Tiểu luận Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử với việc xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay

Từ xưa đến nay, con người luôn là vấn đề cốt lõi, vấn đề thiết yếu của lịch sử tư tưởng nói chung và của triết học nói riêng. Việc nghiên cứu tư tưởng về con người trong lịch sử để tìm ra những hạn chế và giá trị tích cực, từ đó góp phần vào việc xây dựng con người hiện tại và tương lai. Trong công cuộc đổi mới ở nước ta, Đảng ta xác định con người là một trong những nhân tố quyết định hàng đầu tới sự phát triển của đất nước. Con người mới mà hiện nay toàn Đảng, toàn dân ta đang quyết tâm xây dựng là con người phát triển toàn diện về mọi mặt: thể chất, trí tuệ, đạo đức, Quán triệt tư tưởng trên, Nhà nước và nhân dân ta đã tập trung huy động toàn bộ lực lượng xã hội tham gia vào nhiệm vụ xây dựng con người mới, trong đó có việc tiếp thu các giá trị truyền thống tốt đẹp và tinh hoa văn hóa nhân loại. Một trong những tư tưởng quý báu trong kho tàng nhân loại, thấm đẫm truyền thống phương Đông, có ảnh hưởng sâu sắc đến việc hình thành con người Việt Nam thời phong kiến chính là tư tưởng giáo dục của Khổng Tử. Khổng học là một học thuyết chính trị- xã hội luôn lấy đức làm trọng, là công cụ quản lý xã hội của giai cấp thống trị Trung Quốc. Với rất nhiều giáo lý phù hợp với xã hội Việt Nam, Khổng học từng bước được giai cấp thống trị Việt Nam tiếp nhận và đề cao, đặc biệt trong quản lý đất nước, đào tạo con người. Thời gian vừa qua, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn trong việc xây dựng và phát triển con người, bên cạnh đó còn bộc lộ nhiều hạn chế đáng lo ngại. Chẳng hạn, sự yếu kém về thể chất; sự tụt hậu về tri thức, khoa học công nghệ; đặc biệt là sự tha hóa đạo đức, lối sống, Những hạn chế này có nhiều nguyên nhân, nhưng trong đó có nguyên nhân từ việc chúng ta quá đề cao và hướng theo các giá trị hiện đại, mà bỏ quên hay kế thừa chưa hiệu quả các giá trị truyền thống, cũng như các tinh hóa văn hóa nhân loại, trong đó có tư tưởng giáo dục của Khổng Tử. Nếu chúng ta biết kế thừa có chọn lọc những nhân tố có giá trị trong tư tưởng giáo dụnc của Khổng Tử thì sẽ có được nhiều bài học kinh nghiệm quý giá, góp phần giải quyết những vấn đề đặt ra trong xây dựng con người mới hiện nay. Từ ý nghĩa đó, tôi quyết định chọn đề tài: “Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử với việc xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay” làm tiểu luận của mình. 3. Mục đích, nhiệm vụ của tiểu luận * Mục đích Tiểu luận là làm rõ tư tưởng giáo dục của Khổng Tử, đồng thời làm rõ ý nghĩa của nó trong việc xây dựng con người mới ở nước ta. * Để thực hiện được mục đích trên, Tiểu luận thực hiện một số nhiệm vụ: Trình bày và phân tích có hệ thống nội dung cơ bản trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử; Nêu ý nghĩa giáo dục tư tưởng của Khổng Tử với việc xây dựng con người ở nước ta hiện nay.

docx21 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 7760 | Lượt tải: 6download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử với việc xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Từ xưa đến nay, con người luôn là vấn đề cốt lõi, vấn đề thiết yếu của lịch sử tư tưởng nói chung và của triết học nói riêng. Việc nghiên cứu tư tưởng về con người trong lịch sử để tìm ra những hạn chế và giá trị tích cực, từ đó góp phần vào việc xây dựng con người hiện tại và tương lai. Trong công cuộc đổi mới ở nước ta, Đảng ta xác định con người là một trong những nhân tố quyết định hàng đầu tới sự phát triển của đất nước. Con người mới mà hiện nay toàn Đảng, toàn dân ta đang quyết tâm xây dựng là con người phát triển toàn diện về mọi mặt: thể chất, trí tuệ, đạo đức,…Quán triệt tư tưởng trên, Nhà nước và nhân dân ta đã tập trung huy động toàn bộ lực lượng xã hội tham gia vào nhiệm vụ xây dựng con người mới, trong đó có việc tiếp thu các giá trị truyền thống tốt đẹp và tinh hoa văn hóa nhân loại. Một trong những tư tưởng quý báu trong kho tàng nhân loại, thấm đẫm truyền thống phương Đông, có ảnh hưởng sâu sắc đến việc hình thành con người Việt Nam thời phong kiến chính là tư tưởng giáo dục của Khổng Tử. Khổng học là một học thuyết chính trị- xã hội luôn lấy đức làm trọng, là công cụ quản lý xã hội của giai cấp thống trị Trung Quốc. Với rất nhiều giáo lý phù hợp với xã hội Việt Nam, Khổng học từng bước được giai cấp thống trị Việt Nam tiếp nhận và đề cao, đặc biệt trong quản lý đất nước, đào tạo con người. Thời gian vừa qua, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn trong việc xây dựng và phát triển con người, bên cạnh đó còn bộc lộ nhiều hạn chế đáng lo ngại. Chẳng hạn, sự yếu kém về thể chất; sự tụt hậu về tri thức, khoa học công nghệ; đặc biệt là sự tha hóa đạo đức, lối sống,…Những hạn chế này có nhiều nguyên nhân, nhưng trong đó có nguyên nhân từ việc chúng ta quá đề cao và hướng theo các giá trị hiện đại, mà bỏ quên hay kế thừa chưa hiệu quả các giá trị truyền thống, cũng như các tinh hóa văn hóa nhân loại, trong đó có tư tưởng giáo dục của Khổng Tử. Nếu chúng ta biết kế thừa có chọn lọc những nhân tố có giá trị trong tư tưởng giáo dụnc của Khổng Tử thì sẽ có được nhiều bài học kinh nghiệm quý giá, góp phần giải quyết những vấn đề đặt ra trong xây dựng con người mới hiện nay. Từ ý nghĩa đó, tôi quyết định chọn đề tài: “Tư tưởng giáo BÙI HOÀNG THAO   Trang 1 TIỂU LUẬN LỊCH SỬ TRIẾT HỌC dục của Khổng Tử với việc xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay” làm tiểu luận của mình. 3. Mục đích, nhiệm vụ của tiểu luận * Mục đích Tiểu luận là làm rõ tư tưởng giáo dục của Khổng Tử, đồng thời làm rõ ý nghĩa của nó trong việc xây dựng con người mới ở nước ta. * Để thực hiện được mục đích trên, Tiểu luận thực hiện một số nhiệm vụ: Trình bày và phân tích có hệ thống nội dung cơ bản trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử; Nêu ý nghĩa giáo dục tư tưởng của Khổng Tử với việc xây dựng con người ở nước ta hiện nay. 4. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu Trong Tiểu luận này, tôi chỉ đề cập đến tư tưởng giáo dục của Khổng Tử; vai trò của những tư tưởng này trong việc xây dựng con người mới ở nước ta. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Tiểu luận thực hiện trên cơ sở các tác phẩm của Khổng Tử; một số tác phẩm và và công trình nghiên cứu tiêu biểu về Khổng Tử; nhiều công trình nghiên cứu về xây dựng con người mới ở nước ta. Tuận văn dựa trên quan điểm chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về con người và về chiến lược xây dựng và phát triển con người - Tiểu luận dựa vào phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin, đồng thời sử dụng các phương pháp lịch sử và logic, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê… 6. Đóng góp mới về khoa học của Tiểu luận - Luận văn trình bày tương đối có hệ thống và đánh giá khách quan những tư tưởng giáo dục của Khổng Tử, để trên cơ sở đó góp phần làm rõ hơn ý nghĩa của những tư tưởng này đối với việc xây dựng con người ở nước ta hiện nay. BÙI HOÀNG THAO   Trang 2 TIỂU LUẬN LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ 1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng giáo dục của Khổng Tử 1.1.1. Hoàn cảnh kinh tế- xã hội Trung Quốc cổ đại với việc hình thành tư tưởng giáo dục của Khổng Tử Như chúng ta đã biết, sự xuất hiện của mỗi học thuyết, tư tưởng không phải là ngẫu nhiên hay từ hư vô, mà luôn có cơ sở khách quan của nó. Trong đó có điều kiện về kinh tế- xã hội chi phối. Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng giáo dục của Khổng Tử cũng không phải là một ngoại lệ, nằm ngoài quy luật trên. Do đó, muốn nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng Khổng Tử không thể không đi vào nghiên cứu, tìm hiểu điều kiện kinh tế- xã hội, văn hóa, chính trị của thời kỳ Xuân thu- Chiến quốc- thời đại mà tư tưởng Khổng Tử nói chung cũng như tư tưởng giáo dục của Khổng Tử nói riêng nảy sinh, hình thành và phát triển. Khổng Tử sống trong thời kỳ Xuân thu- Chiến quốc (770-221T.CN), thời kỳ xã hội Trung Quốc đang có những chuyển biến hết sức căn bản. Chế độ chiếm hữu nô lệ theo kiểu phương Đông mà đỉnh cao là chế độ “tông pháp” nhà Chu đang suy tàn, chế độ phong kiến sơ kỳ đang hình thành. Thời kỳ Xuân thu được đánh dấu bằng sự kiện Chu Bình Vương dời đô về phía Đông đến Lạc Ấp (năm 771 T.CN). Về mặt kinh tế, thời kỳ này nền kinh tế Trung Quốc đang chuyển từ thời kỳ đồ đồng sang thời kỳ đồ sắt. Sự ra đời của đồ sắt như một cuộc cách mạng trong công cụ sản xuất, tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy nền kinh tế Trung Quốc phát triển nhanh chóng trên nhiều lĩnh vực. Trong đó nông nghiệp là một ngành kinh tế có truyền thống lâu đời và giữ vai trò hết sức quan trọng ở Trung Quốc. Cùng với nông nghiệp và thủ công nghiệp, đồ sắt ra đời và trở nên phổ biến còn tạo cơ sở cho thương nghiệp phát triển hơn trước, hoạt động giao lưu buôn bán diễn ra sôi động. Tiền tệ đã xuất hiện, xã hội hình thành lớp thương nhân ngày càng có thế lực như Huyền Cao nước Trịnh, Tử Cống (vốn là học trò Khổng Tử)… Về chính trị, những biến đổi về mặt kinh tế tất yếu dẫn đến những biến đổi về mặt chính trị trong thời Xuân thu. Trong thời đại lịch sử đầy biến động của thời kỳ Xuân thu- Chiến quốc đó đã đặt ra cho các nhà tư tưởng những dấu hỏi lớn về mặt triết học, chính trị, luân lý đạo đức, pháp luật, quân sự,… đòi hỏi các nhà tư tưởng phải có những tìm hiểu, nghiên cứu để đưa ra những câu trả lời, đưa ra những giải pháp giải quyết những vấn đề thực tiễn xã hội lúc bấy giờ. Thời kỳ này đã xuất hiện hàng loạt các nhà tư tưởng lớn và học thuyết lớn. Nó là thời kỳ phát triển rực rỡ của triết học Trung Quốc, nhiều nhà nghiên cứu gọi đây là thời kỳ “bách hoa đề phóng, bách gia tranh minh” (trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng). BÙI HOÀNG THAO   Trang 3 TIỂU LUẬN LỊCH SỬ TRIẾT HỌC 1.1.2. Quan niệm về bản tính con người của Khổng Tử với việc hình thành tư tưởng giáo dục của ông. Cùng với hoàn cảnh Khổng tử- xã hội lúc bấy giờ, một trong những cơ sở không kém phần quan trọng làm nảy sinh, hình thành và phát triển tư tưởng giáo dục của Khổng Tử, đó là quan niệm về bản tính con người. Vấn đề bản tính con người là một vấn đề trung tâm và gây tranh cãi nhiều nhất trong triết học Trung Quốc cổ đại nói chung cũng như Nho giáo và Khổng Tử nói riêng. Mạnh Tử cho rằng bản tính con người là thiện. Mạnh Tử viết: “cái bản tính của người ta vốn thiện, cũng như bản tính của nước là chảy xuống vậy. Không một người nào sinh ra mà tự nhiên bất thiện; cũng như thế, không một thứ nước nào mà không chảy xuống thấp”. Ông cho rằng biểu hiện của tính thiện ở con người trong xã hội là: nhân, lễ, nghĩa, trí. Ngược lại với Mạnh Tử, Tuân Tử khẳng định bản tính con người là ác. Theo Tuân Tử, cái tham lam, ích kỷ; cái gian ác, đố kỵ; cái dâm lọan là thuộc về bản năng vốn có của con người. Ông đề xuất phép trị nước là giáo hóa dân, kết hợp giữa lễ giáo và hình phạt nhằm khắc chế tính ác, hướng thiện cho con người. Đối lập với cả Mạnh Tử và Tuân Tử, Cáo Tử cho rằng: “cái tính tự nhiên của con người chẳng phải thiện, cũng chẳng phải bất thiện”. Theo ông, tính ban đầu nguyên thủy của con người là một cái gì đó thuần phác, mộc mạc, không phân biệt thiện với bất thiện. Còn theo Lão- Trang thì Đạo là bản nguyên của vạn vật, tất cả mọi vật đều từ đạo mà ra và đề trở về với nguồn gốc là đạo. Do đó, Lão- Trang cho rằng tính của vạn vật sinh ra đã có, là tính của tự nhiên. Nếu tính đó bị nhiễm một cái gì như nhân, nghĩa,… thì không còn là tính nữa. Mặc dù có nhiều điểm khác nhau như trên nhưng khát quát lại chúng ta vẫn thấy có nhiều nét tương đồng, giống nhau cơ bản. Thứ nhất, họ đều cho rằng bản tính con người là cái tính, trời sinh ra đã vốn có ở tâm, mang tính “tiên thiên” chứ không do con người tự lựa chọn. Khổng Tử đã nói: con người ta sinh ra, cái bản tính vốn ngay thật, (nhân chi sinh giã trực); Mạnh Tử cũng viết: con người sinh ra vốn bản tính là thiện, (nhân chi sơ tính bản thiện). Thứ hai là, họ đều quan niệm tính gắn liền với tâm của con người. Theo họ, “Tâm” là thể, thì “Tính” là lý của tâm, tâm là cái ẩn dấu ở bên trong, còn tính là cái biểu hiện ra bên ngoài qua các đức tính của con người như thiện, ác, nhân, nghĩa, lễ,… Nếu đem “tâm” và “tính” ấy mà biểu lộ thành thái độ của con người đối với sự vật, với người khác thì gọi là “tình”; “tình” gồm có: ái, ố, hỉ, nộ, lạc, bi, ai. Thứ ba là, mặc dù đều xem bản tính con người là tiên thiên, là cái có sẵn, nhưng họ cũng đều khẳng định bản tính con người có thể thay đổi được, “cải biến” được và họ đều chủ trương giáo hóa con người theo nhiều cách khác nhau. BÙI HOÀNG THAO   Trang 4 TIỂU LUẬN LỊCH SỬ TRIẾT HỌC Trong số các nhà triết học quan tâm đến vấn đề bản tính con người, có thể nói, Khổng Tử là người đầu tiên trong thời Xuân thu đề cập đến vấn đề này, nhưng trong học thuyết ông lại rất ít đề cập về vấn đề này. Khổng Tử còn cho rằng: “người ta tất thảy đều giống nhau, vì ai nấy đều có bản tính ngay thật; nhưng bởi nhiễm thói quen, nên họ thành ra khác nhau”. Do vậy, để mọi người gần nhau và trở lại bản tính ban đầu, tức là bản tính vốn lành, ngay thẳng, làm cho xã hội vô đạo trở về với hữu đạo, Khổng Tử chủ trương giáo hóa, mọi người phải học tập, tu dưỡng hướng tới những điều nhân nghĩa để giữ bản tính thiện của mình, xa rời cái ác, cái bất nhân, hiểu được cái đạo và trở về với đạo thì xã hội sẽ tốt đẹp hơn. 1.2. Nội dung cơ bản trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử Khổng Tử rất coi trọng giáo dục. Ông khẳng định, ai cũng cần phải được giáo dục: Vua cũng cần phải học để làm vua, dân cũng cần phải học để làm dân. Nếu không được giáo dục thì dù có giỏi đến đâu dần dần cũng sẽ bị ngu muội. Tuy còn nhiều hạn chế nhưng có thể nói Khổng Tử là người đầu tiên đã xây dựng được một hệ thống tư tưởng giáo dục khá hoàn chỉnh cả về mục đích, đối tượng, nội dung và phương pháp. Thể hiện một tầm nhìn chiến lược và sâu sắc, để lại cho loài người nhiều kinh nghiệm quý báu về giáo dục. 1.2.1. Mục đích và đối tượng giáo dục của Khổng Tử 1.2.1.1. Mục đích giáo dục Mục đích giáo dục của Khổng Tử là đào tạo cho xã hội đương thời mẫu người “lý tưởng”. Mục đích giáo dục của Khổng Tử không đơn thuần chỉ là đào tạo ra những người có tri thức mà cao hơn nữa, ông đào tạo ra người có đủ đức, đủ tài để tham gia gánh vác công việc quốc gia, bình ổn xã hội. Đối với bậc dân thường, Khổng Tử dạy cho họ đạo làm người như tam cương, ngũ thường, nhân, lễ, hiếu, nghĩa,... với mục đích để họ hiểu được đạo lý, sống đúng với đạo lý, từ đó biết nghe lời, phục tùng mệnh lệnh của nhà cầm quyền. Còn đối với bậc quân tử, Khổng Tử giáo dục họ để họ biết cách cai trị và quản lý xã hội. Trong những mục đích cụ thể đó, theo Khổng Tử, mục đích cao nhất của giáo dục là học để làm chính trị. Do đó, mục đích chính của Khổng Tử là giáo dục người quân tử. Tư tưởng học để làm chính sự, làm quan để biến xã hội từ “loạn thành trị” của Khổng Tử được học trò rất thấm nhuần. Tử Lộ, một học trò của ông cho rằng: người có học, có tài đức mà không ra làm quan, không hợp đạo nghĩa. Người quân tử ra làm quan để thi hành cái nghĩa lớn trung quân ái quốc mà thôi, chứ không phải mưu cầu phú quý. Tử Hạ, một học trò khác của Khổng Tử, cho rằng: học ra làm quan là một quá trình học đạo và hành đạo bổ sung cho nhau. Người đã làm quan thì cũng cần phải học thêm, còn người học thì nên làm quan. 1.2.1.2. Đối tượng giáo dục BÙI HOÀNG THAO   Trang 5 TIỂU LUẬN LỊCH SỬ TRIẾT HỌC Xuất phát từ quan điểm bản tính con người là giống nhau, do tập quán, thói quen sống mà làm cho bản tính khác nhau, chỉ có thông qua giáo dục mới làm cho mọi người quay về với bản tính vốn có của mình, Khổng Tử đã đưa ra tư tưởng hết sức tiến bộ, đó là: “Hữu giáo vô loại”. Mỗi học giả đều giải thích theo cách hiểu riêng của mình nhưng chung quy lại đều thống nhất thừa nhận tư tưởng của Khổng Tử là: mọi người đều được giáo dục không phân biệt giai cấp, thiện ác, và được giáo dục là quyền lợi của tất cả mọi người. Chính vì vậy, hạng người nào đến xin học Khổng Tử đều nhận dạy. Ông nói: “Nếu có kẻ thô bỉ đến hỏi ta, dầu là kẻ tối tăm mờ mịt tới đâu, ta cũng đem hai bề từ đầu chí đuôi mà dẫn giải cho thật tường tận mới nghe” (Hữu bỉ phu vấn ư ngã, không không như giã, giã khấu kỳ lưỡng đoan, nhi kiệt yên). Thậm chí Khổng Tử cũng sẵn sàng dạy cho cả những người ác nghịch, khó dạy. Như vậy có thể nói, đối tượng giáo dục của Khổng Tử, một mặt, mang tính chất bình đẳng và hết sức tiến bộ, nhưng mặt khác, nó không vượt qua được hạn chế bởi tầm nhìn lịch sử và bởi tính chất hết sức nghiệt ngã của chế độ phong kiến. 1.2.2. Nội dung giáo dục của Khổng Tử Xuất phát từ quan niệm bản tính con người là ngay thẳng, là thiện; cũng như quan niệm cho rằng nguyên nhân của “vương đạo suy vi, bá đạo nổi lên” là ở con người. Do con người không có “đạo”, làm trái với “đạo”. “Đạo” mà Khổng Tử nói đến ở đây thực chất là đạo đức của con người hay “đạo làm người”. Con người không có “đạo” mới dẫn đến chuyện tranh giành quyền lực, địa vị, đất đai, chém giết lẫn nhau làm cho kỷ cương phép tắc đảo lộn, làm cho xã hội rối loạn. Để cho xã hội trở lại thanh bình, theo Khổng Tử phải làm cho con người có “đạo”, làm theo “đạo”. Trong đó, nội dung giáo dục cốt lõi nhất, quan trọng nhất là Nhân, Lễ và Chính danh định phận. Nhân vốn là một phạm trù đạo đức của quý tộc chủ nô thời Ân, Thương, bao gồm nhiều nội dung như việc tuân theo ông cha, yêu con người, làm lợi cho đất nước, che chở cho dân,…nhưng những nội dung đó chưa trở thành một hệ thống chặt chẽ mà là những nội dung riêng rẽ. Khổng Tử đã kế thừa tư tưởng Nhân của người trước, đồng thời bổ sung cho Nhân những nội dung mới, biến nó trở thành một hệ thống chặt chẽ, rộng lớn bao trùm tất thảy các phạm trì khác như Trung thứ, Trí, Dũng, Nghĩa, Hiếu đễ, Khoan thứ,… và chứa đựng toàn bộ tư tưởng của ông về đạo trị nước an dân, đạo làm người. Nhân trong tư tưởng Khổng Tử đó là yêu người. Nhân còn có nghĩa là Trung thứ. Tức là cái gì mà mình muốn làm thì cũng phải giúp người khác được như vậy. Nhân còn bao gồm Hiếu đễ. Hiếu đễ là tiêu chuẩn trong gia đình. Hiếu là tiêu chí của con cái đối với cha mẹ. Đễ là tiêu chí của người em đối với anh chị và người lớn tuổi. Khổng Tử xem Hiếu đễ là cái gốc của nhân. Đức Nhân là BÙI HOÀNG THAO   Trang 6 TIỂU LUẬN LỊCH SỬ TRIẾT HỌC bậc thang giá trị cao nhất trong thang bậc đạo đức của con người. Theo Khổng Tử, chỉ có người nhân mới có thể có được cuộc sống an vui lâu dài với lòng nhân của mình và dẫu có ở vào hoàn cảnh nào, cũng có thể yên ổn, thanh thản. Đối với lễ tế, Khổng Tử khẳng định lễ tế rất quan trọng đối với người quân tử, nếu biết lễ tế thì việc cai trị thiên hạ hết sức dễ dàng, giống như bỏ một vật lên tay mình: “Người nào biết ý nghĩa của cuộc tế lễ thì tri thiên hạ cũng như coi bàn tay mình” (Bất tri giã tri kỳ thuyết giả chi ư thiên hạ giã, kỳ như thị chư tư hồ. Chỉ kỳ chưởng). Do vậy, Khổng Tử dạy học trò phải có sự kính cẩn, nghiêm túc, cẩn thận trong khi hành lễ. Nội dung quan trọng nhất của Lễ mà Khổng Tử giáo dục học trò là pháp điển của chế độ phong kiến. Ngay từ đầu, mục đích của Khổng Tử là biến xã hội từ “loạn thành trị” cho nên việc giảng dạy Lễ của Khổng Tử cũng không nằm ngoài mục đích chính trị mà ông theo đuổi. Khổng Tử giáo dục học trò cách thức và biện pháp để có thể khôi phục và củng cố lễ chế nhà Chu. Khổng Tử là người đã đem lễ tiết nhà Chu cải biến thành một phạm trù đạo đức được coi là mực thước cho các hành vi của con người trong xã hội. Một nội dung quan trọng nữa trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử là tư tưởng “Chính danh định phận”. Bên cạnh việc giảng dạy đạo lý, đạo làm người, Khổng Tử còn dạy học trò văn chương và lục nghệ. “Văn” là gồm thi, thư, lễ, nhạc, xuân thu; còn “Lục nghệ” là nội dung chương trình các trường công lúc bấy giờ gồm sáu môn: lễ, nhạc, xạ (bắn cung), ngự (đánh xe), thư (viết chữ), số (toán pháp). Như vậy, trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử, cùng với quan điểm về vũ trụ và con người, học thuyết về luân lý, đạo đức, chính trị- xã hội là một trong những vấn đề cốt lõi và là thể thống nhất gắn bó hữu cơ với nhau. Những phạm trù đạo đức căn bản nhất trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử là nhân, lễ, nghĩa,.. và một hệ thống quan điểm chính trị- xã hội như: nhân trị, chính danh, quân tử, tiểu nhân, 1.2.3. Phương pháp giáo dục của Khổng Tử Trong quá trình dạy học rất nhiều năm của mình, Khổng Tử đã sử dụng rất nhiều phương pháp, nhưng trong phạm vi Tiểu luận, tác giả xin được nêu ra một số phương pháp cơ bản như sau: Phương pháp dạy tùy đối tượng: Đây chính là phương pháp sau này được Nho giáo khát quát thành tư tưởng “Nhân tài thì giáo”, tức là căn cứ ào tài năng, phẩm chất từng người để giáo dục. Đối tượng giáo dục của Khổng Tử rất khác BÙI HOÀNG THAO   Trang 7 TIỂU LUẬN LỊCH SỬ TRIẾT HỌC nhau: có người nhiều tuổi, người ít tuổi, có người giàu, có người nghèo, có nhiều người có tính cách và xu hướng chính trị khác nhau. Phương pháp kết hợp học với suy nghĩ: Trong quá trình dạy học, Khổng Tử luôn khích lệ học trò tự suy nghĩ, người thầy chỉ giữ vai trò hướng dẫn. Có như vậy học trò mới phát triển được: “Học mà chẳng suy nghĩ thì chẳng được thông minh. Suy nghĩ mà chẳng chịu học thì lòng dạ không được yên ổn” (Học nhi bất tư, tắc võng; tư nhi bất học, tắc đãi). Phương pháp kết hợp học với tập: là phương pháp kết hợp học với việc tập luyện, thực hành những điều đã học và đem tri thức đã học vận dụng vào cuộc sống. Ông dạy học trò phải luôn luôn luyện tập và không được quên những điều đã học được. Phương pháp học kết hợp với hành: Khổng Tử yêu cầu học trò học phải gắn với hành, tức là phải vận dụng những kiến thức đã học vào trong cuộc sống. Tri thức lý luận chỉ mới nếu ra những nguyên tắc định hướng còn thức hành mới giúp cho người học đạt đạo. Phương pháp nêu gương: Theo Khổng Tử, nhân cách của người thầy có sức thuyết phục mạnh mẽ đối với người học, người học nhìn vào tấm gương người thầy mà tin rằng những điều thầy dạy là chân lý, là những điều tốt đẹp. Cho nên, để trở thành tấm gương cho học trò thì người thầy phải là người phải đi trước. 2.2. Những giá trị và hạn chế trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử Mặc dù tư tưởng giáo dục của Khổng Tử có ảnh hưởng lớn đối với sự phát triển của Trung Quốc và nhiều nước châu Á khác, những ảnh hưởng đó không đơn thuần mang tính tích cực mà bên cạnh đó có những hạn chế. Trước hết về mục đích giáo dục: như đã trình bày ở trên, mục đích giáo dục bao trùm của Khổng Tử là nhằm đào tạo những con người phù hợp với địa vị xã hội mà mình có, nghĩa là sống đúng với danh của mình. Nếu tầng lớp thường dân được giáo dục để biết phục tùng người trên, thì người quân tử được giáo dục để làm người cai trị. Trong đó, Khổng Tử ưu tiên cho mục đích đào tạo lớp người cai trị. Về đối tượng giáo dục: với tư tưởng “hữu giáo vô loài”, có thể nói, Khổng Tử là người đầu tiên chủ trương “bình dân” trong giáo dục. Ông đã vượt qua đẳng cấp, danh phận trong xã hội góp phần đưa sự nghiệp giáo dục con người đến với mọi lớp người ở mọi phạm vi và trình độ. Ông đã phá vỡ đặc quyề

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxtu tuong gd cua KT.docx
  • pdftu tuong gd cua KT.pdf
Luận văn liên quan