Tựdo không phải là thuật ngữxa lạ, càng không phải một phát hiện bởi nó gắn
liền với con người nhưmột công cụ đểtồn tại, đểsống và đểphát triển. Tuy nhiên, đối
với con người, tựdo vẫn phần nào bí ẩn. Riêng bản thân tôi đối với phạm trù “ tựdo ”
thật sự, đang rất mơhồ, và chưa nhận thức trọn vẹn vềnó, càng chưa biết khai thác và
sửdụng nó nhưmột công nghệphát triển. Những gì tôi viết sau đây, có thể, khi đọc
rồi, bạn sẽkhen tôi viết hay, nhưng cũng có thể, đọc xong bạn lại cho rằng rất dở,
chẳng qua chỉlà sựsao chép đơn thuần trong thời đại bùng nổthông tin. Có thểlắm
chứ, “ tựdo ngôn luận mà”. Cũng nhưtôi, luôn cho rằng “ C. Mác và Lênin không thể
bằng tôi được”, nói thếmọi người đừng cười, bởi vì tôi biết “ C. Mác và Lênin thì quá
vĩ đại ”, còn tôi “thì lại quá tầm thường”. Chính vì thế, dẫu biết rằng thời kỳKhai sáng
đã đánh dấu một bước ngoặt không chỉtrong lịch sửtriết học mà còn trong nhận thức
của con người. Các học giảcủa thời kỳ ấy không phải những người đầu tiên bàn vềtự
do nhưng họlà những người có công rất lớn trong việc xây dựng những nhận thức mới
vềtựdo và thức tỉnh nhân loại vềcác giá trịcủa nó. Phương Tây đã đón nhận những
đóng góp ấy và là những người đầu tiên được nếm vịngọt của tựdo và hưởng thụ
những thành quảcủa tựdo. Tuy nhiên, ởmột sốvùng kém phát triển, con người vẫn
mơhồtrước tựdo và dừng lại ởviệc nhận thức nó nhưmột công cụ đểthỏa mãn các
đòi hỏi mang tính bản năng. Tựhỏi, đâu là căn nguyên của hiện tượng này? Phải
chăng, có mối liên hệgiữa tình trạng kém phát triển với trạng thái thiếu hoặc không có
tựdo?
14 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2468 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tự do và tất yếu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TiÓu luËn TriÕt häc – Chñ ®Ò “ Tù do vµ tÊt yÕu ”- GVHD - TS. Bïi V¨n Dòng.
Häc viªn thùc hiÖn: NguyÓn H¶i Thμnh – Líp TriÕt 1 CH17 – Chuyªn ngµnh PPGD VËt lý.
1
Bμi luËn vÒ triÕt häc.
Chñ ®Ò: tù do vμ tÊt yÕu.
Gi¸o viªn d¹y: ts. Bïi v¨n dòng.
Häc viªn thùc hiÖn: nguyÓn h¶I thμnh - Líp triÕt 1 - ch17 - ppgd vËt lý.
tù do vμ TÊt yÕu.
Tự do không phải là thuật ngữ xa lạ, càng không phải một phát hiện bởi nó gắn
liền với con người như một công cụ để tồn tại, để sống và để phát triển. Tuy nhiên, đối
với con người, tự do vẫn phần nào bí ẩn. Riêng bản thân tôi đối với phạm trù “ tự do ”
thật sự, đang rất mơ hồ, và chưa nhận thức trọn vẹn về nó, càng chưa biết khai thác và
sử dụng nó như một công nghệ phát triển. Những gì tôi viết sau đây, có thể, khi đọc
rồi, bạn sẽ khen tôi viết hay, nhưng cũng có thể, đọc xong bạn lại cho rằng rất dở,
chẳng qua chỉ là sự sao chép đơn thuần trong thời đại bùng nổ thông tin. Có thể lắm
chứ, “ tự do ngôn luận mà”. Cũng như tôi, luôn cho rằng “ C. Mác và Lênin không thể
bằng tôi được”, nói thế mọi người đừng cười, bởi vì tôi biết “ C. Mác và Lênin thì quá
vĩ đại ”, còn tôi “thì lại quá tầm thường”. Chính vì thế, dẫu biết rằng thời kỳ Khai sáng
đã đánh dấu một bước ngoặt không chỉ trong lịch sử triết học mà còn trong nhận thức
của con người. Các học giả của thời kỳ ấy không phải những người đầu tiên bàn về tự
do nhưng họ là những người có công rất lớn trong việc xây dựng những nhận thức mới
về tự do và thức tỉnh nhân loại về các giá trị của nó. Phương Tây đã đón nhận những
đóng góp ấy và là những người đầu tiên được nếm vị ngọt của tự do và hưởng thụ
những thành quả của tự do. Tuy nhiên, ở một số vùng kém phát triển, con người vẫn
mơ hồ trước tự do và dừng lại ở việc nhận thức nó như một công cụ để thỏa mãn các
đòi hỏi mang tính bản năng. Tự hỏi, đâu là căn nguyên của hiện tượng này? Phải
chăng, có mối liên hệ giữa tình trạng kém phát triển với trạng thái thiếu hoặc không có
tự do?
Có thể hiểu, phạm trù "Tự do" dùng để chỉ nhu cầu và khả năng của con người
trong những hoạt động phù hợp với những lợi ích và mục tiêu của mình, không cần sự
can thiệp hay cản trở từ bên ngoài. Tuy nhiên đó mới chỉ là cách hiểu tương đối và đơn
giản về tự do. Trên thực tế, tự do là một phạm trù mở, hiểu và thể hiện tự do trong đời
sống là một quá trình mâu thuẫn và có tính hai mặt. Vì thế, trong lịch sử nhân loại đã
có nhiều nhà triết học bàn về vấn đề này, từ Arixtốt, Êpiquya đến C.Mác từ phái Khắc
kỷ đến chủ nghĩa Hiện sinh. Phải thừa nhận rằng, tự do là một phạm trù có tính xã hội,
tự do chỉ được bàn đến trong xã hội, trong hệ thống các quan hệ giữa người với người.
Tự do cần cho con người trong việc tạo ra các giá trị vật chất và giá trị tinh thần để
thông qua đó, mỗi cá nhân bộc lộ toàn bộ khả năng và thiên hướng của mình. Ý thức
về tự do và vươn tới tự do chỉ có ở xã hội với tư cách một sự tự tổ chức khác về chất so
với thế giới “không phải con người ”, thế giới đó vận hành và phát triển trên cơ sở các
TiÓu luËn TriÕt häc – Chñ ®Ò “ Tù do vµ tÊt yÕu ”- GVHD - TS. Bïi V¨n Dòng.
Häc viªn thùc hiÖn: NguyÓn H¶i Thμnh – Líp TriÕt 1 CH17 – Chuyªn ngµnh PPGD VËt lý.
2
quy luật nội tại của mình. Thiết nghĩ sống trong xã hội mà lại tự do hoàn toàn khỏi các
điều kiện xã hội là điều không thể. Tuy nhiên, mục đích của con người và mục đích
của xã hội không phải lúc nào cũng nhất trí với nhau. Do vậy, mâu thuẫn trong quan
niệm về tự do là một tất yếu khách quan trên con đường tiến hóa của nhân loại. Bên
cạnh đó, ngoài những điểm chung mang tính nền tảng, quan niệm về nội dung và
phương thức thực hiện tự do trong mỗi xã hội có thể phụ thuộc vào tính chất và nội
dung các chuẩn mực, các quy tắc, các giá trị văn hóa dân tộc, lịch sử, thói quen, tập
quán, tâm lý... đang thống trị. Chẳng hạn, nếu ở Phương Tây, người ta thiên về nhấn
mạnh tự do cá nhân thì ở Phương Đông, quyền và tự do tập thể (nhóm, chủng tộc, dân
tộc...) là cái thường được quan tâm. Một hoạt động được chỗ này đánh giá là tự do, chỗ
khác lại xem là mất tự do, bởi lẽ tự do hay không tự do là một vấn đề nhận thức. Do xã
hội là một phức hợp của những con người, những cá nhân sống với những đặc tính
không hòa lẫn, phong phú và phức tạp, gia nhập vào những quan hệ nhất định ấy, nên
nhận thức về tự do khó có thể đạt tới sự nhất trí hoàn hảo. Nghịch lý hay mâu thuẫn
trong quá trình vươn tới sự tự thể hiện được thể hiện khá rõ nét trong mâu thuẫn giữa
lý tưởng và hiện thực. Lịch sử từng chứng kiến những lực lượng xã hội đấu tranh
không mệt mỏi vì giá trị thiêng liêng này, song một khi đạt được mục tiêu thì những
lực lượng ấy, giờ đây trở thành lực lượng thống trị, đã tìm mọi cách hạn chế tự do của
con người, hoặc xuyên tạc nó. Tự do trở thành đặc quyền, nghĩa là tự do diễn ra song
song với sự đánh mất tự do, sự "tha hóa" đời sống có tính loài của cá nhân. Còn nhớ,
trong bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng, chính dân tộc ta, bằng cuộc đấu tranh bền bỉ suốt 80
năm, đã khôi phục những giá trị của con người, trong đó có tự do - cái từng bị thực dân
Pháp chà đạp nhân danh khai hóa văn minh. Cách mạng tư sản đã phần nào biến khát
vọng tự do thành hiện thực tự do trong quan hệ công dân. Tự do của con người trong
điều kiện của chủ nghĩa tư bản được thể hiện ở chỗ, khác với các thời đại đã qua, con
người làm chủ bản thân mình, nó là cá nhân tự do về phương diện luật pháp. Tuy
nhiên, nghịch lý của tự do tư sản lại gắn với việc tất cả đều trở nên tự do - sự tự do
mang tính hình thức, bởi ở nó có cả tự do bán sức lao động và sự mất tự do ngay trong
đội ngũ những người có "chuyên môn tự do". E.Phrôm cho rằng, chủ nghĩa tư bản đã
hình thành nên một kiểu tính cách cá nhân - "tính cách thị trường". Những con người
tự do ấy phải thường xuyên đối mặt với những thách thức mang tính sống còn do kinh
tế thị trường với các luật chơi của nó áp đặt. Ông viết: "Ở những người mang tính cách
thị trường không có mục tiêu nào khác ngoài vận động thường xuyên, ngoài việc hoàn
thành tất cả các công việc với cường suất cao nhất, và nếu ta hỏi họ tại sao họ phải vận
động với tốc độ như thế, tại sao họ cố đạt được cường suất cao nhất, hẳn họ sẽ không
đưa ra câu trả lời thực sự nào...". Con người thị trường là người tự do và với tính cách
đó, anh ta buộc phải tìm kiếm phương thức tối ưu để hiện thực hóa những khả năng
của mình. Xã hội tư sản tiếp tục đương đầu với cuộc đấu tranh vì tự do và bình đẳng
của những lực lượng xã hội đã khác trước. Mâu thuẫn giữa lý tưởng và hiện thực có
thể triển khai thành mâu thuẫn giữa khao khát tự do và lạm dụng tự do.
TiÓu luËn TriÕt häc – Chñ ®Ò “ Tù do vµ tÊt yÕu ”- GVHD - TS. Bïi V¨n Dòng.
Häc viªn thùc hiÖn: NguyÓn H¶i Thμnh – Líp TriÕt 1 CH17 – Chuyªn ngµnh PPGD VËt lý.
3
Tất nhiên, ngoài tính xã hội thì tự do còn là một phạm trù mang tính lịch sử,
việc nhận thức và lý giải nó gắn liền với các thời kỳ lịch sử khác nhau. Ở Hy Lạp, La
Mã cổ đại chưa hình thành lý luận riêng về tự do, mà chỉ có những cuộc đấu tranh vì tự
do, vì sự tự ý thức của người nô lệ. Trong nền dân chủ chủ nô, cùng với sự quan tâm
đến giới tự nhiên và vũ trụ, các vấn đề con người và xã hội cũng đã được tìm hiểu một
cách sâu sắc. Con người giờ đây không chỉ là chủ thể, mà còn là một đối tượng nghiên
cứu. Thời cực thịnh của sự phát triển xã hội cho phép các công dân nghĩ về trách
nhiệm và quyền lợi tập thể gắn với quyền lợi quốc gia. Nhà khai sáng đầu tiên trong
thế giới cổ đại phương Tây - Prôtago đã khẳng định: "Con người - thước đo của vạn
vật". Sự khẳng định này lấy con người làm hệ quy chiếu để giải quyết các vấn đề về
tồn tại và nhận thức. Trong sự tự do mang tính tự ý thức đó, Prôtago xem nghệ thuật
tranh luận như là phương thức chứng minh vai trò của chủ thể. Xôcrát đã chọn cách
tiếp cận khác khi nhấn mạnh rằng, sự tự do mang tính tự ý thức được đề cao chỉ trong
chừng mực nó được gắn với mục đích đạo đức cao nhất - cái Thiện phổ quát. Arixtốt -
nhà triết học Hy Lạp cổ đại nổi tiếng đã đề cập đến năng lực lựa chọn tự do từ bình
diện đạo đức - chính trị. Ông cho rằng, con người với tư cách sinh vật xã hội, luôn biết
chọn cho mình cách sống và lối ứng xử phù hợp với lý trí. Năng lực lựa chọn tự do
không có nghĩa là vượt quá khuôn khổ của các quy tắc, các chuẩn mực truyền thống, là
sự khẳng định cái Tôi một cách vô nguyên tắc. Nó phải dựa trên sự nhận thức về vị trí
của cái Tôi giữa những cái Khác. Êpiquya là người đã đem lại những suy nghĩ mới về
vấn đề tự do. Theo ông, tự do trước hết phải được hiểu như sự giải thoát của con người
khỏi mọi ràng buộc của số phận, lấy sự thư thái, tĩnh tâm làm điều kiện cho đời sống
cá nhân. Tự do là tự chủ, tự quyết định hành động vươn tới hạnh phúc, tránh mọi khổ
đau và không bị cám dỗ bởi những thú vui vật chất tầm thường. Và , tự do như thế mới
là tự do mang tính người. Rằng, tự do là không bị lệ thuộc vào thói quen ý thức và tín
ngưỡng truyền thống, không bận tâm đến cái chết, không thừa nhận vai trò của thần
thánh cả trên trời lẫn dưới đất. Trong luận án tiến sĩ của mình - Về sự khác nhau giữa
triết học tự nhiên của Đêmôcrít và triết học tự nhiên của Êpiquya, sau khi phân biệt
cách hiểu của Đêmôcrít và Êpiquya về sự vận động của các nguyên tử, C.Mác đã phát
hiện ra ở Êpiquya xu hướng nhân bản hóa nguyên tử luận và thông qua đó, ông đề cao
sự tự ý thức tự do của con người, khát vọng giải phóng khỏi tính tất yếu xã hội - cái
được hiểu như là những trói buộc, áp đặt của xã hội phi nhân tính. "Để cho con người,
- C Mác viết, “ với tư cách là con người, trở thành khách thể thật sự duy nhất của
mình, - để trở thành như vậy con người phải phá tan ở trong bản thân mình tồn tại hiện
hữu tương đối của mình, sức mạnh của những ham muốn và của thiên nhiên mù quáng.
Sự đẩy nhau là hình thức thứ nhất của tự ý thức; vì vậy nó tương ứng với sự tự ý thức
đã cảm thụ mình như là cái hiện hữu trực tiếp, cái cá biệt trừu tượng". Cần thấy rằng,
sự sụp đổ của thế giới cổ đại bởi những mâu thuẫn bên trong và sự tấn công của các
sắc tộc "man di" từ bên ngoài một phần liên quan đến vấn đề tự do, cả trong tư tưởng
lẫn trong hiện thực. Chế độ chiếm hữu nô lệ trong quá trình tồn tại và phát triển của nó
đã tước bỏ thiên chức làm người của 3/4 dân số, biến họ thành nô lệ, thành "công cụ
TiÓu luËn TriÕt häc – Chñ ®Ò “ Tù do vµ tÊt yÕu ”- GVHD - TS. Bïi V¨n Dòng.
Häc viªn thùc hiÖn: NguyÓn H¶i Thμnh – Líp TriÕt 1 CH17 – Chuyªn ngµnh PPGD VËt lý.
4
biết nói" và đối xử với họ như hàng hóa có thể trao đổi giữa các chủ nô. Cùng với đó,
quan niệm về "công dân" và "nô lệ" cũng được xem xét từ góc độ người tự do và người
không tự do. Nô lệ đồng nghĩa với thế giới động vật có tinh thần. Điều này giải thích vì
sao sự ra đời và phổ biến nhanh chóng của Kitô giáo vào đầu Công nguyên được xem
như sự giải thoát tinh thần, như lời cảnh tỉnh về cái chết khó có thể tránh khỏi của chế
độ chiếm hữu nô lệ. Sự ra đời của Kitô giáo là một hiện tượng cách mạng trong sinh
hoạt tôn giáo; nó là tôn giáo của người nghèo, của quần chúng bị áp bức, là sự tuyên
truyền cho lối sống bình đẳng, dân chủ, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, nam nữ.
Quá trình hợp pháp hóa Kitô giáo diễn ra song song với quá trình thay thế quan hệ xã
hội chủ nô - nô lệ bằng quan hệ xã hội đi dần vào quỹ đạo của xã hội phong kiến cuối
thế kỷ IV - đầu thế kỷ V. Sau khi trở thành quốc giáo, Kitô giáo đòi quyền độc tôn
trong sinh hoạt tinh thần, trở thành một vương quốc với quyền uy tối thượng. Đại diện
tiêu biểu cho triết học Kitô giáo là Ôguýtxtanh ở thời kỳ Giáo phụ và Tômát Đacanh
trong triết học kinh viện. Theo thuyết Sáng thế, con người là hình ảnh của Thiên chúa,
nên tự do cũng là món quà mà Thiên chúa ban cho con người, tự do tinh thần được coi
trọng hơn tự do thân xác. Thậm chí, ngay cả khi con người bị biến thành nô lệ thì sự nô
lệ thân xác vẫn không ngăn cản ý chí tự do. Tômát Đa canh cho rằng, tự do với tư cách
một giá trị là sự giải thoát khỏi những ràng buộc của thế giới trần tục để vươn tới nơi
sâu thẳm. Nhưng quan niệm như thế là sự đánh tráo tự do, thủ tiêu tự do hiện thực,
biện minh cho tự do ảo tưởng, phi hiện thực. Vào đêm trước của cách mạng Pháp
1789, G.G.Rút xô đã nói đến tình trạng phổ biến của sự mất tự do: "Người ta sinh ra tự
do, nhưng rồi đâu đâu con người cũng sống trong xiềng xích ". Chủ nghĩa thầy tu khổ
hạnh là minh chứng rõ rệt của quan niệm "phụng sự Chúa quên thân mình" và đề cao
tự do tâm linh, vượt qua mọi cám dỗ tội lỗi trong Kitôgiáo. Phục hưng là sự kết thúc
đầy ý nghĩa lịch sử trung đại và cũng là sự chấm dứt cách hiểu theo lối Kitôgiáo về tự
do, chỉ còn giữ lại tính hình thức của nó, nghĩa là xem tự do như món quà kỳ diệu mà
Chúa ban cho con người. Song, con người tự do trước hết là tự do trong sự lựa chọn
phương thức sống và tín ngưởng. Thời đại Phục hưng là thời đại chuyển tiếp từ chế độ
phong kiến sang chủ nghĩa tư bản, tính chuyển tiếp này trong tư duy được thể hiện ra ở
cuộc đấu tranh chống thần quyền và những tín điều bảo thủ, thuyết Thần là trung tâm
được thay bằng thuyết Con người là trung tâm, chủ nghĩa thầy tu khổ hạnh được thay
bằng chủ nghĩa hạnh phúc, thuyết định mệnh được thay bằng thuyết tự do cá nhân. Và,
chủ nghĩa nhân văn đã mở đường cho cuộc đấu tranh thật sự chống lại cả thần quyền
lẫn thế quyền trong thời Cận đại. Quan niệm cận - hiện đại về tự do luôn gắn kết với sự
hình thành và khẳng định tư tưởng về con người cá nhân, về xã hội công dân và nhà
nước pháp quyền. Quá trình chuyển từ thời đại phong kiến Trung cổ sang Cận đại là
quá trình đánh giá lại vị trí và vai trò của con người trong xã hội, đề cao tự do như
phẩm giá cao nhất, như bản tính cố hữu, cái phú bẩm nơi con người. Người ta gọi đó là
sự hình thành một hệ biến thái mới về thế giới quan. Một mặt, thời Cận đại tạo điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển nhân cách và sự thực hiện những khả năng của nó. Chủ
nghĩa cá nhân được xác lập trên cơ sở đồng nhất tự do cá nhân và tư hữu, trở thành sức
TiÓu luËn TriÕt häc – Chñ ®Ò “ Tù do vµ tÊt yÕu ”- GVHD - TS. Bïi V¨n Dòng.
Häc viªn thùc hiÖn: NguyÓn H¶i Thμnh – Líp TriÕt 1 CH17 – Chuyªn ngµnh PPGD VËt lý.
5
mạnh kích thích to lớn cho sự phát triển lực lượng sản xuất xã hội và sự hình thành nền
dân chủ chính trị. Chính thời Cận đại với thế giới quan khoa học duy lý đã tạo ra
những điều kiện cho sự giải phóng tinh thần và sự hiện thực hóa mọi khả năng của con
người, cho quá trình con người thâm nhập vào cõi bí hiểm của tự nhiên. Các hình thức
tạo dựng cuộc sống mới dựa trên cơ sở hợp lý, khoa học đem đến con người sự thuận
lợi và tiện nghi mà các thời đại trước thậm chí chưa dám nghĩ đến. Hơn nữa, sự mở
rộng vô điều kiện các giới hạn của tự do cá nhân còn mang đến cho từng cá nhân khả
năng cảm nhận về con người với tư cách chủ thể thế giới, người sáng tạo duy nhất số
phận mình. Mặt khác, sau khi giải thoát khỏi những quan hệ lỗi thời, chật hẹp, mang
tính phường hội, con người cũng đồng thời tự tin hơn trong việc xác định vị trí của
mình giữa cộng đồng và khẳng định ý nghĩa của tồn tại. Thay đổi quan niệm Trung cổ
về con người như hình ảnh của Thiên chúa, các nhà tư tưởng thời Cận đại đặt con
người vào vị trí trung tâm, biến nó thành con người tự chủ, tự quy định và đầy tham
vọng chinh phục thế giới. Nhưng, vũ trụ vốn quá mênh mông, hờ hững trước những
nhu cầu con người, nên mỗi bước tiến tới tự do, con người lại phải đặt mình trong tính
tất yếu, trong sự nhận thức quy luật. Đó là cái giá phải trả cho tự do? Hơn nữa, bất
chấp những thành quả đáng ngạc nhiên trong việc chinh phục tự nhiên và mở rộng
phạm vi thực hiện những khả năng, con người vẫn chưa học được cách điều chỉnh thế
giới mà mình tạo ra. Có vẻ như lạ lùng, song chủ nghĩa cá nhân - cái tiền đề cơ bản của
sự khẳng định tính tự chủ của từng cá thể lại chứa đựng cả những yếu tố nô dịch con
người. Cội nguồn biến thái này nằm ở khuynh hướng luận giải con người từ góc độ
quyết định luận vật chất và thực dụng - vị lợi. Theo cách tiếp cận này, tự do con người
cũng được hiểu trước hết như là sự tự do lựa chọn phương thức và nguồn khai thác
phương tiện tồn tại, tự do mua và bán. Trong xã hội Phương Tây công nghiệp hiện nay,
mối quan hệ giữa người làm công và người chủ mang tính chất công cụ và thực dụng.
Người sở hữu tư bản sử dụng người làm thuê như bất kỳ công cụ nào, như máy móc.
Về phần mình, người làm thuê cũng sử dụng người chủ sở hữu nhằm đạt được mục
đích kinh tế thực dụng, họ không quan tâm đến điều gì khác ngoài tính lợi ích tương hỗ
này. Không chỉ quan hệ thuần túy kinh tế mà cả nhiều quan hệ khác giữa người với
người cũng có những hình thức biểu hiện tương tự. Bán sức lao động của mình, con
người cũng cảm giác về mình như một thứ hàng hóa. "Tự do" như thế, theo C.Mác, là
biểu hiện của tha hóa, của sự đánh mất tính loài đặc thù trong đời sống con người.
Những năm 20 của thế kỷ XIX đã xuất hiện cách giải thích tự do theo ý chí luận, mà
đại diện tiêu biểu là A. Sôpenhauơ. Ông cho rằng, ý chí là bản nguyên sống cố hữu của
con người, ý chí sinh tồn hiện hữu khắp nơi và trở thành lý chí vũ trụ. Thế giới là ý chí
và biểu tượng của Tôi, Tôi cảm nhận thế giới qua lăng kính ý chí và biểu tượng, bởi lẽ
thế giới hiện ra không như nó vốn là như vậy, mà qua sự biểu tượng của Tôi. Ý chí của
Tôi áp đặt cho thế giới đó một ý nghĩa chủ quan; ý chí tự do và sáng tạo dẫu sao cũng
là mù quáng. Ý chí tự do đưa ta đến những miền đất mới mẻ, hoang sơ. Lý trí là kẻ
phụng sự ý chí, chứ không phải là ngược lại. Từ đó, Sôpenhauơ cho rằng, sự tồn tại
của “ thế giới cho ta ” ở một chừng mực nhất định là quá trình hiện thực hóa những
TiÓu luËn TriÕt häc – Chñ ®Ò “ Tù do vµ tÊt yÕu ”- GVHD - TS. Bïi V¨n Dòng.
Häc viªn thùc hiÖn: NguyÓn H¶i Thμnh – Líp TriÕt 1 CH17 – Chuyªn ngµnh PPGD VËt lý.
6
thiên hướng và tiềm năng cố hữu trong bản thân mỗi con người. Tự do ý chí sẽ không
còn ý nghĩa, nếu khả năng của con người bị giới hạn theo những khuôn mẫu của lý trí.
Chân lý duy nhất không dành chỗ cho sự tự do lựa chọn. Độc quyền, nhất nguyên, sự
thiếu vắng tự do lựa chọn tự chúng đã mâu thuẫn với bản chất con người. Chủ nghĩa
hiện sinh được xem như học thuyết triết học về sự tồn tại của con người trong thế giới
và thế giới là thế giới của chính con người. Tìm kiếm ý nghĩa của hiện sinh như là tồn
tại - ý thức, tồn tại trong âu lo, xao xuyến, nếm trải và sáng tạo, cái mà “ thế giới
không con người ” không thể có được, các nhà hiện sinh luôn nhấn mạnh tính duy nhất
của hiện sinh hay tồn tại con người, thể hiện ở chỗ con người là bản thể tự quy, tự tại
mà những cái khác không thể sánh được. G.P.Xáctơrơ đã đề cập tới sự tự do lựa chọn
thái độ sống của mỗi cá nhân, còn A.Camuy thì gắn tự do với trách nhiệm của cá nhân
đối với xã hội. Ý tưởng con người - dự phóng được Xáctơrơ xem như thông điệp của tự
do và sự tự vươn lên của con người. "Con người là một dự phóng, - Xáctơrơ viết, -
sống bằng cuộc sống riêng của mình, thay vì là một đám rêu xanh, mốc meo, hoặc một
bắp cải ôi". M. Haiđơgơ cũng như các nhà hiện sinh khác đã phê phán "trung bình
tính" và coi sự "chuẩn hóa xã hội" là cái san phẳng tính độc đáo cá nhân. Ông viết:
"Chúng ta thưởng thức và giải trí như "người ta" thưởng thức; chúng ta đọc, nhìn và
phán đoán về văn chương và nghệ thuật như "người ta " đọc, nhìn và phán đoán...
Người ta không là kẻ nào xác định, mà là tất cả, mặc dầu không phải là tổng số, quy
định cách thể hữu của thường nhật tính... Trung bình tính, san bằng, xét như là những
cách thể hữu của "người ta" cấu tạo cái mà người ta gọi là "công cộng tính". Các nhà
hiện sinh còn gắn vấn đề tự do với mối quan hệ giữa cái bản chất và cái hiện hữu.
Xáctơrơ cho rằng, cái hiện hữu của con người đi trước bản chất của nó, nhưng cách đặt
vấn đề "hiện hữu đi trư