Tiểu luận Tìm hiểu chung về vấn đề nhân quyền

Bao giờ cũng vậy, nhân quyền là một vấn đề cực kỳ nhạy cảm, và gần như luôn luôn tồn tại trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ, không những là trong giai đoạn sau năm 1975 mà còn dai dẳng đến tận ngày nay. Năm nào Hoa Kỳ cũng ra một bản báo cáo nhân quyền – được coi là “đứa con tinh thần” – trong đó, Mỹ phê phán, chỉ trích, phán xét nước này có nhân quyền không, nước nọ có dân chủ không; và Việt Nam ta chưa bao giờ bị Mỹ bỏ quên trong bản báo cáo nhân quyền ấy. Mặc kệ cho bao nhiêu lời phản đối gay gắt từ những nước bị nêu tên trong báo cáo, Việt Nam thì đưa ra lời phản đối quyết liệt, Trung Quốc thì đưa ra bản báo cáo tình hình nhân quyền ngay trên đất Mỹ; bản báo cáo nhân quyền hằng năm vẫn tiếp tục, và không ai có thể phủ nhận vấn đề này đang ảnh hưởng đến sự phát triển mối quan hệ đang tốt đẹp giữa Mỹ và Việt Nam. Hiện nay, vấn đề nhân quyền giữa Mỹ và Việt Nam chủ yếu tập trung ở bản báo cáo nhân quyền hằng năm và diễn biến hòa bình. Trước khi bình thường hóa, vấn đề này lại tập trung chủ yếu ở những người lính Mỹ mất tích trong chiến tranh, vấn đề Campuchia (trước năm 1989), vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng . và diễn biến hòa bình. Ngay sau chiến tranh Việt Nam – Hoa Kỳ, tình hình thế giới rơi vào cục diện đối đầu hai phe trong chiến tranh lạnh, có thể có những cơ hội bị bỏ lỡ, có thể có những tính toán hơn thua, bạn thù, ưu tiên trong chính sách đối ngoại giữa hai nước.

pdf14 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3017 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu chung về vấn đề nhân quyền, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận Tìm hiểu chung về vấn đề nhân quyền LỜI MỞ ĐẦU Bao giờ cũng vậy, nhân quyền là một vấn đề cực kỳ nhạy cảm, và gần như luôn luôn tồn tại trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ, không những là trong giai đoạn sau năm 1975 mà còn dai dẳng đến tận ngày nay. Năm nào Hoa Kỳ cũng ra một bản báo cáo nhân quyền – được coi là “đứa con tinh thần” – trong đó, Mỹ phê phán, chỉ trích, phán xét nước này có nhân quyền không, nước nọ có dân chủ không; và Việt Nam ta chưa bao giờ bị Mỹ bỏ quên trong bản báo cáo nhân quyền ấy. Mặc kệ cho bao nhiêu lời phản đối gay gắt từ những nước bị nêu tên trong báo cáo, Việt Nam thì đưa ra lời phản đối quyết liệt, Trung Quốc thì đưa ra bản báo cáo tình hình nhân quyền ngay trên đất Mỹ; bản báo cáo nhân quyền hằng năm vẫn tiếp tục, và không ai có thể phủ nhận vấn đề này đang ảnh hưởng đến sự phát triển mối quan hệ đang tốt đẹp giữa Mỹ và Việt Nam. Hiện nay, vấn đề nhân quyền giữa Mỹ và Việt Nam chủ yếu tập trung ở bản báo cáo nhân quyền hằng năm và diễn biến hòa bình. Trước khi bình thường hóa, vấn đề này lại tập trung chủ yếu ở những người lính Mỹ mất tích trong chiến tranh, vấn đề Campuchia (trước năm 1989), vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng…. và diễn biến hòa bình. Ngay sau chiến tranh Việt Nam – Hoa Kỳ, tình hình thế giới rơi vào cục diện đối đầu hai phe trong chiến tranh lạnh, có thể có những cơ hội bị bỏ lỡ, có thể có những tính toán hơn thua, bạn thù, ưu tiên trong chính sách đối ngoại giữa hai nước. Nhưng phải nhìn nhận thực tế là cho dù để ngỏ cơ hội bình thường hóa, Hoa Kỳ vẫn thi hành chính sách thù địch, bao vây cấm vận đối với Việt Nam. Tình hình thay đổi khi chiến tranh lạnh kết thúc, để ngỏ những cơ hội dành cho Việt Nam và Mỹ. Khi đó, những vấn đề nhân quyền lại nổi lên như một vấn đề nổi cộm, và trở thành một rào cản quan trọng trong tiến trình bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ. Thực ra, vấn đề không phải ở chỗ, Mỹ đã đưa ra bản báo cáo nhân quyền hằng năm, hay những vấn đề nhân quyền còn tồn đọng giữa Việt Nam và Mỹ, những phán xét nhân quyền mà Mỹ áp đặt vào Việt Nam mà là ở chỗ, Mỹ có quyền gì mà làm như vậy? Nhân quyền từ xưa đến nay luôn là một vấn đề nhạy cảm, gắn liền với trình độ phát triển kinh tế, văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc. Nhân quyền có thể có những giá trị chung, nhưng không thể có một chuẩn mực nhất định về nhân quyền cho tất cả các quốc gia. Mỗi quốc gia, dân tộc có đặc điểm văn hóa, tinh thần khác nhau, được hun đúc qua bao đời, thì tất yếu phải có những chuẩn mực nhân quyền khác nhau. Vì thế, không thể đem tất cả quan niệm nhân quyền của quốc gia này làm thước đo để đánh giá nhân quyền ở một quốc gia khác. Trong khi bản thân nước Mỹ là một trong những nước thường xuyên có những vi phạm về nhân quyền ở rất nhiều các lĩnh vực như việc làm, khoảng cách giàu nghèo, dịch vụ công cộng, tù nhân… thì họ lại cũng mặc nhiên coi bản thân là “thiên đường dân chủ”, tự cho mình là quốc gia văn minh nhất, tự do nhất, quyền con người được đảm bảo. Thử hỏi một quốc gia văn minh như thế có để cho hơn 37 triệu lao động thất nghiệp? Có để cho 18% trẻ em bị bần cùng hóa? Dĩ nhiên, câu trả lời là không. Vậy mà, họ vẫn tự cho mình quyền ngồi ở vị trí quan tòa, đặt tất cả nước khác ở vị trí bị cáo và bắt đầu phán xét họ có nhân quyền hay không, bất chấp tất cả những khác biệt về văn hóa, kinh tế, xã hội, trình độ phát triển; thì đây đúng là một nghịch lý rõ rành rành, không thể chối cãi. Ngoài ra, vấn đề nhân quyền, nếu như có vi phạm, thì đó là việc nội bộ của mỗi quốc gia, là chuyện mà mỗi quốc gia, dân tộc tự giải quyết; không cần và cũng không thể có sự can thiệp từ bên ngoài. Sự can thiệp này là trái với luật pháp, thông lệ quốc tế, là vi phạm an ninh, chủ quyền của quốc gia, là không tôn trọng nguyên tắc “không xen vào công việc nội bộ của quốc gia khác”. Chính vì thế, theo tôi, Mỹ hoàn toàn không hề có quyền để phán xét nhân quyền này nọ với quốc gia khác. Điều họ nên làm có lẽ là quay trở lại nước mình, và sửa đổi lại tình hình vi phạm nhân quyền của chính mình, khắc phục những hậu quả khủng khiếp mà họ đang phải gánh chịu từ cuộc khủng hoảng tài chính thế giới chứ không phải đi áp đặt những gì mình muốn lên các quốc gia khác. Vai trò nước lớn của Mỹ trong rất nhiều vấn đề là không thể chối cãi. Trên trường quốc tế, những vấn đề lớn, toàn cầu như thay đổi khí hậu, chiến tranh, xung đột, an ninh lương thực, dân số, đói nghèo… không thể thiếu bóng dáng người Mỹ; nhưng vấn đề nhân quyền lại khác. Nó là một vấn đề phức tạp, phụ thuộc rất nhiều vào văn hóa, trình độ phát triển… chứ không thể đơn giản đi áp đặt một chuẩn mực nào đó lên được, ở đây thậm chí là đem giá trị chuẩn mực phương Tây đem gán vào với những giá trị truyền thống của phương Đông. Thật sự, ngay từ đầu, đây đã là công việc vô lý, vô nghĩa, và vô ích. Nhưng Mỹ vẫn làm, và làm hằng năm, chưa năm nào bỏ lỡ, bất chấp cả mối quan hệ đang tốt đẹp, giao thương đang thuận lợi. Phải chăng đằng sau những bản báo cáo nhân quyền đó là cả một âm mưu xuyên tạc, phá hoại, diễn biến hòa bình? Là một yếu tố thuộc nhóm nhân tố dùng để mặc cả, đôi khi, Hoa Kỳ thường sử dụng để bảo vệ những lợi ích cục bộ, ngắn hạn của một nhóm người tư lợi nào đó. Vấn đề nhân quyền, nhức nhối trong quá khứ, đang đấu tranh ở hiện tại và sẽ còn phải đấu tranh trong tương lai. I. BỐI CẢNH Sau khi cuộc chiến tranh kháng chiến chống đế quốc Mỹ kết thúc, đất nước ta hoàn toàn độc lập, thống nhất; cả nước náo nức cùng bắt tay vào công cuộc khôi phục đất nước sau chiến tranh và xây dựng xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh đó, cho dù vết thương chiến tranh vẫn chưa lành miệng, nhưng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam ta thời kỳ đó, vẫn không loại bỏ khả năng bình thường hóa quan hệ với Mỹ, cho dù là gặp rất nhiều khó khăn – chủ quan cũng như khách quan và thách thức từ nhiều phía. Tuy nhiên, cho dù Mỹ có để ngỏ cơ hội cho Việt Nam bình thường hóa quan hệ vào năm 1976 – 1978, thì song song đó, họ lại thi hành chính sách thù địch, bao vây, phong tỏa, cấm vận đối với Việt Nam. Thực ra, chính sách thù địch ấy là một sự kéo dài của một cuộc chiến tranh chưa từng được chính thức phát động, và cũng chưa từng chính thức kết thúc. Khi mà cả hai bên Mỹ và Việt Nam đều chưa sẵn sàng đối thoại, thì bàn cờ thế giới đã xoay chuyển, lúc này, Trung Quốc đã trở thành ưu tiên hơn đối với Mỹ. Tất nhiên, người Mỹ hoàn toàn không hề muốn làm tổn hại mối quan hệ đang ấm dần lên với Trung Quốc bằng việc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam trong khi Việt Nam và Trung Quốc đang ở thế đối đầu. Có thể, cục diện sẽ không có gì thay đổi đáng kể nếu như không có sự hòa hoãn trong quan hệ giữa hai cực Xô – Mỹ mà điển hình nhất chính là tuyên bố Malta kết thúc chiến tranh lạnh năm 1989 và sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa Đông Âu năm 1991. Sự kiện này đã tác động khá lớn đến quan hệ Mỹ - Việt. Nếu như trước đó, quan hệ giữa hai nước bị chi phối bởi ý thức hệ, bởi sự đối đầu giữa hai phe, thì nay, những yếu tố đó không còn nữa. Hai nước tưởng chừng như có thể dẹp bỏ được rào cản để tiến tới bình thường hóa quan hệ. Nhưng vẫn còn đó những vấn đề nhức nhối, hậu quả của cuộc chiến tàn khốc 30 năm và sự thù địch mà người ta vin vào cái cớ NHÂN QUYỀN để phán xét, để áp đặt những điều kiện, để can thiệp vào công việc nội bộ của ta. Những vấn đề còn tồn đọng trong quan hệ Mỹ - Việt giai đoạn 1989 – 1994 gồm có những vấn đề như MIA – hài cốt lính Mỹ mất tích trong chiến tranh, vấn đề Campuchia, và những vấn đề dân chủ, nhân quyền khác. II. NHỮNG VẤN ĐỀ CÒN TỒN ĐỌNG 1. MIA – Hài cốt lính Mỹ mất tích trong chiến tranh Đây là vấn đề giành được sự ưu tiên rất lớn của Mỹ trong tất cả những cuộc đàm phán của Mỹ và Việt Nam. Theo Hiệp định Paris 1973, 591 tù binh chiến tranh của Mỹ được trở về nhà. Phía Mỹ liệt kê có khoảng 1350 người Mỹ bị cầm tù hoặc mất tích và gần 1200 lính Mỹ bị giết chưa tìm thấy xác. Khoảng 80% người mất tích là phi công bị bắn hạ ở Bắc Việt Nam và Lào, thường là ở vùng núi heo hút, rừng, hoặc sông suối; phần còn lại mất tích trong khi chiến đấu trong rừng. Những điều tra nhằm xác định xem liệu những người mất tích còn sống sót không, và có thể đem di thể của họ về hay không. Những nhà hoạt động MIA đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy những nỗ lực của chính phủ Hoa Kỳ trong việc giải quyết vấn đề người mất tích. Tiến trình của hoạt động này khá chậm, cho đến giữa những năm 1980, khi mà quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam bắt đầu được cải thiện và bắt đầu có nhiều nỗ lực hơn được thực hiện. Bình thường hóa quan hệ Mỹ - Việt là đỉnh cao của tiến trình này. Những điều tra và xét đoán dựa theo một giả thiết là có một số lượng đáng kể những người lính bị lực lượng cộng sản bắt làm tù binh chiến tranh và giam giữ ngay cả sau khi chiến tranh kết thúc vào năm 1973. Một nhóm phát ngôn của POW/MIA thậm chí còn cho rằng có một âm mưu phối hợp giữa chính quyền Việt Nam và chính phủ Hoa Kỳ nhằm che giấu sự tồn tại của những tù nhân này. Chính phủ Mỹ đã nhanh chóng bác bỏ giả thiết này. Rất nhiều những điều tra đã được tiến hành nhằm xem xét vấn đề này, trong đó nổi bật nhất là Hội đồng Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ về vấn đề POW/MIA từ năm 1991 – 1993 dẫn đầu bởi Thượng nghị sĩ John Kerry, Bob Smith, và John McCain. Kết luận mà Hội đồng này tìm ra là “không có một bằng chứng thuyết phục rằng có bất kỳ người Mỹ nào bị bắt giữ còn sống sót trên bán đảo Đông Dương.” Thái độ của Việt Nam trong lĩnh vực này là rất hợp tác. Cho dù là còn rất nhiều những gia đình liệt sĩ chưa tìm thấy nơi an nghỉ, chúng ta vẫn dành nhiều điều kiện thuận lợi về kinh tế, xã hội hết mức có thể, hỗ trợ cho hoạt động của POW/MIA được thuận lợi. Với sự nhiệt tình và hỗ trợ đúng mực của Việt Nam mà Mỹ không thể vin vào cớ MIA nữa, Việt Nam đã giúp họ tìm thấy con em mình vẫn còn nằm trên đất khách, và họ biết ơn về điều đó. Khi tiến trình MIA diễn ra tốt đẹp, thì song song đó, tiến trình bình thường hóa cũng có những bước phát triển tốt đẹp không kém. 2. Vấn đề Campuchia Đây là một vấn đề phức tạp, vì nó liên quan cả đến Trung Quốc và Mỹ. Vai trò của Mỹ trong việc ủng hộ chính quyền Pol Pot không lớn, nó chỉ giới hạn ở những lời tuyên bố thừa nhận sự hợp pháp của chính quyền này mà không phải là chính quyền dân chủ do Việt Nam ta hỗ trợ đưa lên. Tuy nhiên, vấn đề Campuchia lại ảnh hưởng đến tiến trình bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ theo một cách khác. Năm 1976, khi bắt đầu manh nha những cuộc gặp, nói chuyện cấp cao nhằm mục đích bình thường hóa, tuy có những thái độ thù địch song song với những nỗ lực từ phía Hoa Kỳ, chúng ta phải thẳng thắn thừa nhận là đúng thật sự là chúng ta có những cơ hội có thể làm khác đi, không đưa đến những sai lầm nghiêm trọng, đẩy chính mình vào thế bị cô lập về ngoại giao như chúng ta đã làm vào thời kỳ bắt đầu từ năm 1977. Khi chúng ta đưa quân vào Campuchia năm 1978, đã dấy lên một làn sóng phản đối mạnh mẽ và sâu sắc trên thế giới, thậm chí những đồng minh thân thiết đã từng xuống đường biểu tình phản đối chiến tranh Mỹ gây ra ở Việt Nam nay lại tiếp tục xuống đường phản đối việc Việt Nam đưa quân can thiệp vào tình hình Campuchia, và Mỹ đóng một vai trò không nhỏ trong vấn đề này. Đến thời điểm này thì ưu tiên của Mỹ ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương này đã không còn là Việt Nam, mà đã chuyển hẳn sang Trung Quốc rồi. Mỹ tất nhiên không muốn làm tổn thương mối quan hệ mới nhú mầm của mình với Trung Quốc sau một thời gian dài bị ngăn cách bởi chính sách thù địch cứng rắn của các nhà lãnh đạo thời kỳ trước. Trung Quốc đứng đằng sau Pol Pot, Mỹ lại ủng hộ Trung Quốc, cho nên điều tất nhiên là trước trường quốc tế, Mỹ luôn lên tiếng ủng hộ sự hợp pháp của Pol Pot chứ không phải là một chính phủ được thành lập từ sự đấu tranh xương máu của nhân dân Campuchia – chính phủ của Hem Sarin. Có thể nói, những sai lầm trong việc xử lý mối quan hệ với Mỹ thời kỳ 1975 – 1977 đã góp phần không ít trong việc làm tổn hại thêm hình ảnh của Việt Nam trong mắt nhân dân thế giới – nay đã không còn coi Việt Nam là một đại diện chính nghĩa nữa. Mỹ bỏ phiếu tại Liên Hiệp Quốc thúc đẩy Việt Nam rút quân khỏi Campuchia, cổ xúy cho hảnh động bao vây cô lập của các nước phương Tây khác. Dĩ nhiên, trong thời kỳ này, mối quan hệ ngoại giao của Việt Nam với các nước khác rất hạn chế; thậm chí ngay trong nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa đồng minh với Liên Xô, cũng có người không ủng hộ ta, cho rằng ta đang xâm lược Campuchia. Mỹ dĩ nhiên không bỏ qua cơ hội này, họ luôn vin vào cớ Việt Nam chưa rút hết quân ra khỏi Campuchia để làm điều kiện cho bình thường hóa quan hệ, cho rằng đến chừng nào Việt Nam chưa rút hết quân khỏi Campuchia, thì vẫn chưa ngồi vào bàn đàm phán. Vào thời điểm năm 1989, vấn đề Campuchia không phải là một vấn đề nóng sốt gây tranh cãi, làm cho quan hệ Mỹ - Việt xấu đi, hoặc làm ảnh hưởng sâu sắc đến tiến trình bình thường hóa quan hệ nữa. Lúc này, Việt Nam đã rút hết quân ra khỏi Campuchia, không còn can thiệp quá sâu vào công việc của Campuchia nữa. Những luồng dư luận trái chiều chỉ trích Việt Nam đã không còn, và Mỹ cũng không còn cớ để xuyên tạc hành vi nhân đạo mà ta đã tiến hành ở Campuchia thành hành vi xâm lược như trước được nữa. Vấn đề Campuchia sau khi được giải quyết thì sự chính nghĩa của Việt Nam cũng được cộng đồng quốc tế ít nhiều thừa nhận. Sau này, hành động của Việt Nam được xếp vào loại “can thiệp nhân đạo”. Về sau, rất nhiều những hành động tương tự đã lặp lại, không ít lần các nước lớn, thậm chí là lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc đem quân can thiệp vào lãnh thổ của nước khác núp dưới chiêu bài “can thiệp nhân đạo” này. 3. Những vấn đề nhân quyền khác Những vấn đề khác còn tồn đọng trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ trước năm 1994 còn có liên quan đến dân chủ, tự do tôn giáo, tự do báo chí, tự do ngôn luận và diễn biến hòa bình. Trước năm 1986, nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng về nhiều mặt kinh tế, xã hội, chính trị; đặt nước ta vào thế bắt buộc phải lựa chọn cải cách toàn diện đất nước. Tình hình nước ta trước năm 1986 đã bị báo chí của phương Tây, trong đó có Mỹ xuyên tạc, biến nó trở thành một vấn đề xâm phạm đến nhân quyền. Tờ New York Times, cho rằng Việt Nam đang đối mặt với những vấn đề sống còn như bùng nổ dân số, các dịch vụ công cộng tồi tệ, chính phủ không quan tâm đến nhân dân, không thể đáp ứng được những nhu cầu ngày càng cao của xã hội, kỹ năng quản lý yếu kém, hệ thống giáo dục tồi tệ, mức sống thấp, tai nạn giao thông, khoảng cách giàu nghèo, trình độ phát triển giữa miền Nam – miền Bắc ngày càng tăng…. Và nếu Việt Nam không thay đổi xu hướng dân chủ, xã hội, kinh tế Việt Nam có thể phải đối mặt với thảm họa khủng khiếp từ nhiều phía. Vấn đề thuyền nhân vẫn còn dai dẳng đến tận năm 1990, khi mà họ cho rằng những thuyền nhân – những người chạy trốn khỏi đói nghèo là những đối tượng sẽ được đối xử như những người tị nạn chính trị - sẽ có thể đối mặt với sự khủng bố từ chính quyền Việt Nam. Thậm chí Tổ chức Ân xá quốc tế còn cho rằng họ có bằng chứng rằng cảnh sát và cai tù Việt Nam đã hành hung tại các nơi ẩn náu của những thuyền nhân này. Những vấn đề như tự do báo chí, tự do ngôn luận cũng bị những luận điệu xuyên tạc của người Việt phản động lưu vong ở nước ngoài lợi dụng, kích động kiều bào chống lại Tổ quốc, từ những sự việc không có thật mà họ kết luận Việt Nam là chưa đáp ứng được những yêu cầu dân chủ. Hiện nay, ở Việt Nam có 20 triệu người – 1/3 dân số theo các tôn giáo khác nhau, 2/3 còn lại thờ đạo tổ tiên. Việt Nam không hề có sự kỳ thị tôn giáo, xung đột tôn giáo, từ xưa đến nay, những người có tín ngưỡng và không tín ngưỡng vẫn chung sống đoàn kết với nhau. Giả sử, cứ cho là Việt Nam thực hiện “đàn áp tôn giáo”, thì thử hỏi làm sao có thể có đến 500 nhà thờ Tin Lành, Công giáo có thêm tận 6 đại chủng viện từ nằm 1987 – 1994, Giám mục đoàn Việt Nam có số lượng đứng thứ hai châu Á; có 3 trường Đại học Phật giáo…. Cho dù là có tín ngưỡng hay không tín ngưỡng thì việc tuân thủ luật pháp thiết nghĩ là vấn đề tất yếu, chẳng có nơi đây mà công dân lại sống ngoài luật pháp quốc gia, thuần phong mỹ tục và truyền thống văn hóa của dân tộc mình cả. Không thể vì bênh vực một vài cá nhân mà phê phán cả một chính sách đúng đắn. Điều quan trọng là ở Việt Nam chẳng có ai bị bắt giam vì lý do tôn giáo, tín ngưỡng cả. Người Việt Nam được hưởng quyền tự do dân chủ ghi trong Hiến pháp bao gồm cả quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền được thông tin, quyền hội họp, lập hội và biểu tình theo pháp luật. Những nỗ lực của Nhà nước là nhằm tăng cường những quyền đó. Thông qua hàng trăm tờ báo, tạp chí, phương tiện truyền hình… người dân bình thường có đủ điều kiện nói lên quan điểm của mình về tất cả các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội cảu đất nước, phê phán những tiêu cực cảu chính quyền, tham nhũng cảu quan chức công quyền. Và tất nhiên, cũng như đối với bất cứ nước nào, những hành vi lợi dụng tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích nhà nước, làm tổn hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức hoặc công dân khác, đểu phải bị xử lý hình sự. 4. Về vấn đề diễn biến hòa bình Đây thực sự là một cuộc chiến dai dẳng, không những là trong thời kỳ sau chiến tranh, hậu chiến tranh lạnh, bình thường hóa mà ngay cả là trong thời kỳ hiện đại ngày nay, khi mà mối quan hệ Mỹ - Việt đã trở nên rất tốt trong mấy năm gần đây. Diễn biến hòa bình thậm chí được đưa vào những chương trình nghị sự của Mỹ, nhằm mục đích “yêu cầu cải cách dân chủ, tự do hóa chính trị, tôn trọng quyền con người, xây dựng một chính phủ dân chủ, ủng hộ quá trình cải cách dân chủ phi bạo lực ở Việt Nam”. Tất nhiên, thực chất của diễn biến hòa bình chính là tấn công trên quy mô toàn cầu, thực hiện bằng việc sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp, thủ đoạn hành động phá hoại tinh vi, được thể hiện tóm tắt bằng câu sau “chi phối đầu tư, ngoại giao thân thiện, khoét sâu mâu thuẫn nội bộ”. Việt Nam đã liên tục phải ra những tuyên bố đanh thép, dứt khoát, nhằm bác bỏ triệt để những luận điệu dối trá của Hoa Kỳ, không để dư luận quốc tế hiểu lầm và hạ thấp hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế. III. QUYỀN CỦA HOA KỲ ÁP ĐẶT NHÂN QUYỀN LÊN NƯỚC KHÁC??? Rõ ràng, không cần là phải sinh ra vào thời đại trước để chứng kiến, mà ngay trong thời đại ngày nay, ngay chính tại đất nước phát triển nhất thế giới, thì tình hình vi phạm nhân quyền lại trở nên trầm trọng. Năm 2009, phản ứng dữ dội lại bản Báo cáo nhân quyền hằng năm của Mỹ, Trung Quốc đã ra một báo cáo tình hình nhân quyền ngay tại chính nước Mỹ, và nghịch lý là suốt 10 năm liên tiếp Trung Quốc ra báo cáo này, chưa năm nào Mỹ lại không vi phạm nhân quyền ngay chính tại đất nước của mình. Tình hình tội phạm bạo lực gia tăng, đe dọa đến cuộc sống, tài sản, và an ninh cá nhân công dân Mỹ. Năm 2007, số vụ phạm tội giết người là 17 nghìn vụ, trộm cắp 445.125 vụ, tăng 7.5% trong hơn 5 năm qua. Năm 2007, cứ 1000 người từ 12 tuổi trở lên thì có 20,7 người là nạn nhân tội phạm bạo lực, tỉ lệ tội phạm tài sản là 146.5/1000 hộ. Tại Mỹ, cứ 31 phút thì xảy ra một vụ giết người, 5.8 phút là 1 vụ hiếp dâm, 14.5 giây 1 vụ ăn trộm. “Văn hóa súng đạn” đang ngày càng đe dọa cuộc sống nhân dân Mỹ, vì súng được phép sử dụng và sở hữu rất dễ dàng đến nỗi không cần trình bày lý do; dẫn đến những sự kiện đau lòng như các vụ xả súng vào trường học, nơi công cộng. Rất nhiều người (28%) cho rằng họ không còn cảm thấy an toàn khi ở trên xe buýt, tàu hỏa… do việc sở hữu súng một cách bừa bãi thế này. Các quyền dân sự của Mỹ bị hạn chế rất nhiều, khi mà cựu tổng thống Bush ký dự luật cho phép chính phủ nghe lén. Luật này miễn trừ pháp lý cho các công ty viễn thông tham gia các chương trình nghe lén vớ
Luận văn liên quan