Như chúng ta đã biết, ngân hàng cùng các TCTD đóng vai trò hết sức quan trọng trong thị trường tài chính và có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế, đời sống xã hội. Với vai trò quan trọng như vậy, việc tạo một khung pháp lí ổn định cho thị trường này phát triển bền vững là yêu cầu cấp thiết. Ngày càng nhiều các TCTD mới được thành lập và hoạt động , sự quản lý thiếu chặt chẽ các TCTD là sự đe doạ rất lớn đến nền tài chính, kinh tế quốc gia. Do đó, tại cuộc họp khoá X kì họp thứ hai vào ngày 12/12/1997, Quốc hội đã ban hành luật Các Tổ Chức Tín Dụng có hiệu lực thi hành từ ngày 1/10/1998, đây là cơ sở pháp lý để đảm bảo các TCTD hoạt động lành mạnh, an toàn và có hiệu quả.
Hơn 10 năm qua nền kinh tế nước ta đã có khá nhiều chuyển biến và phát triển, chúng ta đã mở cửa và hội nhập vào nền kinh tế thế giới, với dấu mốc quan trọng là thành viên chính thức của tổ chức WTO vào ngày 7/11/2006. Từ đây, không chỉ có sự cạnh tranh giữa các TCTD trong nước mà còn có sự tham gia của nhiều TCTD nước ngoài , với bề dày lịch sử hoạt động các tổ chức này kinh doanh trên nhiều lĩnh vực với nhiều sản phẩm dịch vụ. Thực tiễn đó cho thấy Luật các TCTD năm 1997 và luật sửa đổi bổ sung năm 2004 đã bộc lộ quá nhiều thiếu sót, khó có thể kiểm soát hệ thống các TCTD ngày càng đa dạng và phức tạp. Gần đây nhất, ta chứng kiến cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra ở Mỹ vào cuối năm 2007, khi các đại gia như Lehman Brothers, Morgan Stanley, Citigroup, AIG, và hàng trăm các ngân hàng khác đóng cửa. Sự kiện đó đã cho ta một bài học về tầm quan trọng của vai trò quản lý các TCTD, chỉ một sai sót có thể dẫn đến hậu quả là sự sụp đổ của cả một hệ thống tài chính hàng đầu thế giới. Với yêu cầu từ thực tế cần phải xây dựng bộ luật mới chặt chẽ hơn, linh hoạt hơn đáp ứng yêu cầu thực tế và có thể dự đoán phòng ngừa những rủi ro có thể xảy ra trong tương lai. Luật các TCTD năm 2010 ra đời, luật đã chỉnh sửa và bỏ đi một số điều cũ và bổ sung những điều, khoản mục mới, nhằm giải quyết những vấn đề mà các nhà làm luật cách đây 10 năm chưa lường trước được.
Luật các TCTD mới sẽ được ban hành trong vài tháng tới, và ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của các TCTD, ngân hàng. . . . Do vậy, nhóm mình đã nghiên cứu đề tài “Phân tích những điểm mới của luật các tổ chức tín dụng năm 2010 so với luật các tổ chức tín dụng năm 1997 và luật các tổ chức tín dụng chỉnh đổi, bổ sung 2004 trên khía cạnh nghiên cứu cơ cấu tổ chức của các TCTD”.
45 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3835 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu, phân tích những điểm mới của luật các tổ chức tín dụng năm 2010 so với năm 1997, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TPHCM
LỚP TD_T04, KHOA TÍN DỤNG
(((
TIỂU LUẬN NHÓM MÔN LUẬT NGÂN HÀNG
TÌM HIỂU, PHÂN TÍCH NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
NĂM 2010 SO VỚI NĂM 1997
NHÓM: 03
GVHD: Ths Vương Tuyết Linh
TP.Hồ Chí Minh, 11/2010
DANH SÁCH NHÓM
Dương Việt Long (Nhóm trưởng)
Đặng Thị Kim Cương
Nguyễn Thị Thúy Hằng
Nguyễn Thị Bích Huyền
Nguyễn Tấn Mẫn
Hồ Đức Minh
Hồ Minh Phương
Dư Thị Lan Quỳnh
Cao Thị Thái
Phạm Thới Đình Thiện
Lã Bá Trung
Nguyễn Dư Trung
Đinh Thiên Tuế
Thạch Thị Tỵ
Nguyễn Thị Thùy Uyên
Ngô Hồ Quốc Việt
DANH SÁCH PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC
Tìm hiểu, nghiên cứu, soạn thảo nội dung tiều luận:
Tất cả thành viên trong nhóm
Tổng hợp, soạn file Word hoàn chỉnh:
Dương Việt Long
Hồ Đức Minh
Dư Thị Lan Quỳnh
Quay clip, tham gia quay clip:
Tất cả thành viên trong nhóm
Làm clip:
Nguyễn Tấn Mẫn
Thuyết trình:
Đặng Thị Kim Cương
Dương Việt Long
Nguyễn Tấn Mẫn
Hồ Đức Minh
Dư Thị Lan Quỳnh
Lã Bá Trung
Soạn file Power Point:
Đinh Thiên Tuế
NHẬN XÉT CỦA CÔ
GHI CHÚ
1. AIG: tập đoàn bảo hiểm American International Group của Mỹ
2. BKS: Ban kiểm soát
3. CT CTTC: Công ty cho thuê tài chính
4. CTTC: Công ty tài chính
5. DN: Doanh nghiệp
6. FED: Cục dự trữ Liên Bang Mỹ
7. LN: Lợi nhuận
8. NH: Ngân hàng
9. NHTM: Ngân hàng thương mại
10. NHNN: Ngân hàng nhà nước
11. TCTD: Tổ chức tín dụng
12. TS: Tài sản
13. TSCĐ: Tài sản cố định
14. VN: Việt Nam
15. WTO: Tổ chức thương mại thế giới
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ THAY ĐỔI KHÁI QUÁT VÀ CƠ CẤU TỔ CHỨC, QUẢN TRỊ ĐIỀU HÀNH CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG TRONG LUẬT CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG NĂM 2010 9
1. Một số thay đổi chung: 9
1.1. Quy định rõ ràng hơn về các tổ chức tín dụng: 9
1.2. Bảo vệ quyền lợi khách hàng: 11
2. Thành lập – đăng ký kinh doanh. 12
2.1. Quy định về hình thức pháp lý: 12
2.2. Cấp giấy phép hoạt động: 12
3. Cơ cấu tổ chức, quản trị điều hành: 13
3.1. Đơn giản hóa thủ tục hành chính: 13
3.2. Những quy định về nhân sự: 14
3.3. Kiểm tra kiểm sát nội bộ - kiểm toán độc lập: 16
3.4. Tỷ lệ sở hữu cổ phần: 18
CHƯƠNG 2
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG 20
1. Nhận định chung: 20
2. Những điểm khác biệt giữa luật các TCTD 1997 so với 2010: 20
2.1. Những thay đổi của luật mới so với luật hiện hành: 20
2.1.1. Ngân hàng nước ngoài lo ngại trước quy định mới của luật 2010: 20
2.1.2. Về huy động vốn: 22
2.1.3. Về vấn đề miễn giảm lãi suất, phí, gia hạn nợ: 22
2.1.4. Không được nhận tiền gửi của dân cư: 23
2.1.5. Về việc góp vốn mua cổ phần: 24
2.1.6. Về vấn đề cấp tín dụng: 26
2.1.7. Về vấn đề kinh doanh bất động sản: 26
2.2. Những điểm mới của luật TCTD 2010: 27
2.2.1. Cơ chế xác định phí, lãi suất của TCTD (Điều 91): 27
2.2.2. Về yêu cầu ban hành quy định nội bộ (Điều 93): 28
2.2.3. Về kinh doanh, cung ứng dịch vụ ngoại hối, sản phẩm phái sinh của ngân hàng thương mại (Điều 107): 28
2.2.4. Về phạm vi hoạt động của công ty tài chính, cho thuê tài chính: 28
CHƯƠNG 3
QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TCTD, THANH TRA, KIỂM TOÁN 30
1. Về phần quản lý nhà nước: 30
2. Về phần thanh tra: 30
3. Về phần kiểm toán: 30
CHƯƠNG 4
TÀI CHÍNH, HẠCH TOÁN, BÁO CÁO 32
1. Tăng cường thông tin liên lạc với các tổ chức tín dụng: 32
2. Kiểm soát các báo cáo tài chính. 33
3. Việc quản lý với chi nhánh ngân hàng nước ngoài, các tổ chức tín dụng có thành phần nước ngoài. 34
CHƯƠNG 5
KIỂM SOÁT ĐẶC BIỆT; TỔ CHỨC LẠI, PHÁ SẢN, GIẢI THỂ, THANH LÝ 36
1. Kiểm soát đặc biệt. 36
1.1. Các điều khoản đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng. 36
1.2. Vai trò, thẩm quyền của ban kiểm soát. 37
1.3. Thẩm quyền của ngân hàng nhà nước với các TCTD được kiểm soát đặc biệt. 38
2. Tổ chức lại, phá sản, giải thể, thanh lý: 40
LỜI KẾT 41
LỜI MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết, ngân hàng cùng các TCTD đóng vai trò hết sức quan trọng trong thị trường tài chính và có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế, đời sống xã hội. Với vai trò quan trọng như vậy, việc tạo một khung pháp lí ổn định cho thị trường này phát triển bền vững là yêu cầu cấp thiết. Ngày càng nhiều các TCTD mới được thành lập và hoạt động , sự quản lý thiếu chặt chẽ các TCTD là sự đe doạ rất lớn đến nền tài chính, kinh tế quốc gia. Do đó, tại cuộc họp khoá X kì họp thứ hai vào ngày 12/12/1997, Quốc hội đã ban hành luật Các Tổ Chức Tín Dụng có hiệu lực thi hành từ ngày 1/10/1998, đây là cơ sở pháp lý để đảm bảo các TCTD hoạt động lành mạnh, an toàn và có hiệu quả.
Hơn 10 năm qua nền kinh tế nước ta đã có khá nhiều chuyển biến và phát triển, chúng ta đã mở cửa và hội nhập vào nền kinh tế thế giới, với dấu mốc quan trọng là thành viên chính thức của tổ chức WTO vào ngày 7/11/2006. Từ đây, không chỉ có sự cạnh tranh giữa các TCTD trong nước mà còn có sự tham gia của nhiều TCTD nước ngoài , với bề dày lịch sử hoạt động các tổ chức này kinh doanh trên nhiều lĩnh vực với nhiều sản phẩm dịch vụ. Thực tiễn đó cho thấy Luật các TCTD năm 1997 và luật sửa đổi bổ sung năm 2004 đã bộc lộ quá nhiều thiếu sót, khó có thể kiểm soát hệ thống các TCTD ngày càng đa dạng và phức tạp. Gần đây nhất, ta chứng kiến cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra ở Mỹ vào cuối năm 2007, khi các đại gia như Lehman Brothers, Morgan Stanley, Citigroup, AIG, …và hàng trăm các ngân hàng khác đóng cửa. Sự kiện đó đã cho ta một bài học về tầm quan trọng của vai trò quản lý các TCTD, chỉ một sai sót có thể dẫn đến hậu quả là sự sụp đổ của cả một hệ thống tài chính hàng đầu thế giới. Với yêu cầu từ thực tế cần phải xây dựng bộ luật mới chặt chẽ hơn, linh hoạt hơn đáp ứng yêu cầu thực tế và có thể dự đoán phòng ngừa những rủi ro có thể xảy ra trong tương lai. Luật các TCTD năm 2010 ra đời, luật đã chỉnh sửa và bỏ đi một số điều cũ và bổ sung những điều, khoản mục mới, nhằm giải quyết những vấn đề mà các nhà làm luật cách đây 10 năm chưa lường trước được.
Luật các TCTD mới sẽ được ban hành trong vài tháng tới, và ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của các TCTD, ngân hàng. . . . Do vậy, nhóm mình đã nghiên cứu đề tài “Phân tích những điểm mới của luật các tổ chức tín dụng năm 2010 so với luật các tổ chức tín dụng năm 1997 và luật các tổ chức tín dụng chỉnh đổi, bổ sung 2004 trên khía cạnh nghiên cứu cơ cấu tổ chức của các TCTD”.
Do chưa có sự kiểm chứng của thực tiễn nên những ý kiến đánh giá của nhóm chúng tôi mang tính chủ quan, và khó tránh khỏi sai sót, rất mong những góp ý của cô và các bạn. Chúng mình xin chân thành cảm ơn.
Chương 1
MỘT SỐ THAY ĐỔI KHÁI QUÁT VÀ CƠ CẤU TỔ CHỨC, QUẢN TRỊ ĐIỀU HÀNH CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG TRONG LUẬT CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG NĂM 2010
Một số thay đổi chung:
Quy định rõ ràng hơn về các tổ chức tín dụng:
Luật 2010 đã khắc phục bất cập cơ bản của luật Các tổ chức tín dụng 1997 về phạm vi điều chỉnh, luật không quy định về “hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác”. Thay vào đó, để được cấp phép hoạt động ngân hàng, các tổ chức phải được thành lập như một tổ chức tín dụng (TCTD). Như vậy, nếu không phải là một TCTD mà đang có hoạt động ngân hàng thì phải tổ chức lại dưới hình thức là một TCTD hoặc phải chấm dứt ngay hoạt động này (khoản 2, điều 8, luật 2010). Ta nhận thấy rằng ngay từ phạm vi điều chỉnh đối tượng của luật 2010 đã chặt chẽ hơn luật hiện hành rất nhiều, nó tạo ra rào cản pháp lý để tránh tình trạng trong quá trình mở cửa hội nhập, con số các đơn vị kinh doanh tiền tệ tăng đáng kể mà chưa chắc đảm bảo đúng quy trình, quy định cũng như đáp ứng tính an toàn của toàn hệ thống.
Cụ thể, phạm vi điều chỉnh của luật mới 2010 bao gồm việc thành lập, tổ chức, hoạt động, kiểm soát đặc biệt, tổ chức lại, giải thể các TCTD; thành lập, tổ chức hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện của các TCTD nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng (Điều 1, luật 2010). Bổ sung đối tượng có yếu tố nước ngoài, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Trước đó, những đối tượng này chỉ được quy định trong các Nghị định, Quyết định, tạo ra sự chồng chéo trong các văn bản quy phạm pháp luật.
Theo luật 2010, khái niệm “hoạt động ngân hàng” là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ: nhận tiền gửi, cấp tín dụng, và cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản, trong khi đó luật hiện hành thì phải hiểu là bao gồm tất cả các hoạt động trên. Qua đó, khi đã có giấy phép thành lập và hoạt động từ NHNN, tùy vào loại hình, TCTD có thể thực hiện một hoặc một số hoặc cả ba hoạt động ngân hàng nêu trên. Đây là một thay đổi quan trong, là cơ sở, tiêu chí để xác định một tổ chức là TCTD.
Với luật hiện hành, chúng ta rất dễ nhầm lẫn giữa các loại hình kinh doanh tiền tệ, có thể là “ngân hàng”, các tổ chức tín dụng phi ngân hàng như “công ty tài chính”, “công ty cho thuê tài chính”…, ranh giới của loại hình này với các hoạt động của nó chưa được quy định rõ ràng và minh bạch. Điều này là rất nguy hiểm. Nếu chúng ta phân loại được rõ ràng từng loại hình, và quản lý theo những cách khác nhau tùy thuộc vào từng tiêu thức cụ thể ứng với mỗi loại hình tổ chức thì công việc sẽ trở nên dễ dàng và hiệu quả. Nói rộng ra, khi ban hành luật hay các văn bản dưới luật mà đối tượng bị điều chỉnh, bị áp chế không cụ thể, thì chắc chắn việc thi hành luật trở nên rắc rối, người chịu thi hành luật thậm chí còn không biết mình nằm trong đối tượng điều chỉnh nào, còn bên lập pháp lại không thể lường hết phạm vi đối tượng để bao trùm chúng. Điều này nghiêm trọng hơn sẽ tạo ra sự không công bằng, thiếu minh bạch, gây nên hỗn độn, rối loạn của thị trường tài chính, tiền tệ.
Chính vì những thiếu sót đó, luật 2010 quy định rất rõ “nếu không phải là TCTD thì không được phép sử dụng cụm từ hoặc thuật ngữ “TCTD”, “ngân hàng”, “công ty tài chính”, “công ty cho thuê tài chính”, hoặc các cụm từ hay thuật ngữ tương tự dẫn đến việc có thể gây nhầm lẫn cho khách hàng rằng đó là một TCTD” (Điều 5, luật 2010) hay (theo điều 3,NĐ 59/2009). Một điều nữa mà luật hiện hành chưa nõi rõ đó là khẳng định luôn rằng TCTD không được tiến hành bất kỳ hoạt động kinh doanh nào khác ngoài các hoạt động ngân hàng như đã nói rõ ở trên, hay các hoạt động kinh doanh khác ghi trong giấy phép được NHNN cấp cho TCTD (Điều 90, luật 2010).
Một hạn chế ở đây nữa là luật 2010 đã không quy định về Ngân hàng đầu tư. Cũng có thể do ảnh hưởng cuộc khủng hoảng kinh tế vừa qua mà một phần nguyên nhân đến từ hoạt động cho vay dưới chuẩn của các ngân hàng đầu tư phố Wall. Nhưng cũng không thể phủ nhân tầm quan trọng của các Ngân hàng đầu tư trong điều tiết lưu lượng dòng vốn của nền kinh tế. Theo luật hiện hành, các loại hình ngân hàng của chúng ta bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác (khoản 2, điều 20). Nhưng theo khoản 2 điều 4 luật 2010, thì các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã. Chính phủ chủ trương xây dựng mô hình ngân hàng đa năng hạn chế để hướng tới mục tiêu hàng đầu là đảm bảo an toàn hệ thống (các nước phát triển xây dựng mô hình ngân hàng đa năng). Mặc dù có quy định ở Luật chứng khoán 2006, nhưng để thực hiện nghiệp vụ của ngân hàng đầu tư, ngân hàng thương mại phải thành lập công ty con. Tất nhiên điều này cũng nâng cao tính chuyên nghiệp trong hoạt động ngân hàng, nhưng nói chung vẫn khó khăn hơn là có một văn bản pháp lý chính thức ở cấp độ luật đề cập đến hoạt động ngân hàng đầu tư.
Quá trình hội nhập, mở cửa nền kinh tế đòi hỏi chúng ta phải tạo ra một môi trường cạnh tranh công bằng, lành mạnh hơn giữa các chủ thể, tổ chức tham gia trên thị trường. Theo luật hiện hành thì các tổ chức tín dụng phi ngân hàng như các công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, bảo hiểm, công ty chứng khoán. . . và những tổ chức này được thực hiện kinh doanh một số hoạt động của ngân hàng trừ nhận tiền gửi không kỳ hạn và làm dịch vụ thanh toán (khoản 3, điều 20), điều này theo thông lệ quốc tế là không phù hợp ở chỗ là nó không những bị hạn hẹp ở cách thức kinh doanh, nghiệp vụ kinh doanh mà nó còn chịu một áp lực rất lớn về cạnh tranh, đặc biệt là với ngân hàng thương mại.
Không những vậy mà việc hiện nay để phân biệt phạm vi hoạt động của hai loại hình là tổ chức tín dụng phi ngân hàng và ngân hàng cũng không rõ ràng. Hiện nay, việc nhận biết chúng dựa vào sản phẩm tài chính trở nên rất khó khăn, điểm cốt lõi của các tổ chức tài chính phi ngân hàng là chúng xuất hiện từ những giới hạn và rào cản trong kinh doanh dịch vụ ngân hàng, sử dụng những công cụ và cách thức tổ chức thích hợp để đáp ứng các nhu cầu tín dụng chuyên biệt.
Chính vì những lý do khó nhận biết và quản lý trên mà luật 2010 quy định rõ hơn về phạm vi hoạt động của hai loại hình này, theo đó các TCTD phi ngân hàng không được phép nhận tiền gửi cá nhân, không được cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản của khách hàng, quy định này giúp giảm bớt rủi ro cho hệ thống TCTD, mặt khác cho phép các TCTD phi ngân hàng được mở rộng phạm vi cung ứng các dịch vụ ngân hàng khác của mình.
Bảo vệ quyền lợi khách hàng:
Bất cứ một văn bản luật nào ban hành, nó đều phục vụ mục đích không những của chính tổ chức ban hành, của bản thân nhà nước hay chính phủ mà nó còn phục vụ quyền lợi của người dân. Hay nói cụ thể hơn nữa trong luật này là phục vụ lợi ích của khách hàng.
Luật hiện hành quy định đối với các tổ chức tín dụng nói chung phải từ chối việc điều tra thông tin của cá nhân khách hàng về thông tin liên quan đến “tiền gửi” và “tài sản” của khách hàng (điều 17, Luật 1997). Luật mới mở rông, quy định một cách rõ ràng hơn tại điều 14, ngân hàng phải đảm bảo mọi bí mật liên quan đến thông tin khách hàng, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch của khách hàng được quy định cụ thể tại điều 10. Nói chung tất cả thông tin về khách hàng được đảm bảo một cách toàn diện hơn.
Thành lập – đăng ký kinh doanh.
Quy định về hình thức pháp lý:
Đối với các quy định về hình thức pháp lý, luật TCTD năm 1997 chỉ ra các loại hình tổ chức tín dụng gồm: tổ chức tín dụng nhà nước, tổ chức tín dụng của Nhà nước và nhân dân, tổ chức tín dụng hợp tác mà chưa xác định rõ các hình thức pháp lý của các tổ chức này (điều 12), có thể giải thích lý do này là vì luật doanh nghiệp của chúng ta ra đời vào năm 1999. Cho đến giờ thì luật năm 2010 cũng phải điều chỉnh để phù hợp thống nhất với Luật doanh nghiệp 2005. Vì vậy so với Luật 1997 thì Luật 2010 ngoài việc phân biệt giữa ngân hàng và tổ chức tín dụng phi ngân hàng, phân biệt và đưa thêm các khái niệm ngân hàng hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô (Điều 4)… Ngoài ra còn đưa vào các hình thức pháp lý cụ thể cho từng loại hình TCTD trên và đây chính là điểm đáng chú ý nhất của Luật năm 2010 vì nó chi phối các khoản quy định ở phía sau của luật này (quản trị, điều hành, tổ chức, giám sát, họat động…) dựa theo từng hình thức pháp lý được quy định cụ thể, rõ ràng, ngoài những quy định chung.
Các quy định thể hiện cụ thể ở điều 6 Luật 2010. Mỗi loại hình được tổ chức một hình thức pháp lý nhất định. Sự cụ thể, rõ ràng này đem lại cho công tác quản lý nhiều thuân lợi vì không còn sự trùng lắp, phức tạp nào cả, mỗi tổ chức sẽ phải hoạt động đúng như với hình thức mà nó được tổ chức, quyền nghĩa vụ được quy định một cách khách quan theo Luật các TCTD 2010 cũng như Luật Doanh nghiệp 2005.
Luật mới 2010 tiếp tục khẳng định quan điểm không có ngân hàng tư nhân bằng việc quy định: ngân hàng thương mại chỉ được thành lập dưới hình thức duy nhất là công ty cổ phần đại chúng (khoản 1 điều 6), với tối thiểu là 100 cổ đông, trừ hai trường hợp ngoại lệ là ngân hàng 100% vốn nhà nước và ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Điều này nhằm đảm bảo cho sự an toàn của hệ thống. Ngân hàng tư nhân do cá nhân, thể nhân đứng ra thành lập, mức độ rủi ro rất cao. Có thể nói tầm ảnh hưởng của ngân hàng thương mại là rất quan trọng, trong khi loại hình ngân hàng cổ phần đem lại sự an toàn cao hơn nhiều nhờ sự chia sẻ về quyền lợi cho tất cả chủ thể nắm giữ cổ phần. TCTD không phải là một doanh nghiệp bình thường, nó bao gồm cả một hệ thống, chỉ một sự cố có thể gây ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống, ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến toàn bộ nền kinh tế. Việc hạn chế tối đa ngân hàng tư nhân là một định hướng an toàn của chính phủ.
Cấp giấy phép hoạt động:
Hiện nay, có rất nhiều TCTD đã và đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Xét duyệt hồ sơ xin thành lập và cấp phép hoạt động là một công việc rất quan trọng.
Cũng như Luật hiện hành, Luật 2010 trao thẩm quyến cấp, thu hồi giấy phép cho Ngân hàng trung ương. Tuy nhiên, về điều kiện cấp phép thì khác hẳn, luật hiện hành quy định chung chung, chưa rõ ràng thì trong Luật mới này, các thủ tục về cấp phép hoạt động được quy định cụ thể trong một chương (chương II, Luật 2010).
Điều 20, Chương II Luật 2010 quy định cụ thể cho từng trường hợp về điều kiện cấp phép, đó là: tổ chức tín dụng; tổ chức tín dụng liên doanh, tổ chức tín dụng 100% vốn nước ngoài; chi nhánh ngân hàng nước ngoài; Văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng; ngân hàng hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô. Việc quy đinh như thế này tạo điều kiện cho cả hai bên, bên xin giấy phép chuẩn bị chu đáo, không mất thời gian hoàn thiện hồ sơ, còn bên xét duyêt có căn cứ để phê chuẩn, cân nhắc kỹ lưỡng. Có thể nói, việc quy định một cách cụ thể rõ ràng là rất cần thiết cho sự khởi đầu của một hoạt động, Luật 2010 đã quy định triệt để vấn đề này.
Về thời hạn xét duyệt, câp giấy phép cũng có nhiều thay đổi theo hướng an toàn và chi tiết. Nếu trong Luật TCTD 1997 quy định: “Trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động đối với tổ chức tín dụng, giấy phép hoạt động ngân hàng đối với các tổ chức không phải là tổ chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước phải cấp hoặc từ chối cấp giấy phép. Trong trường hợp từ chối cấp giấy phép, Ngân hàng Nhà nước phải có văn bản giải thích lý do” (điều 24-1997). Luật TCTD 2010 đã có sự phân rõ giữa tổ chức đề nghị cấp phép và văn phòng đại diện TCTD nước ngoài, 180 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ đối với tổ chức đề nghị cấp phép và thời hạn 60 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ đối với văn phòng đại diện TCTD nước ngoài. Và nếu từ chối thì phải trả lời bằng văn bản rõ ràng (điều 22-2010).
Văn phòng đại diện không được tiến hành nghiệp vụ ngân hàng (khoản 2 điều 12-luật 1997, điều 125 Luật 2010). Các yêu cầu thấp hơn về điều kiện, tiêu chuẩn nên thời hạn cấp phép cũng được rút ngắn hơn ( 60 ngày so với 90 ngày). Trong khi tổ chức đề nghị cấp giấy phép có thể là chi nhánh ,TCTD…, nên NHNN cần có nhiều thời gian hơn (180 ngày) để xem xét kỹ hơn các thông tin mà các tổ chức đó báo cáo. Thời hạn theo quy định tạo điều kiên cho cơ quan chức năng xem xét, đánh giá để có thể quyết định một cách đúng đắn. Những quy định này một lần nữa thể hiện định hướng đảm bảo an toàn cho hệ thống của dự luật mới này.
Cơ cấu tổ chức, quản trị điều hành:
Đơn giản hóa thủ tục hành chính:
Luật các TCTD 2010 bỏ quy định chuẩn y sau các chức danh quản lý, điều hành, kiểm soát (được quy định trong điều 36 luật 1997), tức là các chức danh này không cần phải được chính thống đốc NHNN (người được ủy quyền) phê duyệt. Thay vào đó, NHNN sẽ chấp thuận trước danh sách dự kiến bầu, bổ nhiệm, miễn nhiệm các chức danh thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát, Tổng Giám đốc miễn là các thành viên này phải đủ tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định của điều 50 luật 2010.
Quy định này ngoài việc đáp ứng được yêu cầu về cải cách hành chính, thực hiện đúng theo chủ trương của chính phủ. Việc thay đổi bổ nhiệm một chức vụ nào đó diễn ra khá thường xuyên đặc biệt với các ngân hàng thương mại với số lượng lớn các cổ đông lớn như thế (tối thiểu là 100 thành viên) thì việc bãi bỏ các quy định này là thật sự cần thiết, giảm bớt được khối lượng công việc của ban lãnh đạo NHNN, chi phí giấy tờ, thời gian đi lại cho cán bộ ngân hàng. Mặt khác còn