Ngày nay với sự phát triển như vũ bão của khoa học kĩ thuật làm tốc độ kinh tế tăng lên đáng kể, đời sống nhân dân được cải thiện về mọi mặt trong đó giáo dục cũng được chú trọng đặc biệt. Thiết nghĩ, giáo dục có vai trò rất tích cực đối với mỗi con người, đặc biệt là thế hệ trẻ Việt Nam. Với tư cách vừa là đối tượng, vừa là chủ thể của quá trình sư phạm, giáo dục chính là yếu tố quan trọng và là điều kiện cần thiết nhất để phát triển con người toàn diện.
Con người, sản phẩm của ngành giáo dục đào tạo phải là những cán bộ khoa học kĩ thuật, những người lao động làm chủ có bản lĩnh, bản ngã, cá tính, có khả năng giao tiếp, ứng xử thông minh, có khả năng thích nghi với những biến đổi trong môi trường và nhiệm vụ của nhà trường là đào tạo có chất lượng những người lao động mới, có đầy đủ những phẩm chất và năng lực ấy.
Vâng, để mang lại hiệu quả và chất lượng trong quá trình chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng kỉ xão thì bản thân đối tượng của hoạt động học phải có thái độ học tập tích cực. Bởi lẽ, chỉ có thái độ học tập đúng đắn mới giúp cho người học tích cực, tự giác, chủ động trong hoạt động học tập mà thôi. Đó là yếu tố thúc đẩy lòng say mê, sự hứng thú học tập từ đó góp phần nâng cao chất lượng học tập của người học nói riêng và hiệu quả dạy học nói chung.
Trong nhà trường sư phạm bộ môn giáo dục học có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với mỗi sinh viên. Nó là hành trang không thể thiếu được của mỗi giáo viên tương lai. Vì vậy sinh viên sư phạm hơn ai hết cần phải có thái độ học tập môn giáo dục học đúng đắn nhằm chuẩn bị bước vào nghề nghiệp của mình.
Thực tế hiện nay cho thấy có một bộ phận sinh viên vẫn còn đang xem nhẹ việc học môn giáo dục học. Họ chưa thấy được lợi ích của môn học này nên vẫn đang còn chưa có thái độ học tập môn giáo dục học tích cực. Thực trạng này còn đáng lo ngại hơn ở khoa tự nhiên. Nếu nắm được thực trạng này tìm được nguyên nhân thì sẽ đề xuất một số biện pháp góp phần giáo dục thái độ học tập đúng đắn tích cực nhằm nâng cao hiệu quả học tập cho sinh viên, góp phần chuẩn bị hành trang vững chắc trong tương lai không xa.
Từ những lý do trên chúng tôi chọn đề tài: “Tìm hiểu thái độ học tập môn giáo dục học của sinh viên năm thứ hai khoa Hoá Trường ĐHSP Huế” để nghiên cứu
49 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 7514 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu thái độ học tập môn giáo dục học của sinh viên năm thứ hai khoa Hoá Trường ĐHSP Huế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay với sự phát triển như vũ bão của khoa học kĩ thuật làm tốc độ kinh tế tăng lên đáng kể, đời sống nhân dân được cải thiện về mọi mặt trong đó giáo dục cũng được chú trọng đặc biệt. Thiết nghĩ, giáo dục có vai trò rất tích cực đối với mỗi con người, đặc biệt là thế hệ trẻ Việt Nam. Với tư cách vừa là đối tượng, vừa là chủ thể của quá trình sư phạm, giáo dục chính là yếu tố quan trọng và là điều kiện cần thiết nhất để phát triển con người toàn diện.
Con người, sản phẩm của ngành giáo dục đào tạo phải là những cán bộ khoa học kĩ thuật, những người lao động làm chủ có bản lĩnh, bản ngã, cá tính, có khả năng giao tiếp, ứng xử thông minh, có khả năng thích nghi với những biến đổi trong môi trường…và nhiệm vụ của nhà trường là đào tạo có chất lượng những người lao động mới, có đầy đủ những phẩm chất và năng lực ấy.
Vâng, để mang lại hiệu quả và chất lượng trong quá trình chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng kỉ xão thì bản thân đối tượng của hoạt động học phải có thái độ học tập tích cực. Bởi lẽ, chỉ có thái độ học tập đúng đắn mới giúp cho người học tích cực, tự giác, chủ động trong hoạt động học tập mà thôi. Đó là yếu tố thúc đẩy lòng say mê, sự hứng thú học tập từ đó góp phần nâng cao chất lượng học tập của người học nói riêng và hiệu quả dạy học nói chung.
Trong nhà trường sư phạm bộ môn giáo dục học có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với mỗi sinh viên. Nó là hành trang không thể thiếu được của mỗi giáo viên tương lai. Vì vậy sinh viên sư phạm hơn ai hết cần phải có thái độ học tập môn giáo dục học đúng đắn nhằm chuẩn bị bước vào nghề nghiệp của mình.
Thực tế hiện nay cho thấy có một bộ phận sinh viên vẫn còn đang xem nhẹ việc học môn giáo dục học. Họ chưa thấy được lợi ích của môn học này nên vẫn đang còn chưa có thái độ học tập môn giáo dục học tích cực. Thực trạng này còn đáng lo ngại hơn ở khoa tự nhiên. Nếu nắm được thực trạng này tìm được nguyên nhân thì sẽ đề xuất một số biện pháp góp phần giáo dục thái độ học tập đúng đắn tích cực nhằm nâng cao hiệu quả học tập cho sinh viên, góp phần chuẩn bị hành trang vững chắc trong tương lai không xa.
Từ những lý do trên chúng tôi chọn đề tài: “Tìm hiểu thái độ học tập môn giáo dục học của sinh viên năm thứ hai khoa Hoá Trường ĐHSP Huế” để nghiên cứu .
2. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu thực trạng thái độ học tập môn GDH của SV năm hai Khoa Hoá - Trường ĐHSP- ĐH Huế.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động học tập môn Giáo dục học của sinh viên năm hai khoa hoá trường ĐHSP Huế.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Thái độ học tập môn Giáo dục học của sinh viên năm hai khoa Hoá trường ĐHSP Huế.
4. Giả thuyết khoa học.
Trong quá trình học tập, nhìn chung sinh viên có thái độ tương đối đúng đắn về môn GDH. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của yếu tố khách quan và chủ quan nên sinh viên còn một số hạn chế trong thái độ học tập. Nếu có biện pháp, cách thức khoa học thì sinh viên sẽ có thái độ đúng đắn hơn trong học tập môn GDH, góp phần tăng chất lượng học tập của mỗi sinh viên.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài.
- Nghiên cứu thực trạng thái độ học tập môn GDH của SV năm hai khoa Hoá trường ĐHSP Huế.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao thái độ học tập môn GDH cho SV năm hai khoa Hoá nói riêng và SV trường ĐHSP Huế nói chung.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lí thuyết.
6.1.1. Phương pháp phân tích – tổng hợp lí thuyết.
6.1.2. Phương pháp phân loại - hệ thống hóa lí thuyết.
6.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
6.2.1. Phương pháp điêu tra bằng Anket.
6.2.2. Phương pháp phỏng vấn.
6.2.3. Phương pháp quan sát
6.3.4. Phương pháp thống kê toán học
7. Phạm vi và thời gian nghiên cứu
7.1. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu trên 100 sinh viên năm hai khoa Hoá, trường ĐHSP Huế.
7.2. Thời gian nghiên cứu
Học kì I năm học 2009_2010
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Lịch sử đề tài nghiên cứu.
Thái độ được nhiều nhà khoa học nghiên cứu kể cả trong nước và ngoài nước.
1.1.1. Ngoài nước.
Vào những năm 1918 hai nhà tâm lý học người Mỹ là W.I.Thomas và F.Zaniecki là những người đầu tiên đưa ra và sử dụng khái niệm về thái độ thông qua những nghiên cứu của mình về nông dân Ba Lan. Hai ông đã nghiên cứu thái độ dưới góc độ xã hội. Đến 1934 Lapiere đã đưa ra một khái niệm đầy kinh ngạc, khi ông đã chứng minh một điều là những gì chúng ta nói và những gì chúng ta làm (tức là thái độ và hành vi của cá nhân trong cùng một trường hợp )
Vào năm 1957 có một nghiên cứu đã lý giải tại sao “hành vi lại ảnh hưởng đến thái độ của con người” là “thuyết bất đồng nhận thức” của Leon Festinger. Các nhà tâm lý học phương Tây còn nghiên cứu xem xét nhiều khía cạnh khác nhau của thái độ, nhất là các vấn đề về vai trò, chức năng cấu trúc như nghiên cứu của M.Rokeach (1968 ), T.M.Ostrom (1969) U.J.Mc.Guire (1969) và J.R.Rempell (1988).
Đến 1972 cũng có một thuyết nghiên cứu về mối quan hệ giữa thái độ và hành vi của con người. Đó là thuyết “tự nhận thức” của Daryl Ben. Ngoài ra D.N.Uzơnatne nghiên cứu thái độ như một bộ phận cấu thành có tính toàn vẹn của ý thức cá nhân.
H.Hiprơ và M.Forvec nhấn mạnh chức năng của thái độ đối với hoạt động chung, hoạt động hợp tác của con người trong xã hội.
Gerhard Witzlack, mối quan hệ giữa thái độ học tập và thái độ là việc, từ đó khẳng định: về nguyên tắc thì thái độ học tập và thái độ làm việc thống nhất với nhau ở mức độ lớn
N.D.Lêvitov: nghiên cứu mặt biểu hiện của thái độ trên hành vi học tập của học sinh trong giờ học lên lớp nũng như tự học ở nhà. Qua đó cho thấy, thái độ học tập tích cực của học sinh biểu hiện ở chỗ học sinh chú ý, hứng thú và sẵn sàng vượt khó khăn.
Như vậy có thể thấy rằng trong suốt thời kỳ từ đầu thế kỷ XX cho đến nay, ở phương Tây đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về thái độ và cùng với nó cũng xuất hiện nhiều phương pháo nghiên cứu mới về hiện tượng tâm lý đặc biệt này.
Trong nghiên cứu tâm lý giáo dục phương Tây. Các tác giả thường coi thái độ học tập là một trong những nhân tố đóng vai trò động cơ thúc đẩy tính tích cực của học sinh với giáo viên, với môn học, cũng như thái độ trong từng giai đoạn học tập.
Trong tâm lý học dạy học ở Liên Xô cũ, thái độ học tập không được nghiên cứu riêng rẽ mà lồng vào trong nghiên cứu động cơ, hứng thú học tập. Có thể kể đến các tác giả tiêu biểu đã có những công trình nghiên cứu về động cơ học tập của học sinh là:
I.L.Bogiovic (1951) nghiên cứu động cơ, thái độ học tập của học sinh nhỏ.
A.K.Marcova (1983) nghiên cứu hình thành động cơ học tập của học sinh.
Machikhina và đồng tác giả nghiên cứu quan hệ giữa động cơ và thái độ học tập của học sinh.
A.I.Kovaliov (1987) nghiên cứu động cơ lựa chọn nghề nghiệp của học sinh, sinh viên.
Viện sĩ N.V.Cuzmina (1980) một trong những tác giả coi thái độ là thành phần nòng cốt trong nhân cách đã đề ra phương pháp đánh giá toàn diện nhân cách sinh viên.
Còn ở Cộng hoà dân chủ Đức trước đây cung có một số công trình tiêu biểu nghiên cứu về thái độ do một số nhà tâm lý học xã hội như: V.Nayze, M.Phovec...tiến hành. Ngoài những vấn đề được nghiên cứu một cách truyền thống thì các nhà tâm lý học Đức còn đề cập đến nhiều vấn đề khác như: các cơ chế hình thành thái độ, sự định hình thái độ (cơ chế bắt chước, luyện tập, hướng dẫn ) do H.Hiebsch và M.Worwerg thực hiện.
1.1.2 Trong nước:
Một số tác giả tiêu biểu như:
Đào Thị Lan Hương: Nghiên cứu tự đánh giá thái độ học Hoácủa sinh viên CĐSP Hà Nội. Kết quả thu dược là: Tất cả nội dung của thái độ học tập, khả năng tự đánh giá của học sinh chưa cao. (21,7 – 45,7 % ). Khả năng tự đánh giá phù hợp ở mức thấp nhất thuộc về các nội dung mà sinh viên gặp khó khăn ở các khâu tự quan sát, nhận thức và ý thức tự giác về tiêu chuẩn tự đánh giá.
Nguyễn Thị Mai Lan: Nghiên cứu thái độ của sinh viên trường CĐSP Tuyên Quang đối với tự học (2005). Kết quả là phần lớn sinh viên có thái độ đúng trong tự học, tự giác tích cực nhưng chưa tới mức có sự say mê, hứng thú, chưa có ý chí quyết tâm cao trong tự học của mình.
Vũ Mộng Đoá: Nghiên cứu thái độ của sinh viên khoa tâm lý học Trường ĐHKHXH & Nhân văn đối với phương pháp học tập vào tháng 11/2005. Đa số sinh viên thống nhất giữa học và hành. Có 35% số sinh viên được hỏi đã vận dụng tương đối tốt tri thức vào việc tổ chức hoạt động học hàng ngày của họ theo phương pháp mới (chủ động, tích cực, năng động và sáng tạo) số còn lại học theo lối thụ động.
1.2. Khái niệm thuật ngữ liên quan.
1.2.1. Thái độ.
Từ khi khái niệm thái độ được đưa ra lần đầu tiên vào năm 1918 cùng với rất nhiều nghiên cứu khác nhau về thái độ thì đồng thời cũng xuất hiện những định nghĩa khác nhau của các nhà tâm lý học về thái độ. Mỗi định nghĩa lại bàn tới một khía cạnh của thái độ, góp phần làm phong phú thêm cách hiểu về phạm trù này.
Các từ điển cũng định nghĩa về thái độ theo nhiều cách khác nhau.
Trong từ điển tiếng Việt, thái độ được định nghĩa là: “cách nhìn nhận, hành động của cá nhân về một hướng nào đó trước một vấn đề, một tình huống cần giải quyết. Đó là tổng thể những biểu hiện ra bên ngoài của ý nghĩ, tình cảm của cá nhân đối với con người hay một sự việc nào đó”.
Trong từ điển Anh-Việt, thái độ được viết là “Attitude” và được định nghĩa là “cách ứng xử, quan điểm của một cá nhân”.
Từ điển xã hội học do Nguyễn Khắc Viện chủ biên cũng nhấn mạnh: “tâm thế - thái độ - xã hội đã dược củng cố, có cấu trúc phức tạp, bao gồm những thành phần nhận thức, xúc cảm, hành vi”.
Còn trong từ điển các thuật ngữ tâm lý và phân tâm học xuất bản tại New York năm 1996 thì lại cho rằng: “Thái độ là một trạng thái ổn định bền vững, do tiếp thu được từ bên ngoài hướng vào sự ứng xử một cách nhất quán đối với một nhóm đối tượng nhất định, không phải bản thân chúng ra sao mà chúng được nhận thức ra sao. Một thái độ được nhận biết ở sự nhất quán của những phản ứng đối với một nhóm đối tượng. Trạng thái sẵn sàng có ảnh hưởng trực tiếp lên cảm xúc và hành động có liên quan đến đối tượng”.
Như vậy, các từ điển khi định nghĩa về thái độ đều cho rằng đó là “ cách ứng xử của cá nhân đối với các tình huống, các vấn đề của xã hội”. Nó được cấu thành rất phức tạp với nhiều bộ phận hợp thành, cho dù cách sử dụng từ ngữ khi định nghĩa về thái độ là khác nhau.
Khi nói tới định nghĩa về thái độ từ trước tới nay chúng ta không quên nhắc lại khái niệm thái độ đã được đưa ra lần đầu tiên vào năm 1918 của hai nhà tâm lý học người Mỹ là W.I.Thomas và F.Znaniecki. Hai nhà tâm lý học này cho rằng: “thái độ là định hướng chủ quan của cá nhân có hành động hay không có hành động khác mà được xã hội chấp nhận”. Hai ông cũng cho rằng: “ thái độ là trạng thái tinh thần của cá nhân đối với một giá trị”. Như vậy, W.I.Thomas và F.Znaniecki đã đồng nhất thái độ với định hướng giá trị của cá nhân.
Một nhà tâm lý học người Mỹ khác là G.W.Allport vào năm 1935 đã đưa ra định nghĩa về thái độ như sau: “ thái độ là trạng thái sẵn sàng về mặt tinh thần và thần kinh, được hình thành thông qua kinh nghiệm, có khả năng điều chỉnh hay ảnh hưởng năng động đối với phản ứng của cá nhân đối với các tình huống và khách thể mà nó có thiết lập mối quan hệ”. Allport định nghĩa: “ thái độ trên khía cạnh điều chỉnh hành vi”. Ông coi thái độ như một trạng thái tâm lý, thần kinh cho hoạt ở một cá nhân, khi sắp sửa có những hành động diễn ra thì sẽ xuất hiện thái độ nhằm chuẩn bị và điều chỉnh hành động đó. Có thể thấy là, Allport đã trả lời được câu hỏi thái độ là gì, và đã đề cập đến nguồn gốc, vai trò, chức năng của thái độ như: “thái độ là trạng thái của tinh thần và hệ thần kinh, là sự sẵn sàng phản ứng, là một trạng thái có tổ chức, được hình thành trên cơ sở kinh nghiệm quá khứ và nó điều khiển cũng như ảnh hưởng tới hành vi của cá nhân”. Đây cũng là định nghĩa về thái độ được rất nhiều các nhà tâm lý học khác thừa nhận.
Như vậy, có thể nói: thái độ là một bộ phận hợp thành, một thuộc tính trọn vẹn của ý thức, quy định tính sẵn sàng hành động của con người đối với đối tượng theo một hướng nhất định, được bộc lộ ra bên ngoài thông qua hành vi,cử chỉ, nét mặt và lời nói của người đó trong những tình huống, điều kiện cụ thể.
1.2.2. Thái độ học tập
Thái độ học tập là một loại thái độ trong hệ thống thái độ đa dạng của con người. A.A.Xmirnov đã căn cứ vào đối tượng của thái độ mà phân chia chúng thành các nhóm: Thái độ đối với xã hội, với tập thể, và mọi người, thái độ lao động ( thái độ làm việc ) và thái độ đối với bản thân. Theo cách phân loại này thì thái độ học tập thuộc loại thái độ làm việc hay thái độ lao động. Ở đây là thái độ học tập - một loại lao động chủ đạo của sinh viên. Gerharrd Witzlack cũng khẳng định: về nguyên tắc thái độ học tập và thái độ làm việc thống nhất với nhau ở một mức độ lớn.
Trong nhiều công trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn của tâm lý học, khái niệm “thái độ học tập” bao hàm cả thái độ đối với điều được học. Chẳng hạn như quan niệm cho rằng “thái độ học tập là những tâm thế được hình thành nhờ học tập, mang nặng màu sắc xúc cảm, tạo ra sự phản ứng triệt để dễ chịu hay không thoải mái đối với người, vật, tình huống hoặc ý tưởng nào đó”.
Thái độ tác động rất mạnh tới hành vi: Nếu có thái độ thích thú với nội dung học thì sẽ tạo ra những hoạt động vươn lên chiếm lĩnh tri thức tạo nên hứng thú, say mê trong học tập. Mặt khác, nếu thái độ không thích thú thì sẽ dẫn đến thiếu tập trung chú ý, uể oải, thiếu nỗ lực độc lập trong học tập. Như Lêvitov cho rằng “ Thái độ học tập tích cực của học sinh biểu hiện ở chỗ học sinh chú ý, hứng thú và sẵn sàng gắng sức vượt qua khó khăn. Hay như V.A.Kruchetxki đã nghiên cứu thái độ đối với việc học tập của học sinh. Ông cho rằng “ thái độ tích cực đối với việc học tập là một điều kiện hoàn toàn cần thiết cho sự lĩnh hội có kết quả tài liệu học tập...”.Ông cũng đồng nhất với quan điểm của Lêvitov “Thái độ của học sinh đối với việc học tập được thể hiện ở sự chú ý, ở sự hứng thú đối với việc, ở sự sẵn sàng nỗ lực ý chí để khắc phục khó khăn”.
1.3. Biểu hiện của thái độ học tập
1.3.1. Biểu hiện trong nhận thức
Xác định rõ mục đích học tập, yêu cầu của hoạt động học tập cũng như biện pháp để đạt mục đích. Mức độ nhận thức về mục đích, tầm quan trọng và ý nghĩa của hoạt động học tập sẽ là tiền đề để sinh viên có thái độ tích cực về hoạt động học tập. Từ việc xác định đúng đắn mục đích học tập, các yêu cầu của hoạt động này, sinh viên sẽ chọn biện pháp hữu hiệu nào để tác động nhằm đạt được mục đích đã đề ra. Đây là khâu quan trọng trong mặt nhận thức bởi sinh viên không tìm ra được biện pháp tốt tác động thì hoặc sẽ đạt mục đích ở mức độ thấp hoặc không đạt được mục đích như mong muốn.
Người học tích cực không chỉ tiếp nhận kiến thức vào đầu, giữ chúng lại để rồi viết chúng ra các bài thi, bài kiểm tra mà còn nỗ lực rút ra những hiểu biết cho bản thân trong quá trình học tập.
1.3.2. Biểu hiện trong thái độ học tập
Thái độ học tập tích cực được biểu hiện ở việc tri giác chủ động, độc lập sáng tạo trong học tập, luôn mong muốn giáo viên giao thêm nhiệm vụ, kiểm tra đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ học tập của mình, hăng hái tìm thêm các tài liệu, vui vẻ tham gia các hoạt động nội ngoại khoá...phục vụ cho việc nang cao tri thức, hiểu biết của mình.
Đồng thời có động cơ học tập đúng đắn (học để chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và hoàn thiện nhân cách theo yêu cầu của xã hội).
Có hứng thú học tập: chăm chú nghe giảng, hăng hái phát biểu xây dựng bài, hoàn thành các nhiệm vụ được giao nhanh chóng, đầy đủ có chất lượng, hay nêu thắc mắc, khả năng cộng tác với giáo viên rất cao, tâm thế học tập hoàn toàn thoải mái, đi học chuyên cần.
Người học có thái độ tích cực thường hình thành cho bản thân một thời gian biểu hợp lý, nề nếp học tập ổn định, thường xuyên nghiên cứu tài liệu học tập, đọc mở rộng, chọn ra những tri thức chủ yếu, sắp xếp chúng lại theo trình tự và có hệ thống, xây dựng góc học tập.
Có ý thức kết hợp giữa bản thân và các cá nhân khác trong cộng đồng học tập nên người học có xu hướng là hợp tác và vận dụng kỹ năng sống hợp tác để đạt mục đích học tập, lĩnh hội và kiến tạo kiến thức. Họ biết chia sẻ và lắng nghe ý kiến của người khác, cởi mở, tin tưởng và sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau.
1.3.3. Về hành động
Từ việc hình thành thái độ học tập như trên, sinh viên bắt tay vào hành động để tìm ra cách thức học tập phong phú, phù hợp với bản thân.
Bước đầu xây dựng kế hoạch hành động phù hợp: xác định đúng đắn có cơ sở khoa học các khối lượng tri thức mà mình phải thu nhận số lượng thời gian để thu nhận tri thức đó. Sinh viên dựa vào kế hoạch của lớp, khoa, trường, từng bộ môn mà vạch ra cho mình kế hoạch học tập phù hợp. Bản thân phải có thời gian học tập theo từng ngày, từng tuần, tiến hành học tập hợp lý về mặt tinh thần, sức khoẻ, khả năng...
Thực hiện kế hoạch có hiệu quả. Muốn thế bản thân mỗi người phải vượt qua được những khó khăn bên ngoài và những khó khăn bên trong, sử dụng các chức năng tâm lý như: tư duy, trí nhớ...để tìm ra cái mới một cách chủ động sáng tạo thông qua giờ học trên lớp, ở nhà, thông qua hoạt động làm bài tập.
Mặt khác, thiết lập được mối quan hệ giữa nội dung mới và tri thức cũ. Để giải quyết một nhiệm vụ tư duy cần phải huy động những tri thức tương ứng có liên quan với đối tượng mới đang nghiên cứu. Người học phải thiết lập được mối liên hệ giữa tri thức mới với tri thức cũ một cách hợp lý, thường xuyên, độc lập, huy động được hết khả năng của mình. Từ đó hệ thống hoá các tri thức đã tiếp thu: sắp xếp các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo thuộc các lĩnh vực khoa học một cách logic, chặt chẽ, mô hình hoá, khái quát hoá được tri thức, kỹ năng, kỹ xảo đó theo phương pháp khoa học. Thường xuyên vận dụng những tri thức đó để giải quyết những nhiệm vụ lý lụân, thực tiễn đặt ra một cách có hiệu quả. Biết cách phối hợp các cách ghi nhớ thường xuyên linh hoạt hợp lý. Khả năng hợp tác với bạn, với thầy cô, mọi người trong lớp, cùng nhau trao đổi ý kiến, biết cách lập dàn ý cho bài học, có kế hoạch đọc sách hợp lý, khoa học, biết cách chọn sách, biết cách ghi chép, thu thập và xử lý thông tin khoa học.
1.3.4. Kết quả học tâp
Thái độ học tập có đúng đắn hay không, mặt hành động trong học tập như thế nào đều thể hiên ở kêt quả học tập.
Nhận thức
Người học nhận thức được tầm quan trọng, ý nghĩa của tâm lý học đối với quá trình học tập nói riêng và đối với cuộc sống nói chung.
Xác định được mục đích học tập các môn giáo dục học.
Nắm được các yêu cầu của hoạt động học tập giáo dục học.
Thái độ
Tự giác, chủ động, độc lập trong học tập, có nhu cầu nhận thức, môn học cao; luôn hào hứng say mê khi học giáo dục học; luôn mong muốn giáo viên gọi trả lời câu hỏi, giao thêm các nhiệm vụ học tập, hăng hái tìm đọc, sưu tầm các tài liệu liên quan đến tâm lý học để mở rộng sự hiểu biết tham gia tích cực các hoạt động nội, ngoại khoá.
Có hứng thú học tập các bộ môn:
Chăm chú nghe giảng, hăng hái phát biểu xây dựng bài
Hoàn thành các nhiệm vụ được giao một cách nhanh chóng, đầy đủ.
Thường xuyên nêu thắc mắc với giáo viên, yêu cầu giáo viên giải thích cặn kẽ những vấn đề chưa rõ, cũng như hăng hái trả lời mà giáo viên nêu ra.
Đi học chuyên cần, không bỏ tiết
Chủ động vận dụng những kiến thức, kỹ năng vào các tình huống trong thực tiễn
Xác định động cơ học tập đúng đắn.
Hành động
Xây dựng kế hoạch học tập Giáo dục học một cách hợp lý
Thực hiện kế hoạch mà mình đặt ra một cách có hiệu quả.
Như vậy thái độ học tập cuối cùng biểu hiện trong kết quả học tập bộ môn của mỗi người. Cụ thể ở mức độ lĩnh hội, nắm bắt tri thức, sử dụng thành thạo các kỹ năng và ứng dụng nhanh nhạy trước các tình huống cũng như ứng dụng kiến thức đã học vào giải quyết các nhiệm vụ cụ thể.
Khi sinh viên nhận thức đầy đủ mục đích, ý nghĩa của việc học tập môn tâm lý học thì người học sẽ hình thành thái độ học tập đúng đắn, tự nguyện, tự giác tham gia vào hoạt động học tập bộ môn để thoả mãn nhu cầu nắm bắt tri thức của mình, đồng thời thực hiện các hành vi, hành động học tập tương ứng với thái độ học tập tích cực đó.
Khi nói về tính tích cực của học sinh - một điề