Kể từ sau đại hội Đảng lần thứ VI, nền kinh tế nước ta có những chuyển biến quan trọng. Nền kinh tế thoát khỏi tình trạng khủng hoảng trầm trọng, tỷ lệ tăng trưởng đạt nhanh và ổn định. Lạm phát được khống chế ở mức độ vừa phải, cơ cấu kinh tế có những thay đổi đáng kể. Nền kinh tế Việt Nam đang dần hoàn thiện đặc điểm của một nền kinh tế tiền. Sau hơn 15 năm của thời kỳ đổi mới chuyển sang kinh tế thị trường, quản lý hối đoái và tỷ giá là hai vấn đề kinh tế thu hút sự quan tâm lớn của dư luận, các doanh nghiệp, người dân, cả các nhà khoa học, cơ quan xây dựng chính sách.
Chính sách quản lý ngoại hối thuộc hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước, nhằm thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với ngoại tệ lưu thông, sử dụng trên quốc gia mình cũng như trong quan hệ đối ngoại, theo định hướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong những năm qua với chức năng tham mưu cho Chính phủ và thực thi chính sách quản lý ngoại hối, điều hành tỷ giá, Ngân hàng Nhà nước không ngừng đổi mới và hoàn thiện công tác này, phù hợp với tiến trình vận động của nền kinh tế, sự phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam hướng tới sự phù hợp với thông lệ quốc tế và nguyên lý của kinh tế thị trường theo định hướng chiến lược chung.
32 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3209 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vai trò quản lý ngoại hối của ngân hàng Nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
TRANG
Mục lục 1
Lời mở đầu 3
ChươngI: Cơ sở lý luận về quản lý ngoại hối 4
I.Khái niệm về quản lý ngoại hối. 4
II.Mục đích của việc quản lý ngoại hối. 5
1.Điều tiết tỷ giá thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. 5
2.Bảo tồn quỹ dự trữ ngoại hối Nhà nước. 5
3.Cải thiện cán cân thanh toán . 6
III.Cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái. 6
1.Khái niệm tỷ giá. 6
2.Các loại chế độ tỷ giá hối đoái. 7
2.1 Chế độ tỷ giá cố định. 7
2.2 Chế độ tỷ giá thả nổi. 7
2.3 Chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý. 8
3.Quá trình phát triển của hệ thốngtỷ giá hối đoái quốc tế. 9
Chương II: Thực trạng quản lý ngoại hối ở Việt Nam. 11
I.Các công cụ điều hành tỷ giá. 11
1.Mục đích và khả năng can thiệp của NHNN 12
2.Hệ thống các công cụ can thiệp trong quản lý ngoại hối. 12
II.Thực trạng quản lý ngoại hối ở Việt Nam. 15
1.Sự phát triển của hệ thống tỷ giá ở Việt Nam. 15
2.Thời kỳ thả nổi tỷ giá (1989 - 1992) 17
3.Chính sách điều hành tỷ giá hối đoái tự chủ theo cơ chế thị trường. 18
4.Cơ chế điều hành tỷ giá trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay. 19
III.Sự phá giá đồng VND nên hay không nên? 19
1.Phá giá tiền tệ và những tác động của nó. 19
2.Tỷ giá của đồng VND hiện nay. 20
3. Phá giá hay không phá giá VND? 22
Chương III: Giải pháp cho vấn đề quản lý ngoại hối ở Việt Nam. 23
I.Mục tiêu của chính sách tỷ giá ở Việt Nam. 23
1.Các mục tiêu của chính sách tỷ giá trong giai đoạn tới. 23
2.Định hướng xây dựng chính sách tỷ giá trong giai đoạn tới. 24
II.Giải pháp đổi mới cơ chế quản lý ngoại hối. 25
III.Hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá. 26
LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ sau đại hội Đảng lần thứ VI, nền kinh tế nước ta có những chuyển biến quan trọng. Nền kinh tế thoát khỏi tình trạng khủng hoảng trầm trọng, tỷ lệ tăng trưởng đạt nhanh và ổn định. Lạm phát được khống chế ở mức độ vừa phải, cơ cấu kinh tế có những thay đổi đáng kể. Nền kinh tế Việt Nam đang dần hoàn thiện đặc điểm của một nền kinh tế tiền. Sau hơn 15 năm của thời kỳ đổi mới chuyển sang kinh tế thị trường, quản lý hối đoái và tỷ giá là hai vấn đề kinh tế thu hút sự quan tâm lớn của dư luận, các doanh nghiệp, người dân, cả các nhà khoa học, cơ quan xây dựng chính sách.
Chính sách quản lý ngoại hối thuộc hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước, nhằm thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với ngoại tệ lưu thông, sử dụng trên quốc gia mình cũng như trong quan hệ đối ngoại, theo định hướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong những năm qua với chức năng tham mưu cho Chính phủ và thực thi chính sách quản lý ngoại hối, điều hành tỷ giá, Ngân hàng Nhà nước không ngừng đổi mới và hoàn thiện công tác này, phù hợp với tiến trình vận động của nền kinh tế, sự phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam hướng tới sự phù hợp với thông lệ quốc tế và nguyên lý của kinh tế thị trường theo định hướng chiến lược chung.
Chính vì vậy mà em đã chọn đề tài :“ Vai trò quản lý ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước” cho tiểu luận môn học của mình. Với khuôn khổ kiến thức cũng như tài liệu có hạn, em xin trình bày về một số vấn đề như: Cơ sở lý luận về tỷ giá và quản lý ngoại hối, cơ chế điều hành quản lý ngoại hối ở nước ta hiện nay, và cuối cùng là một số giải pháp cho vấn đề quản lý ngoại hối ở nước ta.
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI
I. KHÁI NIỆM VỀ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI.
Ngoại hối là phương tiện thiết yếu trong quan hệ kinh tế, văn hoá... giữa các quốc gia. Ngoại hối là tiền nước ngoài, vàng tiêu chuẩn quốc tế, các giấy tờ có giá và các công cụ thanh toán bằng tiền nước ngoài.
Ngoại hối trong đó đặc biệt là ngoại tệ có vai trò quan trọng, nó là phương tiện dự trữ của cải, phương tiện để mua, phương tiện thanh toán và hạch toán quốc tế, được các nước chấp nhận là đồng tiền quốc tế, bao gồm ngoại tệ mạnh và kim loại quý, dự trữ tại quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), quyền rút vốn đặc biệt, SDR và các tài sản có tính linh hoạt cao.
Nền kinh tế ngày càng phát triển, quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng thì không thể có một quốc gia nào phát triển một cách đơn độc, khép kín, mà còn đòi hỏi phải mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài. Vì vậy dự trữ ngoại hối là một trong những mục tiêu kinh tế có ý nghĩa quan trọng, có dự trữ ngoại hối cần thiết có nghĩa là Nhà nước đã nắm trong tay một công cụ quan trọng để phục vụ cho việc quản lý mục tiêu kinh tế vĩ mô. Dự trữ ngoại hối để đảm bảo khả năng thanh toán quốc tế, thoả mãn nhu cầu nhập khẩu phục vụ phát triển kinh tế và đời sống trong nước, mở rộng đầu tư, hợp tác kinh tế nước ngoài phục vụ mục tiêu chính sách kinh tế mở. Dự trữ ngoại hối là một cơ sở cho việc phát hành tiền đảm bảo cho mối tương quan giữa tiền-hàng trong nước. Nhà nước có thể chủ động sử dụng ngoại hối như là một lực lượng để can thiệp, điều tiết thị trường tiền tệ theo những mục tiêu theo kế hoạch.
Đối với những nước mà đồng tiền được tự do chuyển đổi, dự trữ ngoại hối là công cụ để can thiệp, điều chỉnh nhằm thiết lập thế cân bằng giữa các đồng tiền trong trật tự tiền tệ quốc tế, phục vụ chính sách kinh tế - xã hội.
Với tư cách là cơ quan duy nhất có nhiệm vụ phát hành tiền, xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ, lập và theo dõi cán cân thanh toán quốc tế Ngân hàng Trung ương (NHTW) đã được giao nhiệm vụ quản lý Nhà nước và kiểm soát ngoại hối trên thị trường là phù hợp. Ngân hàng Anh quốc cũng được chính phủ Anh giao nhiệm vụ thay mặt bộ tài chính quản lý dự trữ ngoại hối quốc gia. Gồm các nguồn dự trữ vàng chính thức của Anh, ngoại hối và quyền rút vốn đặc biệt tại quỹ tiền tệ quốc tế từ đó Ngân hàng Anh can thiệp vào thị trường hối đoái nhằm ngăn chặn sự dao động quá mức giá trị của Bảng Anh với các loại ngoại tệ khác. Tại Việt Nam vấn đề này được đề cập trong pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước (NHNN) năm 1990, Luật NHNN năm 1997 quy định: Nhà nước giao cho NHNN Việt Nam quản lý ngoại hối.
Quản lý ngoại hối là việc Nhà nước áp dụng các chính sách, biện pháp tác động vào quá trình nhập, xuất ngoại hối (đặc biệt là ngoại tệ) và việc sử dụng ngoại hối theo những mục tiêu nhất định.
II.MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC QUẢN LÝ NGOẠI HỐI.
1.Điều tiết tỷ giá thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
NHTW thực hiện các biện pháp nhằm thúc đẩy tập trung các nguồn ngoại hối (đặc biệt là ngoại tệ) vào tay mình, để thông qua đó Nhà nước sử dụng một cách hợp lý, có hiệu quả cho các nhu cầu phát triển kinh tế và hoạt động đối ngoại. Đồng thời sử dụng chính sách ngoại hối như một công cụ có hiệu lực để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, thông qua mua bán ngoại hối trên thị trường để can thiệp tỷ giá khi cần thiết nhằm ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền, tác động vào lượng tiền cung ứng.
2.Bảo tồn quỹ dự trữ ngoại hối Nhà nước.
Là cơ quan quản lý tài sản quốc gia, NHTW phải quản lý quỹ dự trữ ngoại hối Nhà nước nhưng không chỉ bảo quản và cất giữ mà còn biết sử dụng để phục vụ cho đầu tư phát triển kinh tế, luôn đảm bảo an toàn không bị ảnh hưởng rủi ro về tỷ giá ngoại tệ trên thị trường quốc tế. Vì thế NHTW cần phải mua bán chuyển đổi để phát triển chống thất thoát, sói mòn quỹ dự trữ ngoại hối của Nhà nước, bảo vệ độc lập chủ quyền về tiền tệ.
3.Cải thiện cán cân thanh toán.
Cán cân thanh toán quốc tế thể hiện quan hệ thu chi quốc tế của một nước với nước ngoài. Cán cân thanh toán phải phản ánh đầy đủ những xu hướng cung cầu về ngoại tệ trong các giao dịch quốc tế nên nó tác động lớn đến tỷ giá hối đoái của đồng tiền.
Khi cán cân thanh toán quốc tế bội thu, lượng ngoại tệ chảy vào trong nước dẫn đến khả năng cung về ngoại tệ cao hơn nhu cầu, trường hợp này tỷ giá vận động theo xu hướng giảm. Ngược lại khi cán cân thanh toán quốc tế bội chi, tăng lượng ngoại tệ chạy ra nước ngoài dẫn đến nhu cầu về ngoại tệ cao hơn khả năng cung ứng, trường hợp này tỷ giá vận động theo xu hướng tăng lên.Như vậy trong cả hai trường hợp nếu không có sự can thiệp của NHTW, tỷ giá sẽ tăng hoặc giảm theo cung cầu ngoại hối trên thị trường. Tuy nhiên ở nhiều nước NHTW đóng vai trò điều tiết tỷ giá để thực hiện mực tiêu của chính sách kinh tế. Nếu NHTW muốn xác lập một tỷ giá ổn định nghĩa là giữ cho tỷ giá không tăng, không giảm, thì NHTW hoặc mua vào số ngoại tệ từ nước ngoài chuyển vào trong nước làm cho quỹ dự trữ ngoại hối tăng lên tương ứng, hoặc NHTW sẽ bán ngoại tệ ra để đáp ứng nhu cầu của thị trường khi có luồng ngoại tệ chảy ra nước ngoài, quỹ dự trữ ngoại hối giảm đi tương ứng.
III.CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
1.Khái niệm tỷ giá.
Người ta có thể định nghĩa về tỷ giá theo các cách sau đây:
- Tỷ giá là tỷ lệ về giá trị giữa 2 đồng tiền với nhau.
- Tỷ giá là giá cả đơn vị tiền tệ của một nước được biểu hiện bằng giá tiền tệ của một nước khác.
- Tỷ giá là tỷ lệ chuyển đổi của một đồng tiền sang một đồng tiền khác.
Xét về mặt giá trị, tỷ giá hối đoái là giá đơn vị tiền tệ được biểu hiện bằng tiền tệ của nước ngoài, là hệ số quy đổi của một đồng tiền sang một đồng tiền khác được hình thành theo quan hệ cung cầu trên thị trường.
2. Các loại chế độ tỷ giá hối đoái.
2.1 Chế độ tỷ giá cố định
Chế độ tỷ giá cố định là việc một quốc gia thực hiện việc điều hành tỷ giá theo cơ chế sau: Nhà nước cam kết đảm bảo duy trì tỷ giá tại một mức xác định được công bố trước hoặc là Nhà nước đảm bảo sự dao động của tỷ giá trong một biên độ nhất định nào đó nếu như tỷ giá có những biến động.
Việc điều hành tỷ giá trong chế độ tỷ giá cố định rất đơn giản và trong chế độ này thì tỷ giá khá ổn định tuy nhiên bù lại trong thời kỳ khủng hoảng cán cân thanh toán bị thâm hụt nghiêm trọng thì sức ép về tỷ giá lên NHNN lại tăng lên gấp bội so với các chế độ tỷ giá khác và nếu NHNN không thể chống đỡ được thì nó buộc phải tuyên bố phá giá tiền tệ thả nổi tỷ giá để cho tỷ giá được xác lập theo các quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối và mọi cam kết của nó trước đây đều không có hiệu lực.
2.2 Chế độ tỷ giá thả nổi
Chế độ tỷ giá thả nổi là chế độ tỷ giá hối đoái do quan hệ cung cầu của các đồng tiền xác định. Trong chế độ này thì tỷ giá được xác định hoàn toàn dựa trên các yếu tố thị trường và đặc biệt trong trường hợp thả nổi hoàn toàn thì NHNN hoàn toàn không tham gia vào việc can thiệp tỷ giá ngay cả với tư cách là một nhân vật tham gia vào thị trưòng một cách vô tư nhất.
Tuy nhiên trong chế độ tỷ giá thả nổi trên thị trường hối đoái các nước còn phân biệt tỷ giá thị trường và tỷ giá chính thức. Tỷ giá thị trường là tỷ giá mua bán ngoại tệ của các Ngân hàng thương mại (NHTM) các sở giao dịch chứng khoán. Tỷ giá thị trường lên xuống xung quanh tỷ giá chính thức theo qui luật cung cầu, các loại hình giao dịch, phương thức giao dịch, các phương tiện giao dịch và thanh toán.Tỷ giá chính thức là tỷ giá do NHTW công bố, gần sát với tỷ giá thị trường nhưng thay đổi chậm hơn tỷ giá thị trường. Tỷ giá chính thức được dùng trong các nghiệp vụ giao dịch giữa các Chính phủ các cơ quan Nhà nước... Đối với chế độ tỷ giá thả nổi chúng ta thấy được một số ưu điểm là chế độ tỷ giá thả nổi tạo ra mức độ độc lập tiền tệ cao hơn, tạo ra cơ chế điều chỉnh tự động đối với các cú sốc thương mại và tránh được sự tấn công mang tính chất đầu cơ, tỷ giá trong chế độ này phản ánh đúng các tín hiệu của thị trường thương mại quốc tế cũng như phản ánh sát tương quan về giá trị đồng tiền của quốc gia. Tuy nhiên nó có một số nhược điểm như tỷ giá liên tục biến đổi và rất khó có thể kiểm soát được, rủi ro trong kinh doanh về tỷ giá tăng, mức độ ổn định của giá trị đồng tiền không cao khiến cho các hoạt động đầu tư không phát triển việc thực hiện các chính sách điều hành nền kinh tế có liên quan tới tỷ giá gặp nhiều khó khăn.
2.3.Chế độ thả nổi có quản lý
Hiện nay, hầu hết các nước trên thế giới đều thực hiện chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý trừ Mỹ, Nhật, Canada. Các nước trong khối cộng đồng chung Châu Âu (EEC) còn thực hiện chế độ thả nổi tập thể các đồng tiền của họ (thời kì đồng EUR chưa lưu hành chính thức) đối với các đồng tiền ngoài khối như USD, JPY, nhưng vẫn duy trì tỷ giá cố định đối với các đồng tiền trong khối. Chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý tuy vẫn do cung cầu quyết định, nhưng khi nội tệ bị lên giá hay hạ giá quá mạnh thì Chính phủ sẽ can thiệp để nội tệ không bị hạ giá quá thấp hay lên giá quá cao. Đây thực chất là hình thức kết hợp của chế độ cố định và chế độ thả nổi hoàn toàn hoặc có thể gọi đây là một chế độ điều hành tỷ giá trung gian. Nó vẫn duy trì vai trò của NHNN trong điều hành tỷ giá nhưng chỉ ở một mức độ vừa phải chứ không qúa nhiều như trong chế độ cố định, NHNN chỉ thực hiện can thiệp vào tỷ giá khi mà nó cảm thấy cần thiết chứ nó không bị rằng buộc trách nhiệm neo giữ tỷ giá trong giới hạn biên độ như trong chế độ cố định. Cũng tương tự chế độ này không như chế độ thả nổi hoàn toàn mà vai trò của Nhà nước ở đây giúp cho tỷ giá không quá biến động tạo ra sự ổn định ở một mức độ nào đó trong quan hệ với việc không can thiệp quá nhiều vào vấn đề tỷ giá. Trong chế độ này thì NHNN can thiệp vào tỷ giá bằng cách tham gia thị trường như một nhân vật của thị trường, tuy nhiên cũng tuỳ mức độ của vấn đề tỷ giá mà NHNN có thể có những mệnh lệnh chính sách áp đặt để thực hiện các quyết định điều hành của mình.
Chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý đem lại khá nhiều lợi ích nó cho phép khắc phục các nhược điểm của hai chính sách trên tuy nhiên việc áp dụng chính sách này rất dễ dẫn đến việc thiên về chính sách tỷ giá cố định bởi vì các quyết định điều hành về tỷ giá thường xuyên bị áp lực từ các quyết định của các chính sách khác vì thế cho nên rất dễ xảy ra việc quá lạm dụng vai trò của Nhà nước trong khi thực hiện chính sách này. Cơ chế can thiệp của NHNN trong trường hợp cần thiết cũng giống như trong chế độ tỷ giá cố định tuy nhiên khi xảy ra khủng hoảng thì áp lực lên NHNN trong điều hành tỷ giá không lớn như trong chế độ tỷ giá cố định bởi vì khi đó tỷ giá sẽ được NHNN để cho các yếu tố thị trường tự điều chỉnh và tác hại trong việc này là rất nhỏ so với trường hợp neo tỷ giá cố định.
Như vậy ta thấy trong chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý thì việc điều hành tỷ giá trở nên có hiệu quả hơn đồng thời nó vẫn đảm bảo được tính linh hoạt cũng như tính bám sát tín hiệu thị trường của tỷ giá ở một mức độ nhất định và có thể chấp nhận được.
3.Quá trình phát triển của hệ thống tỷ giá hối đoái quốc tế
Tỷ giá hối đoái là một nhân tố ảnh hưởng tới ảnh hưởng lớn đến tài khoản vãng lai trên cán cân thanh toán quốc tế và những biến số kinh tế vĩ mô khác cho nên nó là một trong những loại giá quan trọng nhất trong một nền kinh tế mở cửa. Ngày nay các nước công nghiệp hoá đang hoạt động trong một cơ chế các tỷ giá hối đoái được thả nổi và được điều tiết. Tuy nhiên hoàn toàn không phải ngay từ đầu cơ chế điều hành tỷ giá này đã được xác định trong lịch sử cũng ghi lại những vết son khá đậm về sự thay đổi trong cơ chế điều hành tỷ giá. Từ sau chiến tranh thứ II đến năm 1973, nền kinh tế thế giới đã hoạt động trong một hệ thống tỷ giá hối đoái cố định theo USD. Hệ thống này cho phép hiệp định Bretton Woods lập nên đòi hỏi các nước thành viên phải cố định tỷ giá của đồng tiền nước mình so với đồng USD và một giá vàng tính bằng USD không biến đổi là 35 USD một ounce vàng. Các nước thành viên duy trì dự trữ quốc tế chính thức của họ một cách rộng rãi dưới dạng các tài sản bằng USD như tín phiếu kho bạc Mỹ và các khoản tiền gửi ngắn hạn bằng USD có trả lãi và có thể chuyển thành tiền mặt với chi phí tương đối thấp. Mặt khác phải nhấn mạnh rằng các nước đều có thể bán USD cho cục dự trữ liên bang Mỹ lấy vàng. Dưới chế độ này mọi NHTW đều cố định tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền nước mình (nội tệ) và USD thông qua việc mua bán đồng nội tệ lấy các tài sản bằng USD trên thị trường ngoại hối. Còn nước phát hành đồng tiền được các nước khác giữ làm dự trữ chiếm một vị trí đặc biệt vì nó không bao giờ phải can thiệp vào thị trường ngoại hối và không hề phải gánh vác việc tài trợ cho cán cân thanh toán của mình. Năm 1965, bắt đầu giai đoạn Mỹ tăng cưòng chiến tranh quân sự ở Việt Nam, đây cũng chính là điểm xoá tan sự bình yên của hệ thống tiền tệ thế giới, chính sách kinh tế vĩ mô của Mỹ giai đoạn này là sai lầm chính làm cho hệ thống tỷ giá cố định tan rã. Chi phí quân sự ngày càng tăng lên, sự thâm thủng trong ngân sách của Mỹ đã đưa cục dự trữ liên bang Mỹ đến chỗ phải chọn một chính sách tiền tệ mở rộng hơn nữa vào năm 1967 và 1968. Tình trạng lạm phát ở Mỹ đã đẩy nhanh hiện tượng đầu cơ trên thị trường, giá vàng giao động mạnh và ngày càng có xu hướng tăng lên, đây là nguyên nhân chính mà NHTW các nước đòi Mỹ đổi số Đôla tài sản họ đang nắm giữ thành vàng. Điều này đã khiến Mỹ lo âu và là một trong nhiều nguyên nhân dẫn đến quyết định phá giá đồng Đôla sau này. Mặt khác lạm phát ở Mỹ gia tăng thì hậu quả chính là sự tăng lên tự động trong tốc độ tăng tiền và lạm phát ở nước ngoài khi NHTW các nước mua đồng tiền dự trữ nhằm giữ vững tỷ giá hối đoái, đồng thời mở rộng mức cung tiền của họ trong quá trình này. Sự tăng trưởng tiền tệ của Mỹ càng cao thì càng kích thích lạm phát trong và ngoài nước, làm cho các Chính phủ nước ngoài ngày càng phải miễn cưỡng nhập khẩu lạm phát của Mỹ thông qua các tỷ giá hối đoái cố định.
Các kiến trúc sư của hệ thống Bretton Woods từng hy vọng vào Mỹ, cho rằng thành viên hùng mạnh nhất của nó có thể có tầm nhìn rộng hơn, xa hơn mục tiêu cục bộ nước mình và chấp nhận những chính sách hướng về sự phồn thịnh chung của nền kinh tế thế giới. Song trên thực tế, mục tiêu tổng thể đó chưa hẳn được Mỹ quan tâm, từ nửa sau những năm 1960 Mỹ đã bắt đầu trút bỏ trách nhiệm được giao phó này, cũng bắt đầu từ đó hệ thống tỷ giá cố định bị rạn nứt. Một loạt các cuộc khủng hoảng kinh tế bắt đầu vào mùa xuân năm 1971 đã từng bước dẫn đến việc từ bỏ các mối quan hệ giữa USD với vàng lẫn tỷ giá hối đoái đô la cố định. Đến năm 1973 hệ thống hối đoái cố định sụp đổ. Lạm phát toàn cầu và chế độ tỷ giá thả nổi chính thức được thiết lập.
Từ 1973 đến 1980 là giai đoạn tỷ giá được thả nổi hoàn toàn. Trong giai đoạn này các tỷ giá thả nổi dường như hoạt động trôi chảy, cán cân thanh toán quốc tế giao động trở lại cân bằng một cách tự nhiên theo quan hệ cung cầu. Phải thừa nhận rằng sự thả nổi đã tạo cho các NHTW khả năng kiểm soát các mức cung tiền của họ và lựa chọn tỷ lệ lạm phát mà mình mong muốn. Tuy nhiên trên thực tế tỷ giá thả nổi chính thức không có khả năng cách ly hoàn toàn các nước khỏi những cú sốc do chính sách của nước ngoài dội vào và đồng tiền các nước dường như biến động thất thường theo sự lên xuống của đồng tiền trụ cột USD. Chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi bị hoài nghi, NHTW các nước không thể thờ ơ trước giá trị đồng tiền của nước mình trên thị trường ngoại hối và họ đã liên tiếp can thiệp vào thị trường ngoại hối để thay đổi giá trị đồng tiền của mình, họ bắt đầu áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý của Nhà nước. Loại hình này tỷ giá này hiện đang được áp dụng ở hầu hết các nước tuy nhiên mức độ điều tiết của mỗi nước mỗi khác. Song sự can thiệp không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với tích cực mà nó có những mặt trái nhất định của nó. Kinh nghiệm của một số nước công nghiệp cho thấy rằng cố định quá mức hoặc thả lỏng quá mức đều mang lại những hậu quả nặng nề. Như vậy cần phải có sự can thiệp vừa phải đúng mức, để cái giá phải trả thấp hơn so với mục tiêu đạt được. Điều này phụ thuộc vào sự khôn ngoan và tài năng của một NHTW.