Theo các nhà nghiên cứu văn hóa, Quan họ một loại hình dân ca đặc sắc, một lối hát giao duyên
nổi tiếng do cộng đồng người Việt (Kinh) ở 49 làng quan họ và một số làng lân cận thuộc hai tỉnh
Bắc Ninh và Bắc Giang hiện nay sáng tạo ra. Về mặt sáng tạo nghệ thuật, dân ca Quan họ được
coi là đỉnh cao của nghệ thuật thi ca.
32 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 10578 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu di sản văn hóa Quan họ Bắc Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tìm hiểu di sản văn hóa Quan họ Bắc Ninh
Văn hóa du l ch – GVHD Th.s Ph m Th Thúy Nguy t Page 1
Tiểu luận
Tìm hiểu di sản văn hóa Quan họ Bắc Ninh
Tìm hiểu di sản văn hóa Quan họ Bắc Ninh
Văn hóa du l ch – GVHD Th.s Ph m Th Thúy Nguy t Page 2
GIỚI THIỆU CHUNG:
I.1 Khái niệm:
Theo các nhà nghiên cứu văn hóa, Quan họ một loại hình dân ca đặc sắc, một lối hát giao duyên
nổi tiếng do cộng đồng người Việt (Kinh) ở 49 làng quan họ và một số làng lân cận thuộc hai tỉnh
Bắc Ninh và Bắc Giang hiện nay sáng tạo ra. Về mặt sáng tạo nghệ thuật, dân ca Quan họ được
coi là đỉnh cao của nghệ thuật thi ca.
I.2 Nguồn gốc:
Tuy có nhiều công trình nghiên cứu nhưng vẫn chưa xác định rõ nguồn gốc về Quan họ. Có rất
nhiều truyền thuyết nói về nó như: Theo Lê Văn Hảo trong “Bắc Ninh tỉnh khảo thí” cho rằng,
nguồn gốc của quan họ là do sự kết nghĩa lâu năm giữa hai làng Viêm Xá và làng Hòai Bão. mỗi
khi có dịp lễ hội, thì trai làng Hòai Bão và nữ Viêm Xá hát đối đáp với nhau để tránh những
chuyện bất an, cãi cọ. Theo Nguyễn Duy Kiện trên Việt Báo thì viết: “ thời thượng cổ nhân dân 2
làng Lũng Nhai và Tam Sơn giao hảo rất thân mật, khi làng nào có chuyện như lên lão, quan, hôn,
tang, lễ,… đều có lời mời lẫn nhau. 2 làng thường họp từ 5-7 cụ ông và 5-7 cụ bà, cùng một số
thanh niên nam nữ. trai bên này hát, thì gái bên kia đáp, còn các cụ thì ngồi nghe. Hai làng cứ tiếp
tục từ đời này sang đời khác.Cũng có một số người cho rằng quan họ bắt nguồn từ sự tích ông
quan đi qua vùng Kinh Bắc đã rất thích thú bởi tiếng hát của các liền anh liền chị mà dừng lại
thưởng thức, tuy nhiên cách lý giải này có phần mơ hồ. Một số quan điểm khác cho rằng, quan họ
xuất phát do những nghi thức tôn giáo mang tính phồn thực, họ cũng cho rằng quan họ xuất phát
từ “âm nhac cung đình”.
I.3 Qúa trình hình thành và phát triển:
Quan họ là những sản phẩm sáng tạo nhất là những thế kỉ của thời kì phong kiến độc lập. vào thời
Lý Trần ( thế kỉ XI – XIV) khi các thành tựu văn hóa, nghệ thuật dân gian nở rộ, cùng với sự am
Tìm hiểu di sản văn hóa Quan họ Bắc Ninh
Văn hóa du l ch – GVHD Th.s Ph m Th Thúy Nguy t Page 3
hiểu, quý trọng của các triều vua đã ảnh hưởng đến quan họ từ giao duyên cổ sơ sang lối ca hát có
lề lối, quy củ rõ ràng. Tiếp đến thời Lê ( thế kỉ XV), đội ngũ trí thức đông đảo làm việc sáng tác
quan họ ngày càng được bổ sung. Thế kỉ XVIII dân ca quan họ đã có những hình tượng đẹp, tế
nhị, nội dung trữ tình sâu sắc, về làn điệu thì có sự giao lưu rộng rãi Bắc Nam. Những năm đầu
thế kỉ XX , các nghệ thuật khác của cả nước đã gia nhập vào quan họ làm nó được cải biến và
phát triển đến sau này.
Nội dung chính trong buổi hát Quan họ thường là khi hai bên nam – bọn quan họ nam và nữ -
bọn quan họ nữ hát đối nhau. Đứng đầu mỗi bọn Quan họ là liền anh, bên nữ gọi là liền chị. Các
câu hát có thể được chuẩn bị sẵn, nhưng ra đến khi đối đáp nhau thì thường dựa trên khả năng
ứng biến của hai bên. Họ hát những bài ca mà lời là thơ, ca dao (phần lớn là thể lục bát, lục bát
biến thể,…) từ ngữ được trau chuốt, trong sáng, mẫu mực thể hiện các trạng thái tình cảm của con
người: nhớ nhung, buồn bã khi chia xa, tình yêu lứa đôi,…bằng một ngôn ngữ giàu tính ẩn dụ.
Hát quan họ gắn liền với tục kết chạ, tục kết bạn giữa các bọn quan họ, tục “ngủ bọn”. Mặc dù
các phong tục này không được thực hành nhiều như trước đây, cộng đồng cư dân các làng quan
họ vẫn bảo tồn và truyền dạy nghệ thuật dân ca quan họ này.
Thời gian: từ mồng 4 Tết âm lịch, trong gần 3 tháng mùa xuân đầu năm, hội làng ở các làng
quan họ và các làng kề cận liên tiếp diễn ra. Suốt tháng 8 âm lịch lại là các hội lệ vào đám của các
làng. Trong số các lễ hội làng quan họ, hội Lim (thị trấn Lim, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh) mở
vào 13 tháng giêng âm lịch, là hội lớn nhất. Cho nên mùa xuân và mùa thu là mùa hội và mùa ca
hát quan họ nhộn nhịp, tưng bừng làng trên, thôn dưới.
II. ĐẶC TRƯNG DI SẢN QUAN HỌ BẮC NINH:
II.1 Trang phục:
Trang phục Quan họ bao gồm trang phục của liền anh và liền chị.:
Trang phục của liền anh: áo dài 5 thân, cổ đứng, có lá sen, viền tà, gấu to, dài tới quá đầu gối,
thường bên trong mặc một hoặc hai áo cánh, sau đó đến hai áo dài.Áo dài bên ngoài thường màu
đen, chất liệu là lương, the. Quần của liền anh là quần dài trắng, ống rộng, may kiểu có chân què
Tìm hiểu di sản văn hóa Quan họ Bắc Ninh
Văn hóa du l ch – GVHD Th.s Ph m Th Thúy Nguy t Page 4
dài tới mắt cá chân, chất liệu bằng phin, trúc bâu, màu mỡ gà, có thắt lưng nhỏ để thắt chặt cạp
quần. Đầu liền anh đội nhiễu quấn hoặc khăn xếp. Ngoài ra còn có các phụ kiện như: ô đen, khăn
tay, lược, thắt lưng..
Trang phục liền chị : thường được gọi là “áo mớ ba mớ bảy”, có nghĩa là liền chị có thể mặc ba
áo dài lồng vào nhau ( mớ ba) hoặc là bảy áo dài lồng vào nhau ( mớ bảy ). Thành phần cơ bản
gồm có: trong cùng là một chiếc yếm có màu rực rỡ, thường làm bằng lụa truội nhuộm (có hai
loại yếm là yếm cổ xẻ dùng cho trung niên và yếm cổ viền dùng cho thanh nữ ). Bên ngoài yêm là
một chiếc áo cánh màu trắng, vàng , ngà. Ngoài cũng là những lượt áo dài năm thân. Chất liệu để
may áo hầu hết là the và lụa. Liền chị mặc váy sồi, váy lụa đôi khi có người mặc váy kép với váy
trong bằng lụa, vải màu lương, the.
Trang phục của liền chị còn có nón quai thao, khăn mỏ quạ, thắt lưng đeo dây xà tích.
II.2 Làn điệu Quan họ:
Quan họ rất phong phú về làn điệu: la rằng, đường bạn kim loan, cây gạo, giã bạn, hừ la, la hới,
tình tang, cái ả, lên núi, xuống song,… Quan họ có các hình thức: hát thờ, hát hội, hát thi lấy giải,
hát canh. Một cuộc hát quan họ hay một canh hát bao giờ cũng có ba chặng: giọng Lề lối, giọng
Vặt, giọng Giã bạn.
- Giọng Lề lối: đây là giọng hát mở đầu, được diễn xướng với tốc độ chậm, nhiều luyến láy,
nhiều tiếng đệm. Đôi lúc nhịp phách không rõ ràng, âm điệu thường ở âm khu tầm thấp, cữ
hẹp.
- Giọng Vặt: là các giọng thuộc phần chính của buổi hát. Có thể nói tính chất nghệ thuật của
Quan họ được thể hiện rõ ở giọng này. Âm nhạc ngắn gọn, bố cục chặt chẽ, tiết tấu linh
hoạt. Nội dung lời ca khá phong phú, số lượng bài bản tương đối nhiều. Ví dụ như: Trống
cơm, Qua cầu gió bay, Ngồi tựa mạn thuyền,…
- Giọng Giã bạn: là giọng hát trước lúc chia tay. Số lượng bài bản ở giọng giã bạn không
nhiều nhưng chất lượng nghệ thuật của các bài ở giọng này khá cao. Chủ đề chính của
giọng này là tiễn biệt vì vậy giai điệu thường buồn, nhưng rất mặn nồng, say đắm. Ví dụ
như: Người ở đừng về, Kẻ bắc người nam, Chia rẽ đôi nơi,…
Tìm hiểu di sản văn hóa Quan họ Bắc Ninh
Văn hóa du l ch – GVHD Th.s Ph m Th Thúy Nguy t Page 5
Hát Quan họ là hình thức hát đôi đồng giọng: người hát dẫn, người hát luồn, hát đối đáp dẫn
giọng, luồn giọng một cách điêu luyện. Giọng của hai người hát cặp với nhau phải tương hợp đến
mức hai giọng trở thành một để tạo ra một âm thanh thống nhất. Có 4 kỹ thuật hát Quan họ là:
nền, rền, vang, nảy.
Nền
Trước khi bàn đến yếu tố nền, không thể không nhắc đến đặc điểm sử dụng tiếng đệm trong
hát Quan họ. Tiếng đệm là những âm thanh không thuộc phần lời thơ, như i, a, ơ, ư, hự, rằng, là,
ru hời, tính tình tang... Nhiều người thường coi tiếng đệm là hư từ, nhưng ở đây không phải là
quan hệ thực từ - hư từ, mà cần nhận thấy mối quan hệ lời thơ - tiếng đệm. Trong bài Quan họ,
tiếng đệm vừa làm nền như một dàn nhạc đệm, vừa là chất kết dính các âm điệu của lời thơ, thông
qua các nốt luyến, lướt, hoa mỹ, thêu tạo thành tuyến giai điệu đặc trưng của Quan họ và chi phối
nhiều đến kỹ thuật hát Quan họ.
Nền là đặc điểm của các tiếng đệm tạo nên mặt bằng giai điệu, qua đó làm nổi lên lời thơ và
cùng với âm điệu của lời thơ tạo nên giai điệu của bài hát. Tiếng đệm thường có giai điệu nằm
trong quãng 2, quãng 3, thỉnh thoảng có quãng 4, 5, ít gặp quãng 6. Như vậy, nền ở đây có nghĩa
phông nền, chứ không phải nền nã, nền nếp như một số người quan niệm. Nói đến đặc điểm nền
trong Quan họ là nói đến đặc điểm các tiếng đệm như i ơ, hự, rằng là, tính tình tang... tạo nên giai
điệu như một dàn nhạc đệm, làm nền và kết nối lời thơ. Chẳng hạn, trong câu Gọi ớ ơ ớ ơ hự à đò
không í i thấy i i hự đò là đò thưa í i (bài Gọi đò). Các tiếng đệm i í ơ ớ hự à… í i…i i hự… là…í
i làm nền cho lời thơ Gọi đò không thấy đò thưa.
Tiếng đệm thường thấy nhiều trong dân ca Việt Nam và mỗi thể loại có mức độ và cách thức sử
dụng tiếng đệm khác nhau. Ở các thể loại dân ca khác tiếng đệm thường được sử dụng để tô điểm,
làm chức năng đệm hơi, đệm nhịp hoặc cả đệm nghĩa cho dễ hát và phát triển giai điệu bài hát.
Trong Quan họ, tiếng đệm được sử dụng nhiều, chúng cũng có chức năng đệm hơi, đệm nhịp
hoặc cả đệm nghĩa, làm cho giai điệu bài hát phát triển, tuy nhiên đặc thù của tiếng đệm trong hát
Quan họ là chúng có vai trò thay cho dàn nhạc đệm, làm nền cho lời thơ và hỗ trợ cho các yếu tố
vang, rền, nẩy. Tiếng đệm trong Quan họ đòi hỏi kỹ thuật hát tương đối khó. Thiếu tiếng đệm
Quan họ không còn là Quan họ. Để hát được nền phải giữ hơi thở đều, liên tục, khẩu hình vừa
Tìm hiểu di sản văn hóa Quan họ Bắc Ninh
Văn hóa du l ch – GVHD Th.s Ph m Th Thúy Nguy t Page 6
phải, vị trí âm thanh ít thay đổi để giai điệu bài hát đều đặn, hoà quyện, nối tiếp nhau và không bị
đứt quãng. Đồng thời có thể điều tiết được độ to nhỏ, mạnh nhẹ của tiếng đệm tương quan hợp lý,
không những không át đi âm điệu của lời thơ, mà còn làm nổi lên lời thơ trên nền âm thanh đệm...
Rền
Rền là đặc điểm âm thanh trong câu hát hay trổ hát có độ rung đều đều, liên tục không dứt.
Rền trong Quan họ có được nhờ cách hát luyến láy và rung giọng, giai điệu phát triển liên tục.
Rền tạo nên sắc thái âm thanh đặc trưng của phong cách hát Quan họ.
Rền là cách hát nhấn nhá, luyến láy và rung giọng, vì vậy đòi hỏi người hát phải đạt tới kỹ
thuật hát tinh tế mới có thể sử lí độ nhấn vuốt của câu hát Quan Họ. Hát rền cần giữ tư thế và cổ
họng thật thoải mái, tự nhiên, khẩu hình mở vừa phải, đặt âm thanh ở hàm trên, hàm dưới rơi tự
do, lấy hơi vừa đủ, khống chế hơi, giữ và đẩy hơi ra đều, liên tục mà không đứt, gẫy, đặc biệt cần
có độ rung của thanh quản. Âm thanh phát ra vừa phải có độ vang, vừa có độ rung của giọng, mà
không bị đứt quãng. Chẳng hạn, trong câu Bỉ bài Gọi đò cần hát luyến từ gọi có độ rung giọng,
như có nhiều âm ọi liên tiếp với nhau, hát âm ơ như có nhiều âm ơơơơ... ở độ cao khác nhau.
Nẩy
Nẩy hay còn gọi là nẩy hạt là đặc điểm âm thanh bị tắc lại ở họng, sau đó được bật ra ngoài
tạo thành độ nẩy của âm thanh. Nẩy hạt thường rơi vào những âm ở họng hoặc tắc họng như ư,
hự, í ợ, ạ. Có 2 kiểu nẩy hạt:
- Kiểu 1: Sau khi tắc lại ở họng, âm được bật ra, tiếp tục kéo dài và có độ rung giọng như trường
hợp âm ơ, hự, ạ trong câu Bỉ của bài Gọi đò...
- Kiểu 2: Sau khi tắc họng, âm bật ra và dừng lại đột ngột như trong câu la hự, ối hự của bài Tìm
người, hoặc câu mía í ơ trong bài Cái ả..
Từ góc độ giải phẫu, nẩy hạt là khi nắp thanh môn (bộ phận nằm gần như đối diện với lưỡi gà) bật
lên để âm thanh thoát ra, rồi đóng lại ngay (ở kiểu 1 sau khi đóng lại, nắp thanh môn lại mở ra,
cũng kiểu 2 nắp thanh môn đóng lại và giữ nguyên vị trí). Phải chăng từ hạt chính là chỉ nắp
thanh môn và vì vậy có tên gọi nẩy hạt.
Tìm hiểu di sản văn hóa Quan họ Bắc Ninh
Văn hóa du l ch – GVHD Th.s Ph m Th Thúy Nguy t Page 7
Nẩy hạt là một kiểu sáng tạo nghệ thuật của dòng âm nhạc dân gian. Nẩy hạt có thể xem như
những điểm nhấn trong chuỗi âm thanh rền, làm cho câu hát, trổ hát thêm ấn tượng và độc đáo.
Kỹ thuật nẩy hạt không chỉ có trong Quan họ mà còn thấy ở một số thể loại khác như Chèo, Ca
trù. Tuy nhiên, mỗi thể loại lại có cách nẩy hạt khác nhau, ví dụ trong hát Ca trù thường nẩy hạt ở
âm ư, đóng khẩu hình, nhả âm thanh bằng mũi. Chèo nẩy hạt thường rơi vào âm i, mở khẩu hình
và nhả âm thanh bằng mũi và một phần bằng miệng. Trong Quan họ những âm nẩy tương đối
phong phú, thường rơi vào những âm đệm như ư, hự, í ợ, ạ... và một số trường hợp nẩy hạt vào
những từ thuộc phần lời thơ của bài hát.
Kỹ thuật hát nẩy hạt trong hát Quan họ rất khác biệt làm cho phong cách hát Quan họ không
giống với các thể loại dân ca khác. Để hát được nẩy hạt, cần mở khẩu hình vừa phải, phù hợp với
từng âm nẩy hạt (hự, ơ...), hàm dưới buông lỏng và hơi hạ thấp cằm xuống, môi và hàm trên hơi
nhếch lên, khống chế hơi, dùng lực hơi thở đẩy mạnh âm nẩy hạt bật ra.
Vang
Vang là đặc điểm âm thanh truyền đi mạnh và lan toả rộng ra xung quanh. Vang là kết quả
cộng hưởng của miệng hát để khuyếch đại âm thanh. Những yếu tố hỗ trợ vang trong hát Quan họ
gồm: giai điệu bài hát phát triển liên tục, sử dụng nhiều âm thêu, luyến, nốt hoa mỹ, âm đệm mở
như ơ, í ơ, í a... với độ ngân dài.
Vang là một yếu tố quan trọng không chỉ riêng trong hát Quan họ mà ở tất cả các thể loại
dân ca. Về mặt âm nhạc, vang có chức năng làm cho tuyến giai điệu của bài hát phát triển ở nhiều
cung bậc trầm bổng khác nhau, làm cho tác phẩm nghệ thuật thật sự sống động. Mặt khác, yêu
cầu đối với người hát ở bất kỳ dòng nhạc nào đều đòi hỏi có độ vang nhất định. Tuy vậy, hát vang
trong Quan họ lại có điểm khác biệt với các thể loại dân ca khác. Chẳng hạn, vang của thanh
nhạc được ngân, nghỉ vào những âm ở cuối tiết, câu hoặc đoạn nhạc. Còn vang trong hát Quan họ
là nhờ vào tuyến giai điệu phát triển liên tục, kết hợp luyến láy và ngân những âm đệm mở tạo
nên, đồng thời vẫn giữ được các yếu tố rền, nền, nẩy. Chính vì vậy, cách hát vang của Quan họ
mang nét đặc thù, cần có kỹ thuật hát phù hợp.
Để hát được vang cần hát chậm, hơi thở đầy, khẩu hình mở, vòm họng chống lên cao, có độ
rỗng bên trong họng. Hàm dưới rơi tự do, hàm và môi trên hơi nhếch cao để lộ ra hàm răng trên
Tìm hiểu di sản văn hóa Quan họ Bắc Ninh
Văn hóa du l ch – GVHD Th.s Ph m Th Thúy Nguy t Page 8
như cười, tạo cảm giác như hai gò má chống lên cao, phát âm phải rõ chữ và có độ sáng... Cần lưu
ý ngân trong hát Quan họ có độ rung, chứ không phẳng như thanh nhạc.
Sự phân tích các yếu tố vang-rền-nền-nẩy trong hát Quan họ từ các góc độ khác nhau ở trên
cho phép chúng ta nhận diện các yếu tố này dễ dàng và chính xác hơn: mỗi yếu tố có đặc điểm âm
thanh riêng, có giá trị âm nhạc nhất định và đòi hỏi kỹ thuật hát phù hợp. Sự kết hợp các yếu tố
vang-rền-nền-nẩy trong bài hát Quan họ tạo ra sắc thái âm thanh đặc trưng của bài hát Quan họ.
Vì vậy một trong những cái khó của hát Quan họ là người hát phải có được kỹ năng điêu luyện
thể hiện kết hợp các yếu tố này.
Quan họ được chia thành hai loại là quan họ truyền thống và quan họ mới:
Quan họ truyền thống: “ chơi quan họ”, là hình thức tổ chức văn hóa với quy định nghiêm
ngặt, khắt khe đòi hỏi các liền anh, liền chị phải am hiểu tiêu chuẩn, luật lệ, chỉ tồn tại ở 49
làng. Nó không có nhạc đệm, chủ yếu hát đôi giữa liền anh, liền chị. Hát đôi được gọi là
hát hội, hát canh. Hát cả bọn được gọi là hát chúc, mừng, thờ.“Chơi quan họ” truyền thống
không có khán giả, người trình diễn là người thưởng thức. các bài quan họ còn ưu thích
đến giờ là La rẳng, Tình tang, Cái ả, Cây Gạo.
Quan họ mới: “ hát quan họ”, là hình thức biểu diễn trên sân khấu hoặc trong sinh họat
cộng đồng, thực tế thì được trình diễn bất kì ngày nào, luôn có khán thính giả, người hát
còn trao đổi tình cảm với người nghe. Quan họ mới không nằm trong không gian làng xã
mà còn vươn ra nhiều nơi, ở quốc gia và cả thế giới. Có hình thức biểu diễn phong phú
hơn, gồm hát đơn, hát đôi, hát tốp, hát múa phụ họa,.. có cải biến các bài hát theo hai cách:
ý thức và không ý thức. Hát quan họ có nhạc đệm là không ý thức, còn cải biên có ý thức
là cải biến cả nhạc và lời của quan họ truyền thống.
II.3 Phong tục trong đám hội:
Quan họ nam mời trầu Quan họ nữ. Sau đó họ hát với nhau những lời ướm hỏi, nếu tâm đầu ý
hợp họ sẽ hẹn nhau ở làng bên nữ để tổ chức lễ kết nghĩa. Nơi tổ chức lễ kết nghĩa có thể ở đình
hoặc ở nhà bố mẹ chị Cả, chị Hai và do cụ Đám (còn gọi là ông trùm hoặc bà trùm) đứng ra làm
chủ sự.
Tìm hiểu di sản văn hóa Quan họ Bắc Ninh
Văn hóa du l ch – GVHD Th.s Ph m Th Thúy Nguy t Page 9
Lễ kết nghĩa được bắt đầu bằng những lời thăm hỏi tận tình hoặc những lời thề thốt. Sau
đó, họ lại có buổi gặp nhau ở bên nam. Tại đây họ có thể hát thâu đêm suốt sáng để thổ lộ với
nhau về tình cảm. Căn cứ vào sự đồng nhất về cữ giọng, âm sắc, họ xếp thành từng cặp: Anh Cả -
Chị Cả, anh Hai- chị Hai, anh Ba – chị Ba, anh Tư – chị Tư... Lời ca trong quan họ chủ yếu nói về
tình yêu nam nữ, sự gắn bó thủy chung. Nhưng trên thực tế họ không hề nghĩ đến chuyện yêu
nhau mà chỉ quan hệ trên cơ sở bình đẳng tôn trọng lẫn nhau. Họ gọi nhau bằng anh, chị và xưng
em hoặc tôi. Thời gian kết nghĩa của người Quan họ có thể từ đời này sang đời khác hay có khi
chỉ một vài năm.
Địa điểm ca hát Quan họ thường là ở sân nhà, trước cửa đình , cửa chùa, dưới gốc đa, bên
sườn đồi, trên thuyền, bến nước...
Hàng năm, mỗi khi đình đám hội hè, làng có hội phải cử đôi Quan họ đến các làng Quan họ kết
chạ để mời. Đúng hẹn, các Liền anh Liền chị được mời đến đông đủ. Ngay từ cổng làng, cổng
đình chùa, Quan họ chủ nhà đã ra đón khách: Tay bê cơi trầu miệng hát mời đón khách bằng
những lời ca nghe ngọt ngào, tế nhị. Sau đó, Quan họ chủ nhà mời quan họ bạn đi lễ Phật, lễ
thánh, hát hội. Và ngày xưa hát hội là để giao lưu văn hoá giữa các bọn Quan họ nam và nữ, chứ
không thi hát lấy giải. Vui chơi hát hội đến sẩm tối, quan họ chủ nhà mời Quan họ bạn về nhà ông
(bà) Trùm để hát canh vào mỗi canh Quan họ thường thâu đêm đến sáng.
Vào canh Quan họ, các Liền anh Liền chị ngồi trên tràng kỷ hoặc phản thành bọn nam
riêng và bọn nữ riêng để hát đối đáp và bao giờ cũng phải hát bằng hệ thống giọng lề lối như Hừ
La, La Rằng…, sau đó chuyển sang giọng Sổng, giọng Bỉ, giọng Vặt và cuối cùng là giọng Giã
Bạn. Bao giờ, giữa canh quan họ, quan họ chủ nhà cũng mời cơm quan họ. Gọi là cơm Quan họ,
nhưng thực ra là cỗ ba tầng có đầy đủ các món ăn đặc sản của địa phương như giò, chả, nem,
bóng, nấm… và bánh trái hoa quả. Trong khi ăn uống, Quan họ luôn mời mọc nhau bằng những
lời ca, tiếng hát nghe ngọt ngào, tế nhị. Ăn uống xong, các bọn Quan họ nghỉ ngơi chốc lát, sau
đó lại hát tiếp đến khi nghe thấy tiếng chuông chùa thỉnh mới tàn canh Quan họ và chia tay nhau
để ra về. Quan họ chủ nhà tiễn bạn ra tận đầu làng và còn lưu luyến nhau bằng đôi câu Quan họ
để đến hẹn lại lên.
Tìm hiểu di sản văn hóa Quan họ Bắc Ninh
Văn hóa du l ch – GVHD Th.s Ph m Th Thúy Nguy t Page 10
Cách thức sáng tác một bài bản Quan họ mới được người Quan họ khái quát trong một
câu nói: "Ðặt câu, bẻ giọng". Ðặt câu là sáng tác lời ca, thường là thơ, bẻ giọng là phổ nhạc cho
lời ca ấy. Như vậy việc sáng tác lời thơ làm lời ca thường diễn ra trước, sau đó là phổ phổ nhạc
cho lời ca. Cách thức sáng tác này cho phép được lấy một đoạn thơ, một bài thơ, một đoạn ca dao
có sẵn trong vốn thơ ca dân gian, dân tộc để phổ nhạc, hoặc, cũng có thể có người chỉ giỏi "đặt
câu" để rồi người khác "bẻ giọng", hoặc cũng có thể một người làm cả việc "đặt câu" và "bẻ
giọng".
Ai cũng nghĩ tiếng hát Quan họ là tiếng hát cầu duyên, cầu phúc, cầu lộc, cầu tài, cầu may và có
thể là cái cầu nối với đất trời, thần, phật để thỉnh cầu: cầu mưa, giải hạn, tiêu trùng... Chính tâm lý
này đã tạo nên những thói quen, phong tục đẹp của làng xã, gia đình đối với những người ca hát
Quan họ, đối với hoạt động ca Quan họ, do đó, góp phần quan trọng vào việc giữ gìn, phát triển
Quan họ bền vững, lâu dài.
II.4. Các làng Quan họ:
49 làng Quan họ tồn tại vào đầu thế kỷ XX phân bố trong 3 huyện và 1 thị xã hiện nay của tỉnh
Hà Bắc như sau:
Huyện Tiên Sơn gồm 14 làng: Duệ Ðông, Lũng Giang (Lim), Lũng Sơn, Ngang Nội, Hoài Thị
(Bịu Sim), Hoàng Trung (Bịu Trung), Vân Khám (Khám), Bái Uyên (Bưởi), Ném Ðoài, Ném
Sơn, Ném Tiền, Tiêu, Tam Sơn, Hạ Giang.