhai lâu dài, cuộc sống trở nên khó khăn hơn cả khi chưa bị thu hồi đất. Do đó, chuyện nhận tiền đền bù vài trăm triệu đồng nhưng chỉ sau 1-2 năm lại trở thành hộ nghèo.
Không chỉ nguy cơ thất nghiệp, nghèo đói đe dọa người nông dân bị mất đất sản xuất mà nó còn kéo theo nhiều hệ lụy khác. Chẳng hạn vấn đề an ninh nông thôn cũng bị xáo trộn đáng kể khi có một lượng lớn người thất nghiệp tại địa phương, cùng với một lượng lớn lao động từ các nơi khác đổ về....
IV. Một số giải pháp và kết luận
1 - Đào tạo, dạy nghề cho lao động mất việc làm do chuyển đổi mục đích sử dụng đất để thu hút họ vào các khu công nghiệp, khu chế xuất hoặc du nhập nghề mới ở địa phương bị thu hồi đất.
Nhu cầu sử dụng lao động ở các khu công nghiệp, khu chế xuất rất lớn, nên việc đào tạo, dạy nghề cho lao động mất việc làm là hướng trọng điểm.Trước hết, cần chú trọng phát triển mở rộng dạy bổ túc văn hóa cho lao động trẻ, khỏe dưới 35 tuổi để họ có đủ trình độ vào các lớp đào tạo tập trung theo học những nghề mà khu công nghiệp, khu chế xuất... cần tuyển dụng.
Mô hình tạo việc làm thông qua du nhập ngành nghề thủ công và hình thành, phát triển làng nghề được các địa phương Hải Dương và Vĩnh Phúc, Hà Tây... rất chú trọng. Các nghề thu hút được nhiều người vào làm việc như: dệt chiếu, mây tre đan, gốm sứ, chế biến thực phẩm, sản xuất đồ gỗ, hàng thêu, thảm... Những nghề này thu nhập còn thấp nhưng dễ học và quy mô sản xuất có thể mở rộng, sản phẩm được mua, bán trao đổi với số lượng lớn trên thị trường trong nước và cả quốc tế, đem lại nguồn lợi cho người lao động và tăng thu nhập ngân sách địa phương.
Lao động nông thôn rất cần được đào tạo, dạy nghề, họ cần có trình độ chuyên môn và cập nhật kiến thức để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước. Vì vậy, chiến lược phát triển nguồn nhân lực, đầu tư giáo dục cho học sinh nông thôn ngay từ nhỏ là rất cần thiết. Các kiến thức thực tế phải luôn được cập nhật và tăng thời gian thực hành. Tiến tới phổ cập giáo dục ở bậc trung học cơ sở thay vì phổ cập ở cấp Tiểu học như hiện nay. Ngay từ thời học sinh các em cũng cần được biết đến Luật pháp, Luật lao động, quan hệ lao động, kỷ luật lao động, … là thế nào. Lao động trẻ nông thôn hiện nay không chỉ thiếu kiến thức chuyên môn mà kiến thức xã hội, giao tiếp cộng đồng, phát triển bản thân còn nhiều khiếm khuyết. Ở họ dạy nghề không thôi chưa đủ mà cần đưa cả kỹ năng sống vào chương trình giảng dạy, giúp họ có được tác phong làm việc nghiêm túc, tuân thủ kỷ luật lao động và có tinh thân đồng đội khi làm việc ở bất cứ môi trường nào, dù là làm công, tự làm hay làm cho gia đình.
Muốn vậy công tác giảng dạy, đào tạo luôn phải đổi mới, cập nhật và chuẩn hóa giáo trình cũng như đội ngũ giáo viên đồng thời bám sát nhu cầu thị trường chứ không dạy tràn lan, dẫn đến dư thừa cục bộ và gây lãng phí xã hội. Những năm gần đây, công tác dạy nghề đã có nhiều tiến triển, nhiều lao động đã ý thức được việc học nghề và số người tham gia các khóa đào tạo tăng lên rõ rệt. Tuy nhiên mạng lưới dạy nghề vẫn chưa bao phủ được hết các địa phương cấp huyện và rất cần sự trợ giúp của các ngành, các cấp. Phấn đấu mỗi huyện có một cơ sở dạy nghề và được trang bị các thiết bị cần thiết phục vụ công tác đào tạo theo yêu cầu của xã hội.
Chương trình đầu tư cơ sở vật chất của Tổng cục dạy nghề còn đang tập trung cho các trường trọng điểm dạy nghề, chưa thể đồng loạt triển khai xuống hết các địa phương như mong muốn được. Mới đây chúng ta lại có chính sách và chương trình dạy nghề cho thanh niên nông thôn; dạy nghề và chuyển đổi nghề cho nông dân vùng mất đất và dân tộc thiểu số v.v., nhiều địa phương đã triển khai tốt việc này. Song một số nơi thực hiện chưa tốt. Nguyên nhân một phần do cán bộ địa phương chưa nắm rõ nhu cầu thực tế của đối tượng để áp dụng linh hoạt, cũng có thể do chương trình chưa bám sát nhu cầu thực tế của người muốn học và một phần do khả năng tiếp thu hạn chế của người được học.
Tình trạng này tiếp diễn sẽ hạn chế đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật và chuyển giao công nghệ thích hợp vào phát triển sản xuất ở nông thôn. Vì vậy, rất cần những cán bộ kỹ thuật kiên trì bám sát cơ sở, hướng dẫn chỉ bảo kỹ thuật theo cách cầm tay chỉ việc và hướng dẫn đầu bờ trong thời gian dài, giúp họ tin tưởng và tuân thủ hướng dẫn kỹ thuật đã được dạy, đặc biệt đối với đồng bào dân tộc thiểu số
2 - Thu hút lao động mất việc làm vào các khu công nghiệp, khu chế xuất và khuyến khích các hộ gia đình dành tiền nhận đền bù vào việc học nghề tạo việc làm
Việc thu hút lao động mất việc làm do bị thu hồi đất vào các khu công nghiệp phụ thuộc vào các quy định cụ thể ràng buộc với các chủ dự án sử dụng đất để họ cam kết sử dụng lao động tại chỗ. Các chính sách thu hút lao động vào khu công nghiệp cần được nhanh chóng sửa đổi cho phù hợp. Có cơ chế hỗ trợ cho các trung tâm dạy nghề tại địa phương để đào tạo nghề có địa chỉ và đạt chất lượng cao. Đối với các hộ bị thu hồi đất, tiền đền bù là tài sản quý giá nên cần phải được tuyên truyền, hướng dẫn họ sử dụng hợp lý. Chính quyền các cấp cần giúp đối tượng này lựa chọn ngành nghề đào tạo mà các khu công nghiệp đang cần tuyển dụng lao động. Cùng với hỗ trợ tiền đào tạo từ ngân sách địa phương, nên khuyến khích các hộ sử dụng tiền được đền bù để cho con em họ, học nghề, học ngoại ngữ... và tạo điều kiện cho họ đi lao động xuất khẩu, khuyến khích lao động xuất khẩu gửi tiền về đầu tư vào sản xuất kinh doanh, tạo việc làm.
3 - Với đối tượng người lao động tuổi từ trên 35, khó có khả năng chuyển đổi nghề nghiệp khi bị thu hồi đất, Nhà nước cần có chính sách dành cấp một phần đất trong hoặc sát với khu công nghiệp để tổ chức các hoạt động dịch vụ
Biện pháp này nếu được triển khai có hiệu quả sẽ tạo ra hệ thống dịch vụ mới như xây nhà cho thuê, bán hàng hóa tiêu dùng, dịch vụ ăn uống, sửa chữa phương tiện xe đạp, xe