Chủ nghĩa Mác ra đời năm 1840, ông nghiên cứu xã hội tư bản và khẳng định
rằng sự thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách
qua
- Ở phương Tây, cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và vô sản diễn ra quyết liệt,
tiêu biểu có các phong trào: công nhân dệt Li-ông Pháp (1831-1834), công nhân
Xilidi Đức (1844), phong trào Hiến chư ơng Anh (1838-1848). Các phong trào
này đều bị thất bại do thiếu tổ chức, thiếu sự liên kết và không có lý luận soi
đường
- M ác đưa ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là lật đổ chủ nghĩa tư bản,
xác lập chế độ xã hội chủ nghĩa
- Năm 1848 Mác tuy ên bố: Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, đưa ra quy luật ra đời
của Đảng cộng sản: chủ nghĩa xã hội khoa học + phong trào công nhân
b. Chủ nghĩa Lênin
- Bối cảnh lịch sử: chủ nghĩa tư bản phát triển thành chủ nghĩa đế quốc, hệ thống
thuộc địa ra đời trên khắp thế giới, mâu thuẫn dân tộc ngày càng trở nên gay gắt
- Tất yếu: “sẽ không có một phong trào vững chắc nếu không có Đảng vững chắc
lãnh đạo, hãy cho tôi một tổ chức của những người cộng sản, tôi sẽ làm đảo lộn
cả nước Nga này”
- Lênin chỉ rõ: Đảng cộng sản = Chủ nghĩa Mác + phong trào công nhân
c. Quốc tế Cộng sản
- Đảng cộng sản = Chủ nghĩa Mác – Lê nin + phong trào công nhân
16 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 10842 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vai trò của nguyễn ái quốc đối việc thành lập đảng cộng sản Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận
VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC
ĐỐI VIỆC THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
I. Nguồn gốc, quá trình hình thành
1. Cơ sở lý luận
a. Chủ nghĩa Mác
b. Chủ nghĩa Lênin
c. Quốc tế cộng sản
2. Cơ sở thực tiễn
a. Cách mạng trong nước
b. Cách mạng trên thế giới
3. Quá trình ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc
II. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị những điều kiện về tư tưởng, chính trị và tổ
chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản
1. Về tư tưởng
2. Về chính trị
3. Về tổ chức
III. Hội nghị thành lập Đảng và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
1. Hội nghị thành lập Đảng
2. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
IV. Suy nghĩ của bản thân về công lao to lớn của Nguyễn Ái Quốc đối với sự ra
đời của Đảng ta
I. Nguồn gốc, quá trình hình thành
1. Cơ sở lý luận
a. Chủ nghĩa Mác
- Chủ nghĩa Mác ra đời năm 1840, ông nghiên cứu xã hội tư bản và khẳng định
rằng sự thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách
qua
- Ở phương Tây, cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và vô sản diễn ra quyết liệt,
tiêu biểu có các phong trào: công nhân dệt Li-ông Pháp (1831-1834), công nhân
Xilidi Đức (1844), phong trào Hiến chương Anh (1838-1848). Các phong trào
này đều bị thất bại do thiếu tổ chức, thiếu sự liên kết và không có lý luận soi
đường
- M ác đưa ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là lật đổ chủ nghĩa tư bản,
xác lập chế độ xã hội chủ nghĩa
- Năm 1848 Mác tuy ên bố: Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, đưa ra quy luật ra đời
của Đảng cộng sản: chủ nghĩa xã hội khoa học + phong trào công nhân
b. Chủ nghĩa Lênin
- Bối cảnh lịch sử: chủ nghĩa tư bản phát triển thành chủ nghĩa đế quốc, hệ thống
thuộc địa ra đời trên khắp thế giới, mâu thuẫn dân tộc ngày càng trở nên gay gắt
- Tất yếu: “sẽ không có một phong trào vững chắc nếu không có Đảng vững chắc
lãnh đạo, hãy cho tôi một tổ chức của những người cộng sản, tôi sẽ làm đảo lộn
cả nước Nga này”
- Lênin chỉ rõ: Đ ảng cộng sản = Chủ nghĩa Mác + phong trào công nhân
c. Quốc tế Cộng sản
- Đảng cộng sản = Chủ nghĩa Mác – Lê nin + phong trào công nhân
2. Cơ sở thực tiễn
a. Cách mạng trong nước
Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản cuối thế kỉ
XIX
Tiêu biểu là các phong trào cần Vương, Cuộc khởi nghĩa Yên Thế.
Các cuộc khởi nghĩa này tuy diễn ra sôi nổi nhưng đều không thành
công.
Vua Hàm Nghi lãnh đạo phong trào Hoàng Hoa Thám lãnh đạo khởi nghĩa
cần Vương Yên Thế
Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản (Đầu thế kĩ XX)
Các phong trào giải phóng dân tộc do các sĩ phu lãnh đạo, tiêu biểu như:
Phan Bội Châu: chủ trương dùng biện Phan Châu Trinh: con đường cải lương,
pháp bạo động thông qua sự giúp đỡ
bên ngoài chủ yếu là Nhật Bản.
Ngoài ra còn có các phong trào đấu tranh khác nhưng cũng đều thất bại.
Thế nhưng các phong trào này đều không thành công
Qua đó đă thể hiện:
Truyền thống yêu nước, tinh thần bất khuất vì độc lập tự do của
dân tộc Việt Nam.
Tạo cơ sở xã hội thuận lợi cho việc tiếp nhận chủ nghĩa M ác -
Lênin và quan điểm cách mạng của Hồ Chí Minh.
Tạo cơ sở cho phong trào yêu nước trở thành một trong 3 nhân tố
dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Sự yếu kém trong tiến trình giải phóng dân tộc của giai cấp tư sản.
Những hạn chế về giai cấp, đường lối chính trị; hệ thống tổ chức thiếu
chặt chẽ, chưa tập hợp rộng rãi được lực lượng dân tộc.
Nhìn thấy được con đường cứu nước của những nhà yêu nước đã lâm vào bế
tắc, Nguyễn Ái Quốc quyết tâm rời quê hương đi tìm con đường cứu nước
mới, tìm con đường giải phóng dân tộc.
b. Cách mạng trên thế giới
- Năm 1917, CM tháng Mười Nga giành thắng lợi, nhà nước của liên minh công
– nông dưới sự lãnh đạo của Đảng Bônsơvích Nga ra đời, chứng tỏ quá trình
hiện thực hóa của chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời mở đầu một thời đại mới
“thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”. Cuộc cách
mạng này cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, nêu tấm
gương sáng trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức ở các nước thuộc địa.
Nguy ễn Ái Quốc đã khẳng định: Cách mạng tháng Mười như tiếng sét đã đánh
thức nhân dân châu Á tỉnh giấc mê hàng thế kỷ nay
- Tháng 3/1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) ra đời gắn với vai trò sáng lập
của Lênin. Sự xuất hiện của Quốc tế III thúc đẩy hơn nữa sự phát triển mạnh
mẽ của phong trào cộng sản và công nhân thế giới. Sơ thảo lần thứ nhất những
Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin được công bố tại
Đại hội II Quốc tế cộng sản (1920) chỉ ra phương hướng đấu tranh giải phóng
các dân tộc thuộc địa, mở ra con đường giải phóng các dân tộc bị áp bức trên
lập trường cách mạng vô sản.
Đối với Việt Nam, Quốc tế cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá
CN Mác – Lên và thành lập Đảng CSVN, N guyễn Ái Quốc nhấn mạnh “An
Nam muốn làm cách m ệnh thành công, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế”
c. Quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc
Ngày 5/6/1911, N guyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước.
Trên lộ trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã nhìn thấy và nghiên
cứu được những vấn đề hết sức có ý nghĩa trong việc giải phóng dân tộc qua
các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới.
Người nhận ra sâu sắc những hạn chế của các nhà yêu nước đương thời.
Mặc dù khâm phục lòng yêu nước nhưng N gười không đồng ý đi theo
con đường cứu nước của họ. Và ở đây Nguyễn Ái Quốc đã vượt qua hạn
chết của tầm nhìn để tìm cho dân tộc mình một con đường cứu nước
khác.
Người đã thấy được cách mạng dân chủ tư sản không thể đưa lại độc lập
và hạnh phúc thực sự cho nhân dân các nước nói chung và nhân dân
Việt Nam nói riêng.
Đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười N ga, đi theo Quốc tế
Cộng sản.
Năm 1917, N guy ễn Ái Quốc trở lại Pháp.Khi cách mạng tháng 10 Nga thành
công, Người tham gia các hoạt động chính trị sôi nổi. Và vào tháng 6,
Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt nhóm người yêu nước Việt Nam tại Pháp gửi
“Bản yêu sách 8 điểm”đến Hội nghị Vécxai, nhằm tố cáo chính sách của Pháp
và đòi Chính phủ Pháp thực hiện các quyền tự do, dân chủ và quyền bình
đẳng của dân ỉộc Việt Nam. Dù không được chấp nhận nhưng nó cũng đã gây
tiếng vang với nhân dân Pháp và các nước thuộc địa của Pháp.
Tháng 7-1920 : N guyễn Ải Quốc đọc bản Sơ khảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân ỉộc và thuộc đỊa của Lênin. Người vô cùng phấn khởi và
tin tưởng, vì Luận cương đã chỉ rõ cho N gười ỉhấy con đường đề giải phóng
dân tộc mình.
“Luận cương đến Bác Hồ và người đã khóc.
Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin”
(Người đi tìm hình của nước - Chế Lan Viên)
Tháng 12-1920 :Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tán thành Quốc tế thứ
ba, đặt cách mạng giài phóng dân tộc trong quỹ đạo cách mạng vô sản, trở
thành một trong những nhà sáng lập Đàng Cộng sản Pháp và là người Cộng
sản đầu tĩên của Việt Nam
Nguyễn Ái Quốc phát biều tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 18 Đàng Xã hội
Pháp, ủng hộ Luậncương của Lê-nin về vấn đề dân tộc và ỉhuộc địa.
Và từ đây, Nguyễn Ấi Quốc đã nhận ra: Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản mới giài phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động
trên thế giới khỏi ách nô lệ.
Như vậy, đã thấy Nguyễn Ái Quốc khác với các nhà yêu nước đươngthời,
Người có một phương pháp nghiên cứu độc lập, tự chủ, sáng tạo, đem lý luận
đối chiếu với thực tiễn, lấy mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội
làm tiêu chuẩn đánh giá các học thuyết, tiếp thu kinh nghiệm cách mạng thế
giới có chọn lọc.
Tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc đã được thể hiện nổi
bật trong việc vận dụng học thuyết Mác - Lênin, vạch ra đường lối cứu nước
đúng đắn cho dân tộc ta.
II. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị những điều kiện về tư tưởng, chính trị và
tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản
1. Về tư tưởng
Do cách mạng thuộc địa không được quan tâm đúng mức nên N guyễn Ái Quốc
đã đi sâu nghiên cứu, tham gia vào các diễn đàn, viết báo,... để tuyên truyền về vấn đề
thuộc địa và cách mạng thuộc
Cuối năm 1917, Người lao vào cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân Pháp,
tham gia Đảng xã hội Pháp, lập ra Hội những Người Việt Nam yêu nước với tờ báo
m‘Việt Nam hồrí' để tuyên truyền giáo dục Việt Kiều ở Pháp.
Năm 1922.N gười làm chủ nhiệm chủ bút cho báo m‘Người cùng khổ" đề vạch
trần chính sách đàn áp bọc lột dã man của chủ nghĩa đế quốc, góp phần vào việc thức
tỉnh các dân tộc bị áp bức đứng lên tự giải phóng.Song song đó, viết nhiều bài đăng
trên báo Nhân đạo của Đảng Cộng sản Pháp, báo Đời sống công nhân của Tổng Liên
đoàn Lao động Pháp.
Đến năm 1923, Nguyễn Ái Quốc rời Pháp đi Matxcova để tham dự Hội nghị
Quốc tế nông dân, đồng thời trực tiếp học tập nghiên cứu kinh nghiệm Cách mạng
tháng 10 Nga và chủ nghĩa Mác - Lênin. Người có nhiều bài cho các báo “Sự thật' (là
cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng Sản Liên Xô) và tạp chí “Thư tín Quốc tế’ của
Quốc tế Cộng sản.
Qua các bài báo, tạp chí, Nguyễn Ái Quốc đã góp phần quan trọng vào việc tố
cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân Pháp ở các thuộc địa, đồng thời tiến hành tuyên
truyền tư tưởng M ác - Lênin, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa những người cộng
sản và nhân dân lao động. Đây là thời gian N gười thu thập tư liệu cho tác phẩm “Bản
án chế độ thực dẫn Pháp”.
Năm 1924, Người tham dự Đại hội lần thứ V của Quốc t ế Cộng sản ở Liên Xô
và các đại hội của Quốc tế công hội, Quốc tế Phụ nữ, Quốc tế Thanh niên,... Và nhất là
Đại hội lần V, đã có bảnbáo cáo rất quan trọng về dân tộc và thuộc địa; làm sáng tỏ và
phát triển một số luận điểm quan trọng của Lênin về bản chất chủ nghĩa thực dân và
nhiệm vụ của các Đảng Cộng Sản trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống áp bức bóc
lột, đấu tranh giải phóng dân tộc các ở thuộc địa.
“Bản án chế độ thực dân Pháp” (năm 1925) mặc dù bị nhà cầm quy ền Pháp tìm
mọi cách ngăn chặn, cấm đoán, các sách báo nói trên vẫn được bí mật truyền về Việt
Nam vạch rõ âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc, từ đó khơi dậy tinh thần yêu
nước, tinh thần dân tộc để đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược; "Chủ nghĩa tư bản là
một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác
bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy người ta phải đồng thời
cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi thì cái vòi còn lại kia sẽ tiếp tục hút
máu của giai cấp vô sản con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt sẽ lại mọc ra"._
Đây là sự chuẩn bị về tư tưởng, lý luận cho sự thành lập Đảng, có ý nghĩa rất
quan trọng. Vì giống như Lênin đã nói” Không có lý luận cách mệnh, thì không có
cách mệnh, vận động ... Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh
mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong" (Trích hỏi đáp môn Đường lối cách
mạng của Đ ảng Cộng sản Việt Nam _ NXB Đại học Quốc gia 2010)
1922, Người làm chủ nhiệm chủ bút cho
1923, có nhiều bài cho báo “Sự thật”
báo“Người cùng khổ”
2. Về tổ chức:
Với sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc cùng một số chiến
sĩ cách mạng ở nhiều nước thuộc địa của Pháp thành lập Hội Hên hiệp thuộc địa năm
1921 nhằm tập hợp tất cả những người ở thuộc địa sống trên đất Pháp đấu tranh chống
chủ nghĩa thực dân. Và cũng thông qua hội này để truyền bá chủ nghĩa Mac - Lê Nin
đến các dân tộc thuộc địa.Đến ngày 11 / 11/ 1924, Người tới Quảng Châu. Tại đây,
Người cùng các nhà cách mạng Trung Quốc, Thái Lan, Án Độ,... sáng lập Hội Liên
hiệp các dân tộc bị áp bức (9/7/1925) đã nêu bật được tầm quan trọng của vấn đề đoàn
kết dân tộc trên thế giới.
Và bước chuẩn bị có ý nghĩa quyết định về mặt tổ chức cho sự ra đời của Đảng
Cộng sản VN chính là Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên.
Hội được Nguyễn Ái Quốc thành lập vào tháng 6/1925 với cơ quan tuyên
truyền của Hội là tờ báo Thanh niên.
Sau khi thành lập, Hội đã mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng lý luận chủ nghĩa M ác
- Lênin và lý luận giải phóng dân tộc cho những người trong tổ chức nhằm thúc đầy sự
phát triển phong trào cách mạng Việt Nam.Chống lại những đường lối dân tộc chủ
nghĩa hẹp hòi tiểu tư sản.
Hội đã giáo dục và giác ngộ nhiều người yêu nước chân chính theo con đường
Hồ Chí Minh, đào tạo và rèn luyện họ thành những chiến sĩ cách mạng trung thành,
làm nòng cốt trong việc thành lập Đảng Cộng sản sau này.
Truyền bá chủ nghĩa Mac-Lenin và tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh vào trong
phong trào công nhân và phong trào yêu nước gắn liền với xây dựng các tổ chức cơ sở
của Hội ở nhiều trung tâm kinh tế, chính trị quan trọng.
Từ năm 1925 - 1927, Người mở nhiều lớp huấn luyện chính trị tại Quảng Châu,
đào tạo nên đội ngũ cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Những bài giảng ở đây của
Người đã được tập hợp thành cuốn “Đường cách mệnh”.
Năm 1928, Hội thực hiện chủ trương “vô sản hóa”, đưa hội viên vào nhà máy,
hầm mỏ, đồn điền để rèn luy ện lập trường, quan điểm giai cấp công nhân, để truyền bá
Chủ nghĩa Mác- Lênin và lý luận giải phóng dân tộc nhằm thúc đầy sự phát triển của
phong trào cách mạng Việt Nam.
Những ảnh hưởng của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên và các lớp huấn
luyện của Nguyễn Ái Quốc đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển các phong trào
công nhân, phong trào yêu nước.Đưa lý luận Chủ nghĩa Mác Lênin và tôn chỉ,
mục đích đấu tranh của Hội vào các phong trào này.
Chứng tỏ: “Lập trường cách mạng giải phóng dân tộc của vô sản đã thắng lập
trường cách mạng giải phóng dân tộc của tư sản"
3. Về chính trị:
Sự chuẩn bị về chính trị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam của
Nguy ễn Ái Quốc được thể hiện thông qua việc hình thành các quan điểm sau đây,
trong đó ảnh hưởng lớn nhất là cuốn “Đường cách mệnh”:
1. Chỉ rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân, xác định chủ nghĩa thực dân là
kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và nhân dân
lao dộng trên thế giới.
2. Xác định cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận của cách mạng
vô sản thế giới. Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và cách
mạng chính quốc có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau, nhưng
không phụ thuộc vào nhau. Cách mạng giải phóng dân tộc có thể thành công
trước cách mạng chính quốc, góp phần thúc đẩy cách mạng chính quốc.
3. Trong nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng đông đảo nhất,
bị đế quốc phong kiến áp bức bóc lột nặng nề, vì vậy cần phải thu phục và
lôi cuốn được nông dân, cần phải xây dựng khối công nông làm động lực
cách mạng, đồng thời tập hợp được sự tham gia đông đảo các giai tầng khác
tham gia.
4. Cách mạng muốn giành được thắng lợi, trước hết phải có Đảng cách
mạng nắm vai trò lãnh đạo. Đảng muốn vững phải được trang bị chủ nghĩa
Mác - Lênin .
5. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, chứ không phải của
một vài người, " công nông là gốc của cách mệnh; còn học trò nhà buôn nhỏ,
điền chủ nhỏ... là bầu bạn cách mệnh của công nông". Cách mạng "là việc
chung của cả dân chúng chứ không phải là việc của một hai người". Vì vậy,
cần phải tập hợp, giác ngộ và từng bước tổ chức quần chúng đấu tranh từ
thấp đến cao.
Những quan điểm này đã được Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên truyền
bá trong nước dưới nhiều hình thức, làm cho phong trào công nhân và phong
trào yêu nước Việt Nam có sự chuyển biến mạnh mẽ. Sau này, các quan điểm
đợc phát triển thành những nội dung cơ bản trong cương lĩnh chính trị của
Đảng.
III. Hội nghị thành lập Đảng và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
1. Hội nghị thành lập Đảng
Các tổ chức cộng sản ở Việt Nam
Đến năm 1929, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam đã phát
triển mạnh, đòi hỏi phải có sự lãnh đạo thống nhất của một đảng cách mạng.
Tháng 6/1929, tại nhà số 213 Khâm Thiên - Hà Nội, đại biểu các tổ chức cơ sở
cộng sản ở miền Bắc đại hội, quy ết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng, thông
qua Tuyên ngôn, Điều lệ, quyết định xuất bản báo Búa Liềm và cử ra Ban chấp hành
Trung ương lâm thời của Đảng.
An Nam Cộng sản Đảng ra đời vào tháng 8 năm 1929, đại hội tại Sài Gòn để
thông qua đường lối chính trị, Điều lệ Đảng và lập Ban chấp hành Trung ương Đảng.
Sự ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng đã tác
động mạnh mẽ đến sự phân hoá trong Tân Việt. Những đảng viên tiên tiến của Tân
Việt đã tách ra thành lập các chi bộ cộng sản. Tháng 9/1929, những người giác ngộ
cộng sản chân chính trong Tân Việt cách mệnh Đ ảng trịnh trọng tuyên bố chính thức
lập ra Đông Dương Cộng sản Liên đoàn.
Chỉ trong bốn tháng, ở Việt Nam có ba tổ chức cộng sản ra đời, chứng tỏ xu thế
thành lập Đảng cộng sản đã trở thành tất yếu của phong trào dân tộc ở Việt Nam. Tuy
nhiên, dù đều giương cao ngọn cờ chống đế quốc, phong kiến, xây dựng chủ nghĩa
cộng sản ở Việt Nam nhưng 3 tổ chức cộng sản trên hoạt động phân tán, chia rẽ ảnh
hướng xấu đến phong trào CM VN, do đó yêu cầu khẩn cấp lúc này là khắc phục
nhược điểm đó thống nhất sự lãnh đạo đảm bảo cho quá trình phát triển của CMVN.
Hội nghị thành lập Đảng
- Cuối năm 1929 những người cách mạng Việt Nam trong các tổ chức cộng sản
đã nhận thức được sự cần thiết và cấp bách thành lập một tổ chức Đảng thống
nhất.
- Ngày 27/10/1929, Quốc tế cộng sản gửi những người cộng sản Đông Dương tài
liệu Về việc thành lập một Đảng cộng sản Đông Dương, đồng thời chỉ rõ
phương thức để tiến tới thánh lập Đảng là phải bắt đầu từ việc xây dựng các chi
bộ trong các nhà máy, xí nghiệp; chỉ rõ mối quan hệ giữa Đảng cộng sản Đông
Dương với phong trào cộng sản quốc tế.
- Nhận được Hội nghị hợp nhất Đảng.
- Hội nghị đã thảo tin về sự chia rẽ của những người cộng sản ở Đông Dương,
Nguy ễn Ái Quốc rời Xiêm đến Trung Quốc, bằng uy tín cá nhân, Người triệu
tập các tổ chức cộng sản tại Hương Cảng (Trung Quốc) và chủ trì luận và nhất
trí với Năm điểm lớn theo đề nghị của N guyễn Ái Quốc.
“1. Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm
cộng sản ở Đông Dương;
2. Định tên Đảng là Đảng cộng sản Việt Nam;
3. Thảo Chính cương và Điều lệ sơ lược của Đảng;
4. Định kế hoạch thực hiện việc thống nhất trong nước;
5. Cử một Ban trung ương lâm thời gồm 9 người, trong đó có 02 đại biểu chi bộ
cộng sản Trung Quốc ở Đông Dương”1
Sự kiện Đảng CSVN ra đời (3/2/1930) thể hiện bước phát triển biện chứng quá
trình vận động của cách mạng Việt Nam - sự phát triển về chất từ Hội Việt Nam
CMTN đến 03 tổ chức cộng sản, đến Đảng CSVN trên nền tảng chủ nghĩa Mác –
Lênin và quan điểm cách mạng N guyễn Ái Quốc
Hội nghị hợp nhất Đảng, tại Hương Cảng,
Trung Quốc tiến hành từ ngày 6/1 đến ngày 7/2 năm 1930
2. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Các văn kiện được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng CSVN như: Chánh
cương vắn tắt, Chương trình tóm tắt hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
CSVN. Cương lĩnh xác định những vấn đề cơ bản của CMVN như sau::
Phương hướng chiến lược: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Xác định con đường phát triển cho cách mạng Việt Nam: phải trải qua hai giai
đoạn: Giai đoạn hoàn thành cách mạng tư sản dân quyền (cách mạng dân tộc dân chủ
1 Đảng CSV N, Văn kiện Đảng, Toàn tập, t2 , Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, H.1998 , tr.1
nhân dân sau này) và tiến thẳng lên cách mạng xã hội chủ nghĩa (bỏ qua giai đoạn phát
triển của chế độ TBCN).
Nhiệm vụ cụ thể:
Về chính trị:
- Đánh đuổi đế quốc xâm lược, giành lại độc lập dân tộc.
- Đánh đổ địa chủ phong kiến đem lại ruộng đất cho nông dân.
- Lập chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông
Về kinh tế:
Thủ tiêu hết các thứ quốc trái, tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn của tư bản đế
quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho C