Nợ Chính phủ: là khoản nợ được kí kết phát hành nhân danh nhà
nước hoặc chính phủ, các khoản nợ do Bộ tài chính kí kết, phát hành
hoặc uỷ quyền phát hành, không bao gồm các khoản nợ do ngân
hàng nhà nước Việt Nam phát hành nhẳm thực hiện mục tiêu chính
sách tiền tệ trong từng thời kì.
Nợ chính phủ bảo lãnh: là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài
chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được chính phủ bảo lãnh.
Nợ chính quyền địa phương: là khoản nợ do UBND tỉnh-tp trực
thuộc TW kí kết hoặc uỷ quyền phát hành.
Như vậy, các khoản vay như vay vốn ODA, phát hành trái phiếu chính phủ
(trong cũng như ngoài nước), trái phiếu công trình đô thị hay một tập đoàn kinh
tế vay nợ nước ngoài được chính phủ bảo lãnh đều được xem là nợ công. Việc đi
vay này là nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách nên nói cách khác, nợ
chính phủ là thâm hụt ngân sách luỹ kế đến một thời điểm nào đó. Để dễ hình
dung quy mô của nợ chính phủ, người ta thường đo xem khoản nợ này bằng bao
nhiêu phần trăm so với Tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
22 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1781 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tóm lượt lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và sự tăng trưởng kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GVHD: TRƯƠNG MINH TUẤN NHÓM 5
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ 1
BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA KẾ TOÁN
---------------------------------
BÀI TIỂU LUẬN
MÔN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
ĐỀ TÀI 5:
TÓM LƯỢT LÝ THUYẾT VỀ MỐI
QUAN HỆ GIỮA NỢ CÔNG VÀ SỰ
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
GVHD : Trương Minh Tuấn
LỚP : VB2K15KT02
NHÓM TH : NHÓM 5
Tp. Hồ Chí Minh - 11/2012
GVHD: TRƯƠNG MINH TUẤN NHÓM 5
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ 2
I. LÝ THUYẾT VỀ NỢ CÔNG
1. ĐỊNH NGHĨA NỢ CÔNG
Nợ chính phủ, còn gọi là Nợ công hoặc Nợ quốc gia, là tổng giá trị các
khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay.
a) Theo Luật quản lý nợ công số 29/2009/QH12 ngày 17/06/2009 thì nợ
công bao gồm:
Nợ Chính phủ: là khoản nợ được kí kết phát hành nhân danh nhà
nước hoặc chính phủ, các khoản nợ do Bộ tài chính kí kết, phát hành
hoặc uỷ quyền phát hành, không bao gồm các khoản nợ do ngân
hàng nhà nước Việt Nam phát hành nhẳm thực hiện mục tiêu chính
sách tiền tệ trong từng thời kì.
Nợ chính phủ bảo lãnh: là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài
chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được chính phủ bảo lãnh.
Nợ chính quyền địa phương: là khoản nợ do UBND tỉnh-tp trực
thuộc TW kí kết hoặc uỷ quyền phát hành.
Như vậy, các khoản vay như vay vốn ODA, phát hành trái phiếu chính phủ
(trong cũng như ngoài nước), trái phiếu công trình đô thị hay một tập đoàn kinh
tế vay nợ nước ngoài được chính phủ bảo lãnh đều được xem là nợ công. Việc đi
vay này là nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách nên nói cách khác, nợ
chính phủ là thâm hụt ngân sách luỹ kế đến một thời điểm nào đó. Để dễ hình
dung quy mô của nợ chính phủ, người ta thường đo xem khoản nợ này bằng bao
nhiêu phần trăm so với Tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
b) Theo Ngân hàng thế giới (World Bank - WB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế
(International Monetary Fund - IMF) thì nợ công:
GVHD: TRƯƠNG MINH TUẤN NHÓM 5
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ 3
Theo nghĩa rộng là nghĩa vụ nợ của khu vực công, bao gồm: các nghĩa
vụ nợ của Chính phủ trung ương, các cấp chính quyền địa phương, ngân
hàng trung ương và các tổ chức độc lập (nguồn vốn hoạt động do ngân sách
nhà nước quyết định hay trên 50% vốn thuộc sở hữu nhà nước, và trong
trường hợp vỡ nợ nhà nước phải trả nợ thay).
Theo nghĩa hẹp, nợ công bao gồm: nghĩa vụ nợ của Chính phủ trung
ương, các cấp chính quyền địa phương và nợ của các tổ chức độc lập được
chính phủ bảo lãnh thanh toán.
Nợ công xuất phát từ nhu cầu chi tiêu của Chính phủ, khi chi tiêu của
Chính phủ lớn hơn số thuế, phí, lệ phí thu được thì Chính phủ phải đi vay trong
hoặc ngoài nước với các phương thức khác nhau để trang trải cho các khoản
thâm hụt ngân sách. Các khoản vay này sẽ phải hoàn trả gốc và lãi khi đến hạn,
Chính phủ sẽ phải thu thuế tăng lên để bù đắp hoặc đi vay thêm một khoản khác
để trả các khoản nợ đáo hạn này. Ngoài ra, Chính phủ còn thực hiện việc đầu tư
của mình để có thể bù đắp lại phần nào các khoản thâm hụt ngân sách, thông qua
các doanh nghiệp quốc doanh.
2. NỢ CÔNG TRÊN GDP ? CON SỐ BIẾT NÓI ?
Để dễ hình dung quy mô của nợ chính phủ, người ta thường đo xem khoản
nợ này bằng bao nhiêu phần trăm so với Tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
Vậy nợ công chưa đụng trần thì chưa cần lo ?
Chưa hẳn, vì tuy các con số về tỷ lệ nợ công trên GDP dù khác nhau nhưng
vẫn chỉ là một chỉ số về quy mô của nợ công chứ không phải là một thước đo tốt
về mức độ an toàn hay rủi ro của nợ công. Bởi vì, nợ công khoảng 100% GDP
đủ để Hy Lạp rơi vào tình trạng phá sản, trong khi nợ công lên tới 200% GDP
của Nhật Bản vẫn được coi là an toàn. Nếu dùng con số 50% GDP để coi là mức
trần ở nước này thì ở nước khác người ta có thể sử dụng con số 80%. Như vậy,
mức độ an toàn hay nguy hiểm của nợ công không chỉ phụ thuộc vào tỷ lệ nợ
GVHD: TRƯƠNG MINH TUẤN NHÓM 5
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ 4
trên GDP, mà quan trọng hơn là vào một số chỉ số khác như xu hướng của tỷ lệ
này, hiệu quả sử dụng nợ, hay rộng hơn là tình trạng sức khỏe của nền kinh tế.
3. THỰC TRẠNG NỢ CÔNG TẠI VIỆT NAM
Theo Luật Quản lý nợ công thì nợ công bao gồm nợ của Chính phủ, nợ
được Chính phủ bảo lãnh và vay nợ của chính quyền địa phương. Trong 10
năm qua, tỷ lệ nợ công của Việt Nam so với GDP ngày càng có xu hướng gia
tăng. Tổng số dư nợ công tính đến năm 2011 bằng 54,6% GDP. Trong cơ cấu
nợ công thì nợ Chính phủ chiếm tỷ trọng lớn nhất, tiếp đến là nợ được Chính
phủ bảo lãnh. Quy mô nợ của chính quyền địa phương chiếm tỷ trọng tương đối
thấp, dưới 1% GDP. Như vậy, các hệ số an toàn của nợ công Việt Nam tuy vẫn
còn trong giới hạn nhưng đã tiệm cận ở mức cao.
Nợ của Chính phủ Việt Nam đang chiếm tỷ trọng lớn và có xu hướng mở
rộng đáng kể trong những năm gần đây. Năm 2011, dư nợ Chính phủ bằng
khoảng 43,6% GDP, giảm so với con số 45,7% của năm 2010 nhưng chủ yếu là
do GDP danh nghĩa của năm 2011 tăng cao so với năm 2010 nên các hệ số nợ
khi so với GDP danh nghĩa năm 2011 có xu hướng giảm nhẹ. Mặc dù vẫn trong
giới hạn cho phép và tỷ trọng của dư nợ chính phủ so với tổng mức nợ công có
xu hướng giảm dần, nhưng tỷ trọng của nợ chính phủ so với GDP lại có xu
hướng tăng trong suốt thập niên 2000.
Trong dư nợ nước ngoài của Chính phủ, khoản vay ODA là lớn nhất. Tuy
nhiên, cần hiểu rằng khi Việt Nam đã trở thành nước có mức thu nhập trung
bình thì các điều kiện cho vay sẽ trở nên kém ưu đãi hơn và chi phí trả lãi vay
hằng năm sẽ ngày càng tăng.
Việc duy trì chi đầu tư từ ngân sách nhà nước ở mức cao trong giai đoạn
vừa qua đã làm gia tăng bội chi ngân sách. Bội chi ngân sách ở Việt Nam tăng ở
mức trung bình 4,0% GDP giai đoạn 1996 - 2000 lên 4,9% giai đoạn 2001 - 2005
GVHD: TRƯƠNG MINH TUẤN NHÓM 5
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ 5
và 5,5% giai đoạn 2006 - 2011. Năm 2011, bội chi đã giảm xuống mức thấp
nhất trong 3 năm qua là nhờ kết quả của việc thực hiện Nghị quyết 11 về những
giải pháp chủ yếu ổn định kinh tế vĩ mô.
Bội chi ngân sách kéo theo hệ quả trực tiếp là dư nợ công tăng và làm tăng
chi phí vay nợ của Chính phủ. Thêm vào đó, nguồn trái phiếu chính phủ huy
động để đầu tư cho các công trình kết cấu hạ tầng và dự án phát triển cũng đã
góp phần làm tăng nợ công. Do nằm ngoài dự toán, nên số nợ chính phủ thực
tế gia tăng trong thời gian qua luôn lớn hơn số cần có để bù đắp cho thâm hụt
ngân sách. Đây cũng là lý do về việc số bội chi ngân sách của Việt Nam khác so
với tính toán của các tổ chức tài chính quốc tế.
Nợ của Chính phủ bảo lãnh cho các tập đoàn, tổng công ty nhà nước trong
việc thực hiện các dự án phát triển (đầu tư công) chiếm một tỷ trọng khá lớn
trong tổng vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước vừa qua và có xu hướng
tăng lên, từ 4% tổng dư nợ công năm 2001 lên 10% năm 2005 và đến nay là
18,6% năm, tương đương 11,6% GDP.
Nợ chính quyền địa phương chủ yếu là vay nợ để đầu tư xây dựng cơ bản
theo Luật Ngân sách nhà nước 2002. Mức dư nợ phát hành trái phiếu của chính
quyền địa phương hiện nay vẫn ở mức thấp, hiện khoảng 0,6% GDP. Mức dư nợ
của chính quyền địa phương hiện nằm trong giới hạn quy định của Luật Ngân
sách nhà nước, không quá 30% tổng chi đầu tư xây dựng cơ bản trong nước của
các địa phương.
Như vậy, nhìn chung nợ công của Việt Nam đang tăng nhanh trong bối
cảnh thâm hụt ngân sách. Về nguyên tắc, nợ công của ngày hôm nay phải được
trả bằng thặng dư ngân sách của ngày mai. Do đó, dường như Việt Nam đang
vi phạm nguyên tắc quản lý nợ công bền vững.
GVHD: TRƯƠNG MINH TUẤN NHÓM 5
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ 6
GVHD: TRƯƠNG MINH TUẤN NHÓM 5
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ 7
II. ẢNH HƯỞNG CỦA NỢ CÔNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH
TẾ
Thứ nhất, nợ công là một nguồn rất cần thiết thuộc cấu trúc vốn tài
chính của các quốc gia, đặc biệt là những quốc gia đang phát triển, góp phần
vào sự phát triển kinh tế đất nước trong ngắn hạn, nhưng trong dài hạn có
nguy cơ gây tổn hại cho nền kinh tế bởi những yêu cầu thanh toán cả vốn gốc
và lãi của nó.
1. Quan điểm:
Theo quan điểm của Folorunso S. Ayadi và Felix O. Ayadi (2008)
+ Nợ là một trong những nguồn thuộc cấu trúc vốn tài chính của bất kỳ một
nền kinh tế nào, đặc biệt, đối với những đất nước đang phát triển thuộc Châu
Phi, Châu Á, Châu Mỹ La Tinh, đặc trưng bởi một cấu trúc vốn nội bộ không
thỏa đáng, do đó, luôn gặp phải vòng luẩn quẩn của năng suất thấp do thiếu
nguồn vốn đầu tư nâng cấp và xây dựng cơ sở hạ tầng, cập nhật công nghệ kỹ
thuật, rồi dẫn đến thu nhập thấp, kéo theo là t iết kiệm cũng thấp và tiếp tục quay
lại với cấu trúc vốn nội bộ th iếu thốn. V́ vậy, lúc này, những kiến thức thuộc về
chuyên môn, bộ máy quản lư tài chính quốc gia và sự hỗ trợ tài chính từ những
nước Phương Tây để khắc phục sự khó khăn về nguồn lực là điều trở nên rất cần
thiết.
+ Mặt khác, nợ nước ngoài như là một sự ràng buộc chính yếu đến cấu trúc
vốn của những quốc gia đang phát triển. Trong hầu hết các trường hợp, nợ dồn
tích lại bởi vì những yêu cầu thanh toán cả vốn gốc và lãi của nó, do đó, nợ dần
trở nên không góp phần một cách đáng kể cho sự phát triển kinh tế tại những đất
nước đang phát triển trong dài hạn. Phát triển những ý tưởng trên:
Theo Elmendorf và Mankiw (1999) , nợ công có ảnh hưởng quan trọng
đến nền kinh tế cả trong ngắn và dài hạn. Các khoản nợ (phản ánh tài trợ thâm
GVHD: TRƯƠNG MINH TUẤN NHÓM 5
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ 8
hụt) có thể kích thích tổng cầu và sản lượng trong ngắn hạn do lượng vốn cung
cấp cho nền kinh tế tăng cao, đáp ứng nhu cầu huy động vốn của những cá nhân
và tổ chức trong nền kinh tế, nhưng chèn lấn vốn đầu tư và làm giảm sản lượng
trong dài hạn. Nợ công cao có thể ảnh hưởng bất lợi đến tích lũy vốn và tăng
trưởng thông qua lãi suất dài hạn cao hơn, bóp méo hệ thống thuế trong tương
lai cao hơn, lạm phát và sự không chắc chắn cao hơn về các triển vọng và chính
sách.
2. Kết luận:
Trong ngắn hạn, nợ công tác động tích cực lên tăng trưởng kinh tế bởi
cung cấp một lượng vốn thiết yếu đối với chi tiêu cho đầu tư phát triển của quốc
gia, nâng cao năng suất nhưng kèm theo đó là những nghĩa vụ nợ phải thực hiện
trong tương lai, dẫn đến những ảnh hưởng bất lợi đến tích lũy vốn và tăng
trưởng kinh tế dài hạn nếu không có một chính sách quản lý nợ công phù hợp và
hữu hiệu.
Thứ hai, đối với những quốc gia phát triển và những nền kinh tế thị
trường mới nổi, mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế biểu hiện
rõ nhất khi nợ vượt mức 90-100% GDP; lúc này, nợ càng tăng, tăng trưởng
kinh tế giảm đáng kể.
1. Quan điểm:
Theo M. Reinhart và S. Rogoff , hai nhà kinh tế học nổi tiếng về nghiên
cứu lĩnh vực nợ công, đã xem xét mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh
tế với các mức độ khác nhau của nợ công ở những nền kinh tế tiên tiến và mới
nổi, dựa trên chuỗi số liệu quá khứ dài hạn và mô tả thực nghiệm đã đưa ra kết
quả tác động phi tuyến của nợ công đối với tăng trưởng kinh tế. Nghiên cứu gần
đây (2010) được thực hiện bởi hai tác giả này, thông qua thống kê tương quan
GVHD: TRƯƠNG MINH TUẤN NHÓM 5
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ 9
đơn giản về những mức khác nhau của nợ công và tốc độ tăng trưởng GDP thực
dài hạn trong mẫu 20 quốc gia phát triển4 trải dài khoảng hai thế kỷ (1790 –
2009), và mẫu 24 nền kinh tế thị trường mới nổi 5 giai đoạn 1946-2009 nhận
thấy rằng: (i) mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng dài hạn thì yếu đối với tỷ
số nợ/GDP dưới ngưỡng 90% GDP; (ii) trên 90%, khi nợ tăng, tốc độ tăng
trưởng giảm đáng kể.
2. Bằng chứng:
a) Nhóm nước phát triển
Reinhart và Rogoff (2010) đã tiến hành nghiên cứu, tìm hiểu về mối quan
hệ giữa tỷ lệ tăng trưởng GDP và các mức nợ khác nhau của 20 nước phát triển
trong khoảng thời gian 1946-2009. Nhóm này gồm Úc, Áo, Bỉ, Canada, Đan
Mạch, Phần Lan, Pháp, Đức, Hy Lạp, Ireland, Ý, Nhật Bản, Hà Lan, New
Zealand, Na Uy, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Anh và Mỹ. Quan sát
hàng năm được gộp thành 4 nhóm, dựa theo tỷ lệ nợ trên GDP trong suốt phạm
vi quan sát, cụ thể như: những năm khi nợ/GDP dưới 30% (nợ thấp), những năm
mà Nợ công/GDP từ 30% đến 60% (nợ trung bình), 60-90% (nợ cao), và trên
90% (rất cao). Có tổng cộng 1180 quan sát với 443 quan sát cho Nợ công/GDP
dưới 30%, 442 cho Nợ công/GDP từ 30-60%, 199 cho Nợ công/GDP từ 60-
90%, và 96 cho Nợ công/GDP trên 90% (những quan sát này thuộc về Bỉ, Hy
Lạp, Ý và Nhật Bản).
GVHD: TRƯƠNG MINH TUẤN NHÓM 5
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ 10
Các cột trên hình cho thấy tăng trưởng GDP trung bình và trung vị cho
mỗi trong 4 nhóm kể trên. Từ hình này, chúng ta thấy rằng không có sự kết nối
rõ ràng nào giữa nợ và tăng trưởng cho đến khi nợ công chạm đến ngưỡng 90%.
Những quan sát Nợ/GDP trên 90% có tăng trưởng trung vị thấp hơn gần 1% so
với nhóm nợ cao, đạt mức dưới 4,5% và mức tăng trưởng bình quân thấp hơn
gần 4% so với nhóm nợ cao, đạt giá trị âm. Như vậy, đối với nhóm quốc gia
phát triển, ngưỡng nợ 90% GDP đã hạn chế tăng trưởng kinh tế trung bình của
các nước. Vậy thì đối với nhóm nước đang phát triển, liệu ngưỡng nợ này có chi
phối tăng trưởng kinh tế các nước này không, hay một tỷ lệ nợ nào khác.
b) Nhóm nước mới nổi
GVHD: TRƯƠNG MINH TUẤN NHÓM 5
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ 11
Chúng tôi xem xét tỷ lệ nợ của 24 nền kinh tế mới nổi trong giai đoạn
1946-2009 và phân loại nhóm nợ như khi ta tiến hành đối với những nền kinh tế
phát triển. 24 nước trong mẫu là Argentina, Bolivia, Brazil, Chile, Trung Quốc,
Colombia, Ai Cập, Ấn Độ, Indonesia, Hàn Quốc, Malaysia, Mexico, Nigeria,
Peru, Philippines, Nam Phi, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Uruguay, and Venezuela.
Có tổng số 1142 quan sát hàng năm, cụ thể là: 502 quan sát cho Nợ/GDP dưới
30%, 385 cho Nợ/GDP từ 30-60%, 145 cho Nợ/GDP từ 60-90%, và 110 cho
Nợ/GDP trên 90%.12 Đáng ngạc nhiên là mối quan hệ giữa nợ công và tăng
trưởng thì tương tự nhau một cách đáng chú ý ở cả những thị trường mới nổi lẫn
những nền kinh tế phát triển. Trong giai đoạn 1946-2009, tốc độ tăng trưởng
trung vị và bình quân xấp xỉ khoảng 4-4,5% cho tất cả những mức độ nợ khoảng
90% GDP. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng GDP trung vị giảm mạnh còn 2,9%
đối với tỉ lệ nợ trên 90%, sự sụt giảm này còn lớn hơn khi xét đến tốc độ tăng
trưởng bình quân, giảm chỉ còn 1%. Như vậy, đối với những nước mới nổi, tỷ lệ
nợ có ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế nhiều nhất cũng được tìm thấy là mức
90% GDP.
Do đó, có thể nói, mức nợ 90% GDP là mức nợ đe dọa chung đến tăng
trưởng kinh tế của tất cả các nhóm nước.
3. Kết luận:
• Nợ công, tính trung bình, là có hại cho tăng trưởng kinh tế đối với mẫu đã thu
thập, sự thay đổi hàng năm trong tỷ lệ nợ công/GDP có quan hệ nghịch biến với
tăng trưởng bình quân đầu người.
• Và sự tác động này liên quan đến một điểm ngoặt hay còn gọi là ngưỡng nợ ở
mức xấp xỉ 90-100% GDP tính trung bình cho cả mẫu.
Như vậy, chúng ta đều biết mức nợ kìm hãm tăng trưởng kinh tế cho hầu hết các
nước trên thế giới đều ở ngưỡng 90 – 100% GDP. Vậy khi đặt ngưỡng nợ trong
GVHD: TRƯƠNG MINH TUẤN NHÓM 5
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ 12
vấn đề quản lý nợ công thì liệu các quốc gia sẽ quản lý nợ dựa trên ngưỡng nợ
này để đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế tối ưu? Phương pháp quản lý nợ này
là tốt nhất cho các quốc gia.
Thứ ba, có thể xem xét sự tác động của nợ công lên tăng trưởng kinh tế
thông qua dữ liệu nợ nước ngoài cùng với những rủi ro và hệ lụy mà nó đưa
lại: sự không khuyến khích đầu tư, giới hạn sự tham gia của các quốc gia
đang phát triển với nền kinh tế toàn cầu, sự trống rỗng trong dự trữ ngoại hối
quốc gia, cứng nhắc trong chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa.
1. Quan điểm:
Một số nghiên cứu của Krugman (1988) và Sachs (1989)
đã xem xét tác
động của nợ công lên tăng trưởng kinh tế thông qua sự tác động của một yếu tố
đóng vai trò quan trọng: đó là nợ nước ngoài, lên tăng trưởng kinh tế ở những
nền kinh tế đang phát triển. Hầu hết động cơ của các nghiên cứu này là giả
thuyết "số dư nợ quá mức" – một tình huống trong đó, gánh nặng nghĩa vụ nợ
của một quốc gia là quá nặng đến nỗi một phần sản lượng lớn phải tích lũy cho
các chủ nợ nước ngoài và do đó gây nên sự không khuyến khích đầu tư. Cũng
theo đánh giá của Ayadi (1999) và Ayadi et. al. (2003)
6
, gánh nặng nợ nước
ngoài đã giới hạn sự tham gia của những quốc gia đang phát triển với nền kinh
tế toàn cầu và kèm theo đó là những nghĩa vụ nợ đã gây trở ngại đến tăng trưởng
và phát triển kinh tế. Khi vay nợ của một quốc gia tăng lên và càng cao, những e
ngại về vấn đề mất khả năng chi trả được đặt nặng, các quốc gia khác tiến hành
thẩm định môi trường đầu tư kỹ càng hơn và từ đó, đưa ra những điều khoản
khắt khe hơn gây ảnh hưởng đến hội nhập kinh tế của nền kinh tế chính quốc.
Hơn thế nữa, gánh nặng nợ quốc gia gây cản trở chi tiêu công cho đầu tư phát
triển, hạn chế việc tích lũy nguồn vốn (sự trống rỗng trong dự trữ) và có khuynh
hướng cản trở áp dụng những chính sách tiền tệ linh hoạt để củng cố những
GVHD: TRƯƠNG MINH TUẤN NHÓM 5
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ 13
doanh nghiệp vừa và nhỏ do nguồn thu được phải đáp ứng phần lớn nghĩa vụ nợ
cả gốc và lãi. Điều này đã ảnh hưởng một cách gián tiếp đến việc làm, học vấn
và sự bần cùng, nghèo khó của người dân trong một quốc gia.
2. Bằng chứng:
a) Nợ nước ngoài và tiết kiệm trong nước có mối quan hệ ngược
chiều giai đoạn 1990-2009
“Nợ nước ngoài và tiết kiệm trong nước có mối quan hệ ngược chiều và
tác động đến tăng trưởng kinh tế. Vốn được huy động từ nguồn nợ nước ngoài
được sử dụng hiệu quả vào phát triển kinh tế đất nước.”
Nghiên cứu về sự tác động của nợ nước ngoài đến tiết kiệm trong nước và tăng
trưởng kinh tế, với bộ dữ liệu thu thập tại Việt Nam qua 20 năm 1990-2009
Hình :
GVHD: TRƯƠNG MINH TUẤN NHÓM 5
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ 14
cho ta một cái nhìn tổng quát về xu hướng biến động của các yếu tố: nợ nước
ngoài, tăng trưởng kinh tế và tiết kiệm trong nước. Năm 1990 là năm kết thúc
chương trình đổi mới kinh tế giai đoạn 1986-1990 và tăng trưởng kinh tế đã có
những chuyển biến tốt, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và tập thể được
thừa nhận và được tạo điều kiện hoạt động, nền kinh tế được định hình theo
hướng kinh tế thị trường, đây cũng là mốc thời gian đánh dấu về sự phát triển
GVHD: TRƯƠNG MINH TUẤN NHÓM 5
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ 15
xuất khẩu của Việt Nam về lương thực, thực phẩm và dầu thô. Nền kinh tế Việt
Nam dần trở nên năng động, việc vay nợ của Chính Phủ và tư nhân trong nước
tăng cao đột biến, hưởng ứng công cuộc cải cách kinh tế và thực hiện chuỗi Ba
chương trình kinh tế lớn: hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu và lương thực – thực
phẩm. Lúc này, những năm 1990-1996, nợ nước ngoài luôn cao trên 100% GDP
và được đầu tư để xây dựng cơ sở hạ tầng, ổn định cuộc sống cho người dân và
để mở rộng kinh tế sau giai đoạn đóng cửa nền kinh tế lâu dài, đặc biệt năm
1990, nợ nước ngoài lên tới 450% GDP. Nợ nước ngoài giai đoạn này rất cao và
tiết kiệm trong nước lại ở mức thấp, điều này là hoàn toàn hợp lý khi lượng vốn
vay mượn và lượng vốn từ trong nước được đầu tư gần như hoàn toàn vào nền
kinh tế, sử dụng hiệu quả dòng vốn và tạo nên sự tăng trưởng kinh tế đầy
ngưỡng mộ trong giai đoạn 1992-1997, đặc biệt là 9,5% trong năm 1995. Từ đó
trở đi đến 2009, nợ nước ngoài liên tục giảm và đi vào ổn định ở mức khoảng
30-40% GDP giai đoạn 2000 đến nay. Tiết kiệm trong nước cũng tăng dần lên
do tâm lý, truyền thống và cách sống của người dân Á Đông, hướng về chăm lo
cho cuộc sống trong tương lai và lo sợ rủi ro khi nền kinh tế dần hòa nhập với
quỹ đạo kinh tế thế giới và ngày càng năng động hơn, kéo theo đó là rủi ro cũng
tăng dần lên. Giai đoạn 2000-2007, tăng trưởng kinh tế cũng đi vào ổn định
khoảng 7%-8,5% do môi trường kinh tế Việt Nam ngày càng được thế giới nhìn
nhận và lựa chọn là địa điểm tốt để đầu tư p