Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay

Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng khách quan, lôi cuốn các nước, bao trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng cường sức ép cạnh tranh và tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Đối với nước ta, hội nhập kinh tế quốc tế là nhu cầu vừa bức xúc, vừa cơ bản lâu dài. Chủ động và tích cực tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, nước ta có cơ hội mở rộng thị trưởng, mở rộng các mối quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Hơn 75 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam do Chủ Tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, nhân dân ta đã tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng đầy gian khổ, hy sinh và đã giành được nhiều thắng lợi to lớn. Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những thắng lợi đó là chúng ta đã biết kết hợp tài tình sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đây cũng chính là một trong những bài học lớn mà Đảng ta đã rút ra qua thực tiễn đấu tranh cách mạng của mình. Ngày nay trong bối cảnh Việt Nam đang chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi chúng ta phải năm vững bài học trên đây, phải biết kết hợp đúng đắn và khéo léo sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, nhân tố nội lực và nhân tố ngoại lực để tạo ra tổng hợp lực nhằm thúc đẩy đất nước phát triển, hội nhập thành công và bên vững vào nền kinh tế quốc tế. Chính vì vậy, việc nghiên cứu về mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại;phát huy và kết hợp hiệu quả giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại luôn có một ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay.

doc13 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 9572 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tr­êng ®¹i häc lao ®éng x· héi Bộ môn Mác-Lênin tiÓu luËn t­ t­ëng hå chÝ minh Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay Hà Nội, ngày 14 tháng 12 năm 2007 A. Mở đầu: Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng khách quan, lôi cuốn các nước, bao trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng cường sức ép cạnh tranh và tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Đối với nước ta, hội nhập kinh tế quốc tế là nhu cầu vừa bức xúc, vừa cơ bản lâu dài. Chủ động và tích cực tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, nước ta có cơ hội mở rộng thị trưởng, mở rộng các mối quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Hơn 75 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam do Chủ Tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, nhân dân ta đã tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng đầy gian khổ, hy sinh và đã giành được nhiều thắng lợi to lớn. Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những thắng lợi đó là chúng ta đã biết kết hợp tài tình sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đây cũng chính là một trong những bài học lớn mà Đảng ta đã rút ra qua thực tiễn đấu tranh cách mạng của mình. Ngày nay trong bối cảnh Việt Nam đang chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi chúng ta phải năm vững bài học trên đây, phải biết kết hợp đúng đắn và khéo léo sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, nhân tố nội lực và nhân tố ngoại lực để tạo ra tổng hợp lực nhằm thúc đẩy đất nước phát triển, hội nhập thành công và bên vững vào nền kinh tế quốc tế. Chính vì vậy, việc nghiên cứu về mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại;phát huy và kết hợp hiệu quả giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại luôn có một ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay. Xuất phát từ nhận thức trên đây, em chọn vấn đề: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Sự vận dụng của Đảng ta trong giai doạn hiện nay”. B. Nội dung: I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại 1. Quá trình nhận thức của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Trong quá trình hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh có niềm tin vững chắc vào sức mạnh dân tộc. Đó là chủ nghĩa yêu nước nồng nàn, là tinh thần đoàn kết, ý chí đấu tranh anh dũng, bất khuất cho độc lập, tự do, ý chí tự lập tự cường… Khát vọng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã thôi thúc Hồ Chí Minh hy sinh cả cuộc đời mình để thực hiện, cũng là lí do hy sinh của bao thế hệ người Việt Nam hôm qua và hôm nay. Khát vọng đó chính là sức mạnh mà Hồ Chí Minh ý thức được và ra sức giáo dục cán bộ, đảng viên và toàn dân ta quán triệt, giữ gìn và phát huy biến thành sự thực. Nhận thức của Hồ Chí Minh về sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại được hình thành từng bước, từ cảm tính đến lý tính, thông qua hoạt động thực tiễn mà tổng kết thành lý luận. Chứng kiến cuộc sống khổ cực của nhân dân các nước thuộc địa , Người đã phát hiện ra mối tương đồng giữa các dân tộc bị áp bức. Người cho rằng trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột; chỉ có hạng người nghéo, bị bóc lột là có tình hữu ái, giai cấp thực sự. Đó là cơ sở đầu tiên để hình thành nhận thức: Muốn giải phóng dân tộc mình cần thiết phải đoàn kết với các dân tộc khác cùng chung cảnh ngộ. Những năm hoạt động cách mạng ở Pari, Người đã phân biệt hai loại người: Người pháp vô sản và người Pháp thực dân. Chỉ có người Pháp thực dân mới là kẻ thù, còn người Pháp vô sản là bạn của nhân dân Việt Nam, là anh em cùng giai cấp, cùng chung kẻ thù. Đó là cơ sở hình thành nhận thức về sự kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản của Hồ Chí Minh. Sau khi tiếp thu tư tưởng của V. Lênin trong “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa”, Người càng ý thức được mối quan hệ mật thiết giữa cách mạng dân tộc và cách mạng vô sản trong thời đại đế quốc chủ nghĩa nên đã coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vô sản. Để chiến thắng kẻ thù, cách mạng Việt Nam cần phải dựa vào sức mạnh bên trong, đòng thời phải tranh thủ sự đồng tình, giúp đỡ của quốc tế. Hồ Chí Minh cho rằng, sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại chính là kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản, là phải xây dựng được khối liên minh chiến đấu giữa vô sản ở chính quốc với lao động ở thuộc địa, nhằm cùng một lúc tiến công chủ nghĩa quốc tế ở hai đầu. Vì vậy Người đã viết nhiều bài trên các báo để truyền bá tư tưởng của mình trong giai cấp vô sản và nhân dân lao động ở cả chính quốc và các nước thuộc địa. Từ tuyên truyền đến tổ chức, Người tham gia thành lập Hội Liên Hiệp thuộc địa ở Pháp, tham gia xuất bản tờ báo Người cùng khổ-cơ quan ngôn luận của Hội Liên Hiệp thuộc địa. Sau khi đến Quảng Châu, Người tích cực tham gia thành lập Hội Liên Hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông, sát cánh chiến đấu bên cạnh những người Cộng Sản và nhân dân Trung Quốc. Sau chiến tranh thế giới thứ II, sự hình thành, tồn tại và phát triển của hệ thống xã hội chủ nghĩa đã trở thành một nhân tố tạo nên sức mạnh thời đại. Các nước xã hội chủ nghĩa có vai trò to lớn trong việc giúp đỡ phong trào dân tộc và đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân, của nhân dân thế giới. Ngược lại các phong trào này góp phần làm suy yếu chủ nghĩa đế quốc, tích cực bảo vệ các nước xã hội chủ nghĩa. Đối với cách mạng Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương phát huy sức mạnh thời đại là huy động sức mạnh của các trào lưu cách mạng trên thế giới, phục vụ sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Cũng từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ II, cuộc cách mạng khoa học và kĩ thuật ngày càng phát triển mạnh mẽ cũng đã trở thành hình thành nên sức mạnh thời đại. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Thế giới ngày nay đang tiến những bước tiến khổng lồ về mặt kiến thức của con người. Khoa học tự nhiên cũng như khoa học xã hội không ngừng mở rộng ra những chân trời mới, con người ngày càng làm chủ được thiên nhiên, cũng như làm chủ được vận mệnh của xã hội và của bản thân mình”. Người nhắc nhở các thế hệ thanh niên phải ra sức học tập để chiếm lĩnh được những đỉnh cao của khoa học, tận dụng sức mạnh mới của thời đại để nhân lên sức mạnh của dân tộc. Trên thực tế có thể nói, khi đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm thấy con đường giải phóng dân tộc của Việt Nam là con đường cách mạng vô sản, cũng có nghĩa Hồ Chí Mính đã tìm được sức mạnh cho cách mạng Việt Nam, đó là kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Càng về sau, Người càng nhận thức được hoàn chỉnh tầm quan trọng và nội dung của việc kết hợp đó, coi đó là nhân tố cực kì quan trọng bảo đảm thắng lợi cho cách mạng Việt Nam. 2. Nội dung tư tưởng của Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại 2. 1. Đặt cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam trong sự gắn bó với cách mạng vô sản thế giới Thời đại mà Hồ Chí Minh sống và hoạt động là thời đại đã chấm dứt sự tồn tại biệt lập của các quốc gia, mở ra mối quan hệ quốc tế ngày càng rộng lớn giữa các dân tộc. Nhận thức được sự biến chuyển của thời đại, Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc Việt Nam theo con đường cách mạng vô sản. Cách mạng giải phóng dân tộc nói chung và cách mạng Việt Nam nói riêng là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản trên thế giới, do vậy cần có liên minh chặt chẽ giữa các dân tộc thuộc địa và giai cấp vô sản các nước để chiến đáu chống lại kẻ thù chung. Sau khi nắm bắt được đặc điểm của thời đại mới, Người đã hoạt động không mệt mỏi để gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, thoát khỏi sự biệt lập-điểm yếu của các dân tộc phương Đông. Người đã chỉ ra rằng cần phải có sự hỉểu biết lẫn nhau và hiểu biết hơn để đạt cơ sở cho một liên minh Phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một cái cánh của cách mạng vô sản. Người đã bảo vệ và phát triển quan điểm của V. Lênin về khả năng to lớn và vai trò chiến lược của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa đối với thắng lợi của cách mạng vô sản. Cũng từ đó, Người đã xác định chính xác đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp cách mạng đúng đắn cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam theo con đường cách mạng vô sản. Hồ Chí Minh khẳng định: “Cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, điều này chứng minh rằng trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, ở một nước thuộc địa nhỏ, với sự lãnh đạo của giai cấp vô sản và đảng của nó, dựa vào quần chúng nhân dân rộng rãi, trước hết là nông dân và đoàn kết được mọi tầng lớp nhân dân yêu nước trong mặt trận thống nhất, với sự đồng tình và ủng hộ của phong trào cách mạng thế giới, trước hết là của phe xã hội chủ nghĩa hùng mạnh, nhân dân nước đó nhất định thắng lợi”. 2. 2. Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng Là nhà yêu nước chân chính, Hồ Chí Minh đã triệt để phát huy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, đòng thời là nhà quốc tế chủ nghĩa trong sáng, Hồ Chí Minh đã suốt đời đấu tranh không mệt mỏi để cũng cố và tăng cường tình đoàn kết và hữu nghị giữa Việt Nam và các dân tộc khác đang đấu tranh cho mục tiêu chung là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Đề cao sự giúp đỡ quốc tế với cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng đồng thời nhấn mạnh trách nhiệm của cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Khi phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có sự chia rẽ, Người đã hoạt động không mệt mỏi để mong góp phần khôi phục sự đoàn kết quốc tế trên cơ sở những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có tình, có lý. Như vậy theo Hồ Chí Minh, từ đại đoàn kết dân tộc phải đi đến đại đoàn kết quốc tế, đại đoàn kết dân tộc đúng đắn là cơ sở cho việc đại đoàn kết quốc tế trong sáng. Đại đoàn kết dân tộc là một trong những nhân tố bảo đảm thắng lợi cho cách mạng cho cách mạng Việt Nam. Đoàn kết quốc tế cũng là một trong những nhân tố hết sức quan trọng giúp cho cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế đòi hỏi phải đấu tranh chông lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, chủ nghĩa xô vanh và mọi chủ nghĩa cơ hội khác. 2. 3 Dựa vào sức mình là chính, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, đồng thời không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình. Trong mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh bao giờ cũng coi nguồn lực nội sinh giữ vai trò quyết định, còn nguồn lực ngoại sinh chỉ phát huy tác dụng thông qua nguồn lực nội sinh. Vì vậy, Người luôn nêu cao khẩu hiệu “tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”. “Tự giải phóng” là tư tưởng, quan điểm lớn, xuyên suốt của tư tưởng Hổ Chí Minh. Chính vì đánh giá cao sức mạnh chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc mà Người đã đi tới luận điểm: Cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc mà trong điểu kiện lịch sử nhất định, có thể và cẩn thiết và chủ động tiến hành trước và bằng thắng lợi của cách mạng thuộc địa “giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn” Hồ Chí Minh cho rằng muốn tranh thủ được sức mạnh thời đại, ngoài sức mạnh cần thiết bên trong, còn phải có đường lối độc lập tự chủ đúng đắn mới tranh thủ được sức mạnh thời đại. Để tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân thế giới, Đảng ta và Hồ Chí Minh đề ra đường lối kết hợp chặt chẽ mục tiêu đấu tranh cho độc lập, thống nhất của dân tộc mình với mục tiêu của thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong kháng chiến chống chủ nghĩa đế quốc thực dân, tư tưởng Hồ Chí Minh đã định hướng cho việc hình thành ba tầng Mặt Trận :Mặt trận đại đoàn kết dân tộc;Mặt trận đoàn kết toàn dân Việt Nam, Lào, Campuchia;Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược. Đây thực sự là sự phát triển rực rỡ nhất và thắng lợi to lớn nhất của tư tưởng đại đoàn kết của Người. 2. 4. Có quan hệ hữu nghị, hợp tác, sẵn sàng “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ” Trong cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh luôn chăm lo xây dựng, vun đắp cho tình hữu nghị, hợp tác và đoàn kết giữa nhân dân các nước theo tinh thần “bốn phương vô sản đều là anh em”nhằm tạo nên sức mạnh to lớn cho sự nghiệp cách mạng của các dân tộc. Sau khi nước ta giành được độc lập, Người đã nhiều lân tuyên bố: “chính sách ngoại giao của chính phủ thì chỉ có một điều là thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để giữ gìn hoà bình” ; “Thái độ của Việt Nam với các nước Á châu là một thái độ anh em, đối với ngũ cường là một thái độ bạn bè”…Hồ Chí Minh chủ trương giương cao ngọn cờ hoà bình, đoàn kết quốc tế, đồng thời luôn phân biệt giữa bạn và thù của cách mạng, tỉnh táo với mọi âm mưu xấu xa của các thế lực phản động quốc tế, chân trọng mọi sự giúp đỡ, hợp tác chân thành, nhưng cũng kiên quyết đấu tranh chống sự chia rẽ xâm lược. II. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong bối cảnh hiện nay 1. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh Kiên trì độc lập tự chủ gắn với đoàn kết quốc tế, phấn đấu vun đắp cho tình cảm trong sáng, thuỷ chung giữa các dân tộc có chung ước nguyện, Hồ Chí Minh khẳng định, trước hết phải đem sức ta mà giải phóng cho ta; phải có ý chí tự lực tự cường thì mới nhận được sự tôn trọng, ủng hộ của người khác, đồng thời, xem vịêc “giúp bạn là tự giúp mình”. Hồ Chí Minh nhấn mạnh vấn đề đoàn kết, coi việc giữ gìn sự đoàn kết phải như giữ gìn con ngươi của mắt mình; đoàn kết từ trong Đảng mở rộng ra đoàn kết dân tộc; đoàn kết giữa các dân tộc trên thế giới. Đoàn kết là nguyên nhân đưa đến những thắng lợi của cách mạng Việt Nam: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/thành công, thành công, đại thành công”. Mặt khác, chính sự hi sinh to lớn của dân tộc Việt Nam cho phẩm giá của con người trở thành tấm gương sáng đối với các quốc gia, dân tộc có chung hoàn cảnh, cũng như lay động lương tri của nhân loại tiến bộ, yêu chuộng hoà bình. Ngày nay, khi Việt Nam xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thông qua mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, yêu cầu đặt ra trong giai đoạn hiện nay là: phải củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, tiến hành thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Trước đây, khi Việt Nam chống xâm lược, đã có cả một mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ và giúp đỡ Việt Nam, trong đó gồm cả nhân dân ở chính ngay nước đối địch. Ngày nay, Việt Nam lại nhận được sự đồng tình,ủng hộ và giúp đỡ rộng rãi của nhân dân thế giới. Bạn bè quốc tế thấy ở Việt Nam một tấm gương hoà bình, ổn định, đổi mới, và phát triển. Đáp lại, Việt Nam tuyên bố sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước, luôn nêu cao nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp, hợp tác bình đẳng cùng có lợi, không sử dụng vũ lực và đe doạ sử dụng vũ lực, giải quyết mọi bất đồng bằng biện pháp hoà bình. 2. Khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, nâng cao ý chí tự lực, tự cường, giữ vững bản sắc dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế Bước vào thời kì đổi mới, nhận thức rõ ảnh hưởng của toàn cầu hoá, từ đại hội VI của Đảng (năm 1986), Đảng ta đã quán triệt ngày càng rõ hơn về việc phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, khơi dậy yếu tố nội lực và ngoại lực làm lợi thế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trong điều kiện hiện nay, việc đầu tiên, chúng ta phải khẳng định vai trò của nền văn hoá Việt Nam. Đó là những truyền thống tốt đẹp mà dân tộc ta đã hun đúc qua hàng nghìn năm phát triển, là một trong những nhân tố nội sinh, là sức mạnh dân tộc, là lợi thế so sánh của đất nước. Văn hoá Việt Nam là vốn liếng “tinh thần” để chúng ta “hoà nhập” chứ không “hoà tan” vào nền kinh tế thế giới. Thứ hai, Trước yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế, sự phát triển không ngừng của khoa học, công nghệ và những biến động của tình hình thế giới, việc xây dựng đội ngũ cán bộ phải bảo đảm những tiêu chuẩn cán bộ đã được Hội nghị Trung ương 3 khoá VIII và Đại hội IX của Đảng đề ra. Cần phải trẻ hoá, tri thức hoá và chuyên môn hoá đội ngũ cán bộ, tích cực lựa chọn những cán bộ có đức, có tài, có thành tích xuất sắc, có triển vọng phát triển, được quần chúng tín nhiệm để bổ sung vào đội ngũ cán bộ kế cận, kể cả cán bộ lãnh đạo chính trị, cán bộ quản lý nhà nước, cán bộ khoa học kỹ thuật. Trong công tác cán bộ, phải mở rộng dân chủ, thực hiện đúng quy trình, đề cao trách nhiệm của tập thể và người đứng đầu; xử lý kịp thời, nghiêm minh những cán bộ, đảng viên thoái hoá biến chất, vi phạm Điều lệ đảng và Pháp luật của Nhà nước, dù người đó ở cương vị công tác nào. Đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ chủ chốt ở các cấp nói riêng phải được trang bị toàn diện, có hệ thống về chủ nghĩa Mác – Lê Nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, biết vận dụng sáng tạo đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn, mang lại hiệu quả cao. Không ngừng nâng cao năng lực quản lý, trình độ. Phải chú ý phát huy tính năng động của mỗi người, mỗi bộ phận để mọi việc từ lãnh đạo, quản lý, đến sản xuất kinh doanh, học tập và lao động đều có năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao. Đồng thời phải khắc phục được những tiêu cực của kinh tế thị trường, đặc biệt là tâm lí chạy theo đồng tiền, cạnh tranh không lành mạnh là phai nhạt truyền thống đoàn kết, tình nghĩa tương thân, tương ái của dân tộc và của Đảng. Thứ ba, tận dụng tối đa các nguồn lực về tự nhiên như tài nguyên thiên nhiên, địa hình, khí hậu mà Việt Nam có được. Đây là một trong những lợi thế nội tại, một điều kiện không thể thiếu được cho việc phát triển kinh tế, là một lợi thế to lớn và cơ bản để dân tộc ta phát huy ý chí tự lực, tự cường, dựa vào sức mình là chính trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đầy phức tạp và nhiều thách thức. Việt Nam kiên trì xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực, với chiến lược và lộ trình thích hợp; bên cạnh đó phấn đấu giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc; tranh thủ tạo dụng và tân dụng thời cơ do những nỗ lực bên trong và các nhân tố thuận lợi bên ngoài hợp lưu tạo ra. Nhận định về thời cơ phát triển của đất nước chúng ta hiện nay, Đại hội IX của Đảng chỉ rõ: “Môi trường hoà bình, sự hợp tác, liên kết quốc tế và những xu thế tích cực trên thế giới tạo điều kiện để chúng ta tiếp tục phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực-nguồn vốn, công nghệ mới,kinh nghiệm quản lý, mở rộng thị trường-phục vụ sự nghịêp công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Từ phát huy nội lực dân tộc dẫn đến mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại trong xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá kinh tế ngày nay càng phát triển. Đối với Việt Nam, chúng ta nằm ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương nói chung và Đông Nam Á nói riêng, xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển tiếp tục gia tăng góp phần tạo điều kiện thuận lợi từ bên ngoài cho nước ta có thể khai thác, tranh thủ để phát triển và đổi mới đất nước. Coi trọng và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng. Nâng cao hiệu quả và chất lượng hợp tác với các nước ASEAN. Tiếp tục mở rộng quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, các nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi, Trung Đông và Mỹ Latinh, các nước trong phong trào không liên kết. Thúc đẩy quan hệ đa dạng với các nước đang phát triển và các tổ chức quốc tế. Củng cố và tăng cường quan hệ hợp tác với các
Luận văn liên quan