Tiểu luận Tư tưởng triết học của pháp gia và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống chính trị của thời đại

Trong mấy ngàn năm qua không ai không biết Nho gia là trường phái tư tưởng quan trọng nhất ở Trung Quốc, song trên thực tế triết thuyết của phái này nhiều khi quá cao xa, vì chỉ thời Nghiêu - Thuấn mới có được; và chính những đại biểu trụ cột, cốt lõi của phái này đương thời không thành công trong hoạt động chính trị mà họ theo đuổi. Nhưng những đại biểu của Pháp gia thì khác, bản thân họ tuy phải trả giá, song tư tưởng của họ đã giải quyết được vấn đề đương thời giúp nước Tần hùng mạnh, và đã thống nhất được Trung Quốc. Tư tưởng Pháp gia với đại biểu xuất sắc là Hàn Phi Tử có một vai trò đặc biệt trong sự nghiệp thống nhất đất nước và phát triển xã hội cuối thời Xuân Thu -Chiến Quốc. Nội dung cơ bản của tư tưởng Pháp gia là đề cao vai trò của Pháp luật và chủ trương dùng pháp luật hà khắc để trị nước. Học thuyết pháp trị của phái Pháp gia hình thành và phát triển qua nhiều thời kỳ bởi những trí thức xuất sắc như: Quản Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương Ưởng và được hoàn thiện bởi Hàn Phi Tử. Trong phép trị nước, Hàn Phi Tử là người đầu tiên coi trọng cả ba yếu tố Pháp, Thế và Thuật. Ông cho rằng ba yếu tố đó phải thống nhất không thể tách rời trong đường lối trị nước bằng pháp luật. Trong đó, "Pháp" là nội dung trong chính sách cai trị được thể hiện bằng luật lệ; "Thế" là công cụ, phương tiện tạo nên sức mạnh, còn "Thuật" là phương pháp cách thức để thực hiện nội dung chính sách cai trị. Tất cả đều là công cụ của bậc đế vương. Pháp gia là một bước tiến lớn trong tư tưởng chính trị cổ đại Trung Quốc. Tư tưởng Pháp gia mặc dù chỉ nổi lên trong một thời gian ngắn nhưng vẫn có giá trị lịch sử lâu dài và có ý nghĩa đến tận ngày nay; mà đặc biệt là trong công cuộc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.

pdf28 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 5292 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tư tưởng triết học của pháp gia và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống chính trị của thời đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM …………………... .. …..………………. Đề tài: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA PHÁP GIA VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN ĐỜI SỐNG CHÍNH TRỊ CỦA THỜI ĐẠI GVHD : TS. Bùi Văn Mưa SVTH : Nguyễn Lương Ngân LỚP : Đêm 1 – K19 THÁNG 3/2010 HVTH: Nguyễ n Lương Ngân 0 Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa MỤC LỤC MỤC LỤC..................................................................................................................................... 0 LỜI NÓI ĐẦU .............................................................................................................................. 2 Chương 1 ....................................................................................................................................... 3 TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHÁP GIA CỦA HÀN PHI TỬ ........................................................ 3 1. Hoàn cảnh lịch sử ..................................................................................................................... 3 2. Tư tưởng triết học pháp gia của Hàn Phi Tử ............................................................................ 5  Pháp ............................................................................................................................... 6  Thế ................................................................................................................................ 6  Thuật ............................................................................................................................. 7  Để xây dựng một quốc gia lý tưởng: ............................................................................. 9 3. Những đóng góp và hạn chế của triết học Pháp Gia đối với xã hội Trung Hoa cổ đại. ......... 10 a) Đóng góp: .................................................................................................................... 10 b) Hạn chế: ...................................................................................................................... 14 Chương II .................................................................................................................................... 16 SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA TRIẾT HỌC PHÁP GIA .................................................................... 16 TRONG VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN ...................................................... 16 Ở VIỆT NAM. ............................................................................................................................ 16 1. Vận dụng tư tưởng triết học Pháp Gia trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay ...................................................................................................................... 16 2. Những thành tựu và hạn chế của Nhà nước pháp quyền VN hiện nay .................................. 18  Thành tựu: ................................................................................................................... 18  Hạn chế: ...................................................................................................................... 19 3. Kiến nghị đề xuất ................................................................................................................... 23 KẾT LUẬN ................................................................................................................................. 26 TÀI LIỆ U THAM KHẢO ........................................................................................................... 27 HVTH: Nguyễ n Lương Ngân 1 Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa LỜI NÓI ĐẦU Trong mấy ngàn năm qua không ai không biết Nho gia là trường phái tư tưởng quan trọng nhất ở Trung Quốc, song trên thực tế triết thuyết của phái này nhiều khi quá cao xa, vì chỉ thời Nghiêu - Thuấn mới có được; và chính những đại biểu trụ cột, cốt lõi của phái này đương thời không thành công trong hoạt động chính trị mà họ theo đuổi. Nhưng những đại biểu của Pháp gia thì khác, bản thân họ tuy phải trả giá, song tư tưởng của họ đã giải quyết được vấn đề đương thời giúp nước Tần hùng mạnh, và đã thống nhất được Trung Quốc. Tư tưởng Pháp gia với đại biểu xuất sắc là Hàn Phi Tử có một vai trò đặc biệt trong sự nghiệp thống nhất đất nước và phát triển xã hội cuối thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Nội dung cơ bản của tư tưởng Pháp gia là đề cao vai trò của Pháp luật và chủ trương dùng pháp luật hà khắc để trị nước. Học thuyết pháp trị của phái Pháp gia hình thành và phát triển qua nhiều thời kỳ bởi những trí thức xuất sắc như: Quản Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương Ưởng và được hoàn thiện bởi Hàn Phi Tử. Trong phép trị nước, Hàn Phi Tử là người đầu tiên coi trọng cả ba yếu tố Pháp, Thế và Thuật. Ông cho rằng ba yếu tố đó phải thống nhất không thể tách rời trong đường lối trị nước bằng pháp luật. Trong đó, "Pháp" là nội dung trong chính sách cai trị được thể hiện bằng luật lệ; "Thế" là công cụ, phương tiện tạo nên sức mạnh, còn "Thuật" là phương pháp cách thức để thực hiện nội dung chính sách cai trị. Tất cả đều là công cụ của bậc đế vương. Pháp gia là một bước tiến lớn trong tư tưởng chính trị cổ đại Trung Quốc. Tư tưởng Pháp gia mặc dù chỉ nổi lên trong một thời gian ngắn nhưng vẫn có giá trị lịch sử lâu dài và có ý nghĩa đến tận ngày nay; mà đặc biệt là trong công cuộc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. HVTH: Nguyễ n Lương Ngân 2 Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Chương 1 TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHÁP GIA CỦA HÀN PHI TỬ 1. Hoàn cảnh lịch sử Pháp gia là một trong sáu trường phái triết học tiêu biểu của Trung Quốc thời cổ - trung đại, nó có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp thống nhất về tư tưởng và chính trị trong xã hội Trung Hoa lúc bấy giờ. Tư tưởng pháp trị đã được hình thành từ khá sớm với Quản Trọng là người khởi xướng. Quản Trọng (thế kỷ VI TCN) là người nước Tề, vốn xuất thân từ giới bình dân nhưng rất có tài chính trị, được coi là người đầu tiên bàn về vai trò của pháp luật như là phương cách trị nước. Tư tưởng về pháp trị của Quản Trọng được ghi trong bộ Quản Tử, bao gồm 4 điểm chủ yếu sau1: Một là, mục đích trị quốc là làm cho phú quốc binh cường "Kho lẫm đầy rồi mới biết lễ tiết, y thực đủ mới biết vinh nhục". Hai là, muốn có phú quốc binh cường một mặt phải phát triển nông, công thương nghiệp, mặt khác phải đặt ra và thực hiện lệ chuộc tội: "Tội nặng thì chuộc bằng một cái tê giáp (áo giáp bằng da con tê); tội nhẹ thì chuộc bằng một cái qui thuẫn (cái thuẫn bằng mai rùa); tội nhỏ thì nộp kinh phí; tội còn nghi thì tha hẳn; còn hai bên thưa kiện nhau mà bên nào cũng có lỗi một phần thì bắt nộp mỗi bên một bó tên rồi xử hòa" Ba là, chủ trương phép trị nước phải đề cao "Luật, hình, lệnh, chính". Luật là để định danh phận cho mỗi người, Lệnh là để cho dân biết việc mà làm, Hình là để trừng trị những kẻ làm trái luật và lệnh, Chính là để sửa cho dân theo đường ngay lẽ phải. Bốn là, trong khi đề cao luật pháp, cần chú trọng đến đạo đức, lễ, nghĩa, liêm... trong phép trị nước. Như vậy có thể thấy rằng Quản Trọng chính là thủy tổ của Pháp gia, đồng thời ông cũng là cầu nối Nho gia với Pháp gia. So với thời Xuân Thu thì Chiến Quốc loạn lạc và bất ổn hơn về chính trị, nhưng lại phát triển hơn về kinh tế. Sang thời Chiến Quốc, tư tưởng Pháp trị 1 Nguyễn Thị Kim Bình (2008), “Tư tưởng trị nước của Pháp gia và vai trò của nó trong lịch sử”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, (Số 3(26).2008) HVTH: Nguyễ n Lương Ngân 3 Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa được tiếp tục phát triển bởi Thân Bất Hại (401-337 TCN), là người nước Trịnh chuyên học về hình danh, làm quan đến bậc tướng quốc. Thân Bất Hại đưa ra chủ trương ly khai "Đạo đức" chống "Lễ" và đề cao "Thuật" trong phép trị nước. Thân Bất Hại cho rằng "thuật" là cái "bí hiểm" của vua, theo đó nhà vua không được lộ ra cho kẻ bề tôi biết là vua sáng suốt hay không, biết nhiều hay biết ít, yêu hay ghét mình... bởi điều đó sẽ khiến bề tôi không thể đề phòng, nói dối và lừa gạt nhà vua. Một đại biểu nữa của phái Pháp gia thời kỳ này là Thận Đáo (370-290 TCN), ông là người nước Triệu và chịu ảnh hưởng một số tư tưởng triết học về đạo của Lão Tử, nhưng về chính trị ông lại đề xướng đường lối trị nước bằng pháp luật. Thận Đáo cho rằng Pháp luật phải khách quan như vật "vô vi" và điều đó loại trừ thiên kiến chủ quan, riêng tư của người cầm quyền. Phải nói rằng đây là một tư tưởng khá tiến bộ mà sau này Hàn Phi đã tiếp thu và hoàn thiện. Trong phép trị nước, đặc biệt Thận Đáo đề cao vai trò của "Thế". Ông cho rằng: "Người hiền mà chịu khuất kẻ bất tiếu là vì quyền thế nhẹ, địa vị thấp: kẻ bất tiếu mà phục được người hiền vì quyền trọng vị cao. Nghiêu hồi còn làm dân thường thì không trị được ba người mà Kiệt khi làm thiên tử có thể làm loạn cả thiên hạ, do đó biết rằng quyền thế và địa vị đủ để nhờ cậy được mà bậc hiền, trí không đủ cho ta hâm mộ. Cây ná yếu mà bắn được mũi tên lên cao là nhờ sức gió đưa đi, kẻ bất tiếu mà lệnh ban ra được thi hành là nhờ sức giúp đỡ của quần chúng, do đó mà xét thì hiền và trí không đủ cho đám đông phục tùng, mà quyền thế và địa vị đủ khuất phục được người hiền" Cùng thời với Thận Đáo, có một người cũng nêu cao tư tưởng Pháp trị, đó là Thương Ưởng. Ông đã hai lần giúp vua Tần cải cách pháp luật hành chính và kinh tế làm cho nước Tần trở nên hùng mạnh. Trong phép trị nước Thương Ưởng đề cao "pháp" theo nguyên tắc "Dĩ hình khử hình" (dùng hình phạt để trừ bỏ hình phạm). Theo ông pháp luật phải nghiêm và ban bố cho dân ai cũng biết, kẻ trên người dưới đều phải thi hành, ai có tội thì phạt và phạt cho thật nặng. Trong chính sách thực tiễn, Thương Ưởng chủ trương: Tổ chức liên gia và cáo gian lẫn nhau, khuyến khích khai hoang, cày cấy, nuôi tằm, dệt lụa, thưởng người có HVTH: Nguyễ n Lương Ngân 4 Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa công, phạt người phạm tội. Đối với quý tộc mà không có công thì sẽ hạ xuống làm người thường dân. Ông cũng là người đã thực hiện cải cách luật pháp, thi hành một thứ thuế thống nhất, dụng cụ đo lường thống nhất... nhờ đó chỉ sau một thời gian ngắn, nước Tần đã mạnh hẳn lên và lần lượt thôn tính được nhiều nước khác. Cuối thời Chiến Quốc, tư tưởng pháp trị được Hàn Phi Tử (280 – 233TCN) hoàn thiện. Ông là một vị công tử, vương thất nhà Hàn, là học trò của Tuân Tử - là một trong những đại biểu xuất sắc nhất của trường phái triết học Nho gia. Ông đã tổng hợp ba quan điểm về phép, thế, thuật của những nhà triết học trên thành một học thuyết có tính hệ thống và trình bày trong sách Hàn Phi Tử. Trước hết Hàn Phi đề cao vai trò của pháp trị. Theo ông, thời thế hoàn cảnh đã thay đổi thì phép trị nước không thể viện dẫn theo "đạo đức" của Nho gia, "Kiêm ái" của Mặc gia, "Vô vi nhi trị" của Đạo gia như trước nữa mà cần phải dùng Pháp trị. Hàn Phi đưa ra quan điểm tiến hóa về lịch sử, ông cho rằng lịch sử xã hội luôn trong quá trình tiến hoá và trong mỗi thời kỳ lịch sử thì mỗi xã hội có những đặc điểm dấu ấn riêng. Do vậy, không có một phương pháp cai trị vĩnh viễn, cũng như không có một thứ pháp luật luôn luôn đúng trong hệ thống chính trị tồn tại hàng ngàn năm. Từ đó, ông đã phát triển và hoàn thiện tư tưởng pháp gia thành một đường lối trị nước khá hoàn chỉnh và thích ứng với thời đại lúc bấy giờ. 2. Tư tưởng triết học pháp gia của Hàn Phi Tử Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử là sự tổng hợp của Pháp - Thế - Thuật, trong đó: Pháp là nội dung của chính sách cai trị, Thế và Thuật là phương tiện để thực hiện chính sách đó. Cả ba đều quan trọng như nhau, hỗ trợ nhau và trở thành công cụ trị nước của bậc đế vương2. 2 Nguyễn Ngọc Thu & Bùi Văn Mưa, Giáo trình Đại cương lịch sử triết học, NXB TP.HCM 2003 HVTH: Nguyễ n Lương Ngân 5 Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa  Pháp Nếu hiểu theo nghĩa rộng, Pháp là thể chế quốc gia, chế độ chính trị của xã hội. Còn theo nghĩa hẹp, pháp là luật lệ, quy định, điều luật, hiến lệnh có tính chất khuôn mẫu buộc mọi người phải tuân thủ. Theo Hàn Phi Tử, vua là người tượng trưng cho chủ quyền quốc gia nên nhà vua nắm cả 3 quyền này: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Khi thực hiện phải đảm bảo điều kiện như sau: - Luật pháp phải kịp thời. - Pháp luật soạn cho dân phải dễ hiểu, dễ thi hành. Như vậy, nội dung chủ yếu của luật pháp là thưởng và phạt. Đây là hai đòn bẩy của vua trong hệ thống chính quyền, mục đích là khuyến khích người dân làm điều thiện, ngăn ngừa kẻ làm điều ác. Như vậy, làm cho nước yên, không có gì hại cho dân cả. - Pháp luật phải công bằng, chủ trương trừng phạt trong pháp luật phải nghiêm minh, triệt để. Mọi người phải bình đẳng trước pháp luật, không được loại trừ ai kể cả giới quý tộc và quan lại. - Pháp luật cần phổ biến, pháp là những điều luật, luật lệ mang tính nguyên tắc được biên soạn rõ ràng, minh bạch, mang tính khuôn mẫu, được ghi chép trong đồ thư, phải được bày ra và ban bố rộng rãi trong dân chúng. Pháp là cơ sở khách quan, là tiêu chuẩn phân biệt rõ phải trái, tốt xấu, danh phận, hành pháp để mọi người biết rõ bổn phận trách nhiệm, biết được điều cần làm và không cần làm để từ đó thưởng phạt nghiêm ngặt. Vì vậy, khi sử dụng luật pháp không được thiên vị, khách quan mà phải công bằng. Ông đòi hỏi bậc minh chủ sai khiến bề tôi, không đặt ý ngoài pháp, không ban ơn trong pháp, không hành động trái pháp.  Thế Thế là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu chính thể. Địa vị đó phải là độc tôn, mọi người nhất thiết phải tuân theo, được gọi là tôn quân quyền hay HVTH: Nguyễ n Lương Ngân 6 Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa trung quân. Thế còn được hiểu là sức mạnh của thần dân, đất nước, cũng có thể là vận nước. Theo Hàn Phi Tử, muốn thi hành pháp luật phải có thế, thế có vị trí rất quan trọng và được Hàn Phi ví giống như nỏ yếu nhờ có gió kích mới làm tên bay xa như rồng bay được là nhờ mây. Theo Hàn Phi Tử thế và pháp không được tách rời nhau. Trong trị nước quyền thế của vua mới quan trọng, đức không quan trọng, tức là trọng thế. Ông đưa ra chủ trương sau: - Chủ quyền (gồm các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp), được tập trung ở một người đó là vua. - Vua phải được tôn kính và tuân theo triệt để. Dân không có quyền làm cách mạng, không được làm trái ý của vua, vua bắt chết phải chết, không chết là bất trung. - Đưa thưởng phạt lên hàng đầu quốc sách, vì thưởng phạt nhất là phạt là phương tiện hiệu nghiệm nhất để tiến hành cưỡng chế. Ông cho rằng “thưởng phải tín phạt phải tất, thưởng phải hậu phạt phải nặng”, thưởng phạt trong phép nước phải chí công vô tư. - Vua phải nắm hết hai quyền thưởng phạt vì hai quyền đó giống như nanh vuốt của cọp. Ông ta nói “cọp sở dĩ phải làm cho chó phải khiếp sợ vì cọp có nanh vuốt, nếu cọp bỏ nanh vuốt cho chó dùng thì cọp phải sợ chó”, vì vậy dứt khoát nhà vua phải nắm hết hai quyền này.  Thuật Thuật là phương pháp, thủ thuật, cách thức, mưu lược, điều khiển công việc để dùng người, để cho con người phải triệt để, tận tâm thực hiện lệnh của vua mà không hiểu vua dùng họ như thế nào3. Thuật có hai nghĩa, nếu hiểu theo nghĩa kỹ thuật: là phương án tuyển, dùng, xét khả năng của quan lại, nếu hiểu theo nghĩa tâm thuật: là mưu mô chế ngự quần thần, bắt họ để lộ thâm ý của họ. 3 Nguyễn Ngọc Thu & Bùi Văn Mưa, Giáo trình Đại cương lịch sử triết học, NXB TP.HCM 2003. HVTH: Nguyễ n Lương Ngân 7 Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Theo Hàn Phi Tử để trị nước, ông cho rằng: - “Vua trị lại bất trị dân” tức là công việc có quá nhiều, vua không thể làm hết được nên vua phải giao quan lại, hễ dân không loạn là quan làm tốt. Vua tổ chức bộ máy quan lại trong từng lĩnh vực, từng địa phương và phải có cách thức sử dụng theo ý của vua. - Vua phải giấu điều mình biết mà hỏi để biết thêm điều mình chưa biết, nói ngược lại điều mình muốn nói để dò xét cái gian tình của người, ngầm hại những bề tôi mà mình không cảm hóa được, không cho họ biết được mưu tính của mình. Không để cho họ tự ý hành động, làm gì phải hỏi ý mình trước, bắt họ phải làm đúng theo pháp luật và vua cũng phải làm theo pháp luật, xem lời nói của họ có phù hợp với hành động không, không cho họ lấy tiền trong kho để chi riêng, khi họ khen chê ai thì xem người được khen có thực tài không, người được chê có đúng tội không. - Để kiềm chế người có địa vị cao, có chức vụ lớn thì nhà vua có 3 cách: + Nếu là người hiền thì bắt vợ con của họ làm con tin. + Nếu là kẻ tham lam thì ban phước lộc hậu để mua chuộc họ, để họ không làm phản. + Nếu là kẻ gian xảo thì làm cho họ khốn khổ. - Ông cũng cho rằng có mười hạng người không nên dùng: + Hạng người khinh tước lộc, dễ dàng bỏ chức vụ để chạy theo cái khác. + Hạng người giả dối, đặt lời trái pháp luật. + Hạng người thường chê bai vua. + Hạng người tri ân thu phục người dưới. + Hạng người tư lợi, giao tiếp với chư hầu. + Hạng người vì người quen cũ mà lợi dụng cái riêng tư. + Hạng người bỏ chức quan, thích giao du. + Hạng người tranh thắng với bề trên. + Hạng người uốn cong pháp luật vì người thân. + Hạng người đem của công ra bố thí. HVTH: Nguyễ n Lương Ngân 8 Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa - Về phương pháp dùng người, khi nghe bề tôi nói thì vẻ mặt của vua phải trầm mặt, lầm lì, không khen, không chê, không để lộ tình cảm của mình. Phải bắt bề tôi nói, không được làm thinh, khi nói phải có đầu đuôi chứng cứ, lời nói của bề tôi trước sau không được mâu thuẫn, bề tôi phải đưa ra ý kiến ba phải, không được mập mờ, lời nói phải thiết thực. - “Dụng nhân như dụng mộc”: người nào cũng có thể sử dụng được, căn cứ vào tài năng của họ. Giao việc rồi mới biết họ hay hay dỡ, khi giao chức phải theo 3 quy tắc: + Giao bậc từ nhỏ đến cao: chức tước càng cao, chức vụ càng lớn, càng có tài cai trị. + Không được cho kiêm nhiệm, mỗi người làm một chuyên môn nhất định. + Khi giao trách nhiệm thì phải dùng người khác để dòm ngó người đó.  Để xây dựng một quốc gia lý tưởng: - Là một quốc gia theo chế độ quân chủ chuyên chế, vua phải có uy thế tuyệt đối, đích thân chế ngự quần thần, không ủy một chút quyền cho ai cả. - Pháp trị gồm: + Ai cũng phải tuân theo pháp luật, kể cả vua, phải chí công vô tư, không được dùng nhân nghĩa tình cảm. + Phải thống nhất tư tưởng, không dung nạp tư tưởng học thuyết trái với chủ trương của chính quyền. + Phải “trọng nông bất thương” tức coi trọng phát triển nông nghiệp, hạn chế thương nghiệp bởi vì “phi nông bất ổn” tức không có nông nghiệp thì nền kinh tế không ổn định, “phi thương bất hoạt” tức không có thương nghiệp thì nền kinh tế không hoạt động, “phi công bất phú” tức không có công nghiệp thì nền kinh tế không giàu mạnh, “phi trí bất hưng” tức không có tri thức thì đất nước không hưng thịnh, trọng vũ lực theo chủ nghĩa quân quốc. HVTH: Nguyễ n Lương Ngân 9 Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa - Theo Hàn Phi Tử, trong một quốc gia lý tưởng không có: Không có năm hạng mọt người: + Bọn học giả xuyên tạc thiên vương, tạ khẩu trọng nhân nghĩa; trau chuốt tướng mạo, y phục, lời nói để làm loạn pháp độ, mê hoặc vua chúa. + Bọn tu sĩ dùng thuyết gian xảo, mượn thế lực nước ngoài để đạt tư lợi, làm thiệt hại quốc gia. + Bọn đeo gươm, tập hợp đàn em, lập tiết tháo để nổi danh, phạm cấm lệnh. + Bọn thị thần nịnh bợ, tích tụ tài sản, ăn hối lộ. + Bọn thương gia, công nhân sửa lại đồ xấu xí, tàng trữ vật dụng, đầu cơ trục lợi. Không có sáu hạng sĩ: + Hạng sĩ quý trọng sự sống, sợ chết, trốn tránh trách nhiệm, đầu hàng giặc; + Hạng sĩ văn học: lập ra các học thuyết làm trái
Luận văn liên quan