Tiểu luận Xúc tiến thương mại luật quảng cáo

Hội nhập vào nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp ngày càng có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc thành lập và tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh dưới nhiều hình thức khác nhau. Từ đó, việc hoạt động, sản xuất trong cùng một lĩnh vực, tranh giành thị trường liên quan là điều không thể tránh khỏi. Vì vậy, cạnh tranh sẽ là vấn đề tất yếu trong nền kinh tế hiện nay. Trong cuộc cạnh tranh đó, các doanh nghiệp sử dụng nhiều giải pháp để tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội bán hàng và cung ứng dịch vụ như: Quảng cáo, giới thiệu, khuyến mại, trưng bày giới thiệu hàng hóa dịch vụ, hội trợ triễn lãm, thương mại, . Các hoạt động này được gọi là xúc tiến thương mại và là quá trình tất yếu mà doanh nghiệp phải tiến hành để đáp ứng nhu cầu cạnh tranh. Quá trình này do thương nhân tự tổ chức thực hiện hoặc thông qua quan hệ dịch vụ do thương nhân khác cung cấp. Chính vì những lợi ích mà hoạt động xúc tiến thương mại mang lại, từ đó nhằm liên hệ với thị trường và công chúng, thương nhân ngày càng quan tâm đến các “kỹ thuật thuyết phục” khác nhau thông qua nhiều hình thức đa dạng, phong phú. Với hiệu quả đạt được trong tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, xúc tiến thương mại đã sớm được coi là công cụ cạnh tranh lợi hại, có khả năng mang lại lợi ích thương mại to lớn cho thương nhân, đồng thời có những ảnh hưởng không nhỏ đến lợi ích của đối thủ cạnh tranh và của người tiêu dùng. Xét về góc độ kinh tế, xúc tiến thương mại là thuật ngữ xuất hiện trong kinh tế học từ những năm đầu của thế kỷ XX cùng với sự hình thành và phát triển của khái niệm marketing. Trong tiếng Anh, “xúc tiến” (Promotion) có nghĩa là sự khuyến khích, ủng hộ, sự khuyếch trương, thúc đẩy hay sự thăng tiến. Vì vậy, “trade promotion” không chỉ là xúc tiến thương mại mà còn có ý nghĩa là sự khuyếch trương thương mại, sự thúc đẩy thương mại. Thậm chí, ở tầm quốc gia, môi trường toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại đã và đang đòi hỏi Chính phủ và các tổ chức xúc tiến thương mại, đồng thời phải có biện pháp nhằm bảo vệ các hoạt động quảng cáo, trong lĩnh vực này phát triển hợp pháp. Xét về góc độ pháp lý, khoa học pháp lý nghiên cứu xúc tiến thương mại với ý nghĩa là quyền của cá nhân, tổ chức được ghi nhận trọng các quy định của pháp luật. Cụ thể là tại khoản 3 điều 10 Luật thương mại 2005 quy định: Xúc tiến thương mại là hoạt động thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ, bao gồm hoạt động khuyến mại, quảng cáo thương mại, trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ và hội chợ, triển lãm thương mại. Xúc tiến thương mại mang bản chất là hoạt động xúc tiến bán hàng và cung ứng dịch vụ do thương nhân tiến hành. Đây cũng là định nghĩa duy nhất về xúc tiến thương mại trong pháp luật Việt Nam hiện nay.

doc26 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3864 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Xúc tiến thương mại luật quảng cáo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài: XÚC TIẾN THƯƠNG MẠI LUẬT QUẢNG CÁO Bộ môn: Luật thương mại MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU 2 NỘI DUNG CHÍNH 4 I. Quảng cáo thương mại 4 1. Khái niệm 4 2. Nội dung của hợp đồng quảng cáo thương mại 5 II. Thực trạng về quảng cáo và các điều lệ quy định về hoạt động quảng cáo. 5 1.Thực trạng về hoạt động quảng cáo 5 2.Các điều lệ quy định về hoạt động quảng cáo 7 2.1.Quảng cáo thương mại và kinh doanh dịch vụ quảng cáo thương mại 7 2.2.Quảng cáo thương mại 10 2.3. Khen thưởng và xử lý vi phạm 13 3. Hoạt động quảng cáo có yếu tố nước ngoài 20 3.1 Quảng cáo của tổ chức, cá nhân nước ngoài 20 3.2 Giấy phép quảng cáo 21 3.3 Văn phòng đại diện quảng cáo 23 3.4 Chi nhánh quảng cáo 24 3.5  Hợp tác, đầu tư trong hoạt động quảng cáo 24 3.6  Quảng cáo ở nước ngoài 24 III. Giải pháp để hoàn thiện pháp luật về XTTM trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam 24 TÀI LIỆU THAM KHẢO 26 LỜI NÓI ĐẦU Hội nhập vào nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp ngày càng có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc thành lập và tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh dưới nhiều hình thức khác nhau. Từ đó, việc hoạt động, sản xuất trong cùng một lĩnh vực, tranh giành thị trường liên quan là điều không thể tránh khỏi. Vì vậy, cạnh tranh sẽ là vấn đề tất yếu trong nền kinh tế hiện nay. Trong cuộc cạnh tranh đó, các doanh nghiệp sử dụng nhiều giải pháp để tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội bán hàng và cung ứng dịch vụ như: Quảng cáo, giới thiệu, khuyến mại, trưng bày giới thiệu hàng hóa dịch vụ, hội trợ triễn lãm, thương mại, ... Các hoạt động này được gọi là xúc tiến thương mại và là quá trình tất yếu mà doanh nghiệp phải tiến hành để đáp ứng nhu cầu cạnh tranh. Quá trình này do thương nhân tự tổ chức thực hiện hoặc thông qua quan hệ dịch vụ do thương nhân khác cung cấp. Chính vì những lợi ích mà hoạt động xúc tiến thương mại mang lại, từ đó nhằm liên hệ với thị trường và công chúng, thương nhân ngày càng quan tâm đến các “kỹ thuật thuyết phục” khác nhau thông qua nhiều hình thức đa dạng, phong phú. Với hiệu quả đạt được trong tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, xúc tiến thương mại đã sớm được coi là công cụ cạnh tranh lợi hại, có khả năng mang lại lợi ích thương mại to lớn cho thương nhân, đồng thời có những ảnh hưởng không nhỏ đến lợi ích của đối thủ cạnh tranh và của người tiêu dùng. Xét về góc độ kinh tế, xúc tiến thương mại là thuật ngữ xuất hiện trong kinh tế học từ những năm đầu của thế kỷ XX cùng với sự hình thành và phát triển của khái niệm marketing. Trong tiếng Anh, “xúc tiến” (Promotion) có nghĩa là sự khuyến khích, ủng hộ, sự khuyếch trương, thúc đẩy hay sự thăng tiến. Vì vậy, “trade promotion” không chỉ là xúc tiến thương mại mà còn có ý nghĩa là sự khuyếch trương thương mại, sự thúc đẩy thương mại. Thậm chí, ở tầm quốc gia, môi trường toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại đã và đang đòi hỏi Chính phủ và các tổ chức xúc tiến thương mại, đồng thời phải có biện pháp nhằm bảo vệ các hoạt động quảng cáo, … trong lĩnh vực này phát triển hợp pháp. Xét về góc độ pháp lý, khoa học pháp lý nghiên cứu xúc tiến thương mại với ý nghĩa là quyền của cá nhân, tổ chức được ghi nhận trọng các quy định của pháp luật. Cụ thể là tại khoản 3 điều 10 Luật thương mại 2005 quy định: Xúc tiến thương mại là hoạt động thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ, bao gồm hoạt động khuyến mại, quảng cáo thương mại, trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ và hội chợ, triển lãm thương mại. Xúc tiến thương mại mang bản chất là hoạt động xúc tiến bán hàng và cung ứng dịch vụ do thương nhân tiến hành. Đây cũng là định nghĩa duy nhất về xúc tiến thương mại trong pháp luật Việt Nam hiện nay. Chính với suy nghĩ như trên và nhận thức được phần nào về hoạt động quảng cáo nên chúng em đã chọn đề tài “Pháp luật về quảng cáo” để nghiên cứu và phân tích. Do thời gian có hạn và khả năng tiếp cận thông tin có thể còn nhiều thiếu sót nên bài tiểu luận này có thể còn nhiều vướng mắc. Rất mong nhận được sự góp ý của cô và các bạn. NỘI DUNG CHÍNH I. Quảng cáo thương mại 1. Khái niệm Quảng cáo thương mại là hành vi thương mại của thương nhân nhằm giới thiệu hàng hóa, dịch vụ để xúc tiến thương mại. Hình thức quảng cáo: tiếng nói, chữ viết, biểu tượng, màu sắc, ánh sáng, hình ảnh, hành động, âm thanh, ... Phương tiện quảng cáo: báo chí, xuất bản phẩm, mạng Internet, băng rôn, bảng, biển, vật phát quang, vật thể trên không, dưới nước, phương tiện giao thông, vật thể di động hoặc cố định, chương trình văn hóa, thể thao, ... 2. Nội dung của hợp đồng quảng cáo thương mại Việc thuê dịch vụ quảng cáo thương mại phải được xác lập bằng hợp đồng (giữa bên thuê và bên làm dịch vụ) đây là quy định có tính bắt buộc. Hợp đồng dịch vụ quảng cáo thương mại phải được xác lập thành văn bản với nội dung chủ yếu sau đây: a/ Tên, địa chỉ của các bên kí hợp đồng. b/ Sản phẩm, phương tiện quảng cáo thương mại. c/ Phương thức, phương tiện quảng cáo thương mại. d/ Thời gian, phạm vi quảng cáo thương mại. e/ Phí dịch vụ, các chi phí khác có lien quan. II. Thực trạng về quảng cáo và các điều lệ quy định về hoạt động quảng cáo. 1.Thực trạng về hoạt động quảng cáo Dù có nhiều luật lệ quy định về sản xuất, kiểm duyệt, chứng nhận chất lượng, nhưng các quảng cáo không đúng sự thật vẫn được đăng, phát trên báo chí và truyền hình. Để lên tới sóng truyền hình, các quảng cáo cũng phải chạy theo một đường vòng khá rắc rối, với nhiều khâu khác nhau nhưng khi có chuyện gì rắc rối thì vẫn thường đổ lỗi cho nhà sản xuất, chứ các cơ quan truyền thông vẫn không bị ảnh hưởng gì. Công ty quảng cáo thường nhận hợp đồng từ các đài truyền hình có uy tín hoặc trực tiếp từ nhà sản xuất. Từ thông tin về sản phẩm, công ty sẽ viết kịch bản và tham gia đấu thầu cùng với các công ty quảng cáo khác. Nếu thắng trong đấu thầuvà nhận được hợp đồng làm phim, khi bắt tay vào sản xuất, trong hợp đồng luôn ghi rõ công ty quảng cáo không chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm.   Người viết kịch bản phim quảng cáo phải trực tiếp tiếp xúc với sản phẩm, thậm chí phải có sự trải nghiệm thực tế, tức là dùng thử sản phẩm, dịch vụ để có hiểu biết sâu sắc về nó rồi mới phát sóng quảng cáo. Theo quy định của pháp luật, những quảng cáo như thực phẩm, dược phẩm, hóa mỹ phẩm..., nhà sản xuất phải trình được giấy phép đăng ký kinh doanh và giấy phép quảng cáo do các cơ quan quản lý nhà nước như Sở Y tế, Cục Quản lý Dược ... cấp chứng nhận chất lượng sản phẩm đúng như quảng cáo thì mới được phát sóng. Kể cả khi đã có đầy đủ giấy tờ như vậy, ban biên tập các đài truyền hình còn phải duyệt nội dung để đảm bảo tính thẩm mỹ và thuần phong mỹ tục trong quảng cáo. Về lý thuyết, quy trình thì chặt chẽ như vậy, nhưng thực thi thực tế lỏng lẻo. Vụ quảng cáo vòng tay titan lừa đảo cuối năm 2009 là một minh chứng rõ ràng nhất. Thông tin từ một lãnh đạo Vụ Trang thiết bị Y tế (thuộc Bộ Y tế) trên báo chí cho biết, công ty STV Shopping, đơn vị nhập khẩu và phân phối vòng tay titan, đã từng mang mặt hàng này đến xin cấp phép quảng cáo. Vì thấy sản phẩm không đủ tác dụng chữa bệnh, Bộ đã không cấp phép. Tuy nhiên, sau đó bộ vòng tay này vẫn được quảng cáo rầm rộ trên 7 đài truyền hình toàn quốc. Điều tra của cơ quan chức năng cho thấy; công ty STV Shopping đã chi nhiều tỉ đồng để ký hợp đồng quảng cáo trên truyền hình, trong đó hợp đồng cao nhất là 2,4 tỉ đồng, thấp nhất là 600 triệu đồng. Tháng 11/2010, Luật Bảo vệ Người tiêu dùng được Quốc hội thông qua, trong đó quy định rõ bên thứ ba cung cấp thông tin cho người tiêu dùng phải chịu trách nhiệm liên đới về việc cung cấp thông tin không chính xác hoặc không đầy đủ, trừ trường hợp chứng minh được đã thực hiện đầy đủ các biện pháp kiểm chứng thông tin theo quy định. Cùng với đó là Pháp lệnh Quảng cáo, Luật Báo chí và các luật dân sự khác ràng buộc trách nhiệm pháp lý của cơ quan truyền thông đối với việc đăng thông tin quảng cáo sai lệch. Tuy nhiên, sự chồng chéo về quản lý dẫn tới việc khó tách bạch trách nhiệm. Trước kia Bộ Văn hóa - Thông tin quản lý toàn bộ quảng cáo, cả ngoài trời lẫn trên các phương tiện truyền thông. Nhưng từ ngày Bộ Thông tin - Truyền thông được thành lập thì Cục quản lý Báo chí và Xuất bản được chuyển sang bộ này và mang theo cả chức năng quản lý về quảng cáo trên báo chí. Theo thống kê, quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng chiếm tới hơn 80% doanh thu quảng cáo tại Việt Nam. Trên lý thuyết, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch đang giữ chức năng quản lý nhà nước đối với toàn bộ hoạt động quảng cáo nhưng lại không kiểm soát được nội dung quảng cáo trên báo chí. Còn Bộ Thông tin - Truyền thông quản lý báo chí nhưng lại không có chức năng quản lý nhà nước về quảng cáo. 2.Các điều lệ quy định về hoạt động quảng cáo 2.1.Quảng cáo thương mại và kinh doanh dịch vụ quảng cáo thương mại Mục 1: Quyền quảng cáo thương mại Điều 11. Quảng cáo thương mại của thương nhân Việt Nam Cá nhân, pháp nhân, Tổ hợp tác, Hộ gia đình là thương nhân theo quy định của Luật Thương mại được quyền trực tiếp quảng cáo hoạt động sản xuất, kinh doanh, hàng hóa, dịch vụ thương mại do mình sản xuất, kinh doanh, cung ứng hoặc thuê tổ chức kinh doanh dịch vụ quảng cáo thực hiện việc quảng cáo thương mại cho mình. Điều 12. Quảng cáo thương mại của các Doanh nghiệp có Vốn đầu tư nước ngoài Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được quyền trực tiếp quảng cáo hoạt động sản xuất, kinh doanh, hàng hóa, dịch vụ thương mại do mình sản xuất, kinh doanh, cung ứng hoặc thuê tổ chức kinh doanh dịch vụ quảng cáo thực hiện việc quảng cáo thương mại cho mình, phù hợp với Giấy phép đầu tư. Điều 13. Quảng cáo thương mại của Thương nhân nước ngoài tại Việt Nam 1. Thương nhân nước ngoài có Văn phòng đại diện, Chi nhánh được phép hoạt động tại Việt Nam, được trực tiếp quảng cáo hoạt động sản xuất, kinh doanh, hàng hóa, dịch vụ của mình tại Việt Nam hoặc thuê tổ chức kinh doanh dịch vụ quảng cáo thương mại Việt Nam thực hiện theo các quy định của Nghị định này. 2. Thương nhân nước ngoài chưa có Văn phòng đại diện, Chi nhánh được phép hoạt động tại Việt Nam, muốn quảng cáo về hoạt động sản xuất, kinh doanh, hàng hóa, dịch vụ của mình tại Việt Nam, phải thuê tổ chức kinh doanh dịch vụ quảng cáo thương mại Việt Nam thực hiện theo các quy định của Nghị định này. Mục 2: Hàng hóa, dịch vụ quảng cáo sản phẩm quảng cáo thương mại Điều 14. Hàng hóa, dịch vụ thương mại được phép quảng cáo Thương nhân nói tại các Điều 11, 12, 13 Nghị định này được quảng cáo hàng hóa không thuộc diện hàng hóa cấm lưu thông, dịch vụ thương mại cấm thực hiện theo quy định của pháp luật Việt Nam tại thời điểm quảng cáo. Điều 15. Hàng hóa, dịch vụ thương mại cấm quảng cáo Cấm quảng cáo hàng hóa, dịch vụ thương mại sau đây: 1. Hàng hóa cấm lưu thông, dịch vụ thương mại cấm thực hiện theo quy định của pháp luật. 2. Các sản phẩm, hàng hóa chưa được phép lưu thông, dịch vụ thương mại chưa được phép thực hiện theo quy định của pháp luật tại thời điểm quảng cáo. Điều 16. Quảng cáo hàng hóa, dịch vụ thương mại hạn chế kinh doanh Việc quảng cáo hàng hóa, dịch vụ thương mại hạn chế kinh doanh theo quy định của pháp luật phải được Bộ Thương mại chấp thuận. Điều 17. Quảng cáo hàng hóa chưa nhập khẩu, dịch vụ thương mại chưa thực hiện tại Việt Nam Hàng hóa chưa nhập khẩu, dịch vụ thương mại chưa thực hiện tại Việt Nam, muốn được quảng cáo tại Việt Nam phải là hàng hóa, dịch vụ thương mại không thuộc diện hàng hóa, dịch vụ thương mại cấm quảng cáo quy định tại Điều 15 Nghị định này. Điều 18. Yêu cầu về tính trung thực, chính xác trong quảng cáo Quy cách, chất lượng, giá cả, công dụng, kiểu dáng, chủng loại, bao bì, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành của hàng hóa, dịch vụ thương mại được quảng cáo phải đúng với quy cách, chất lượng, giá cả, công dụng, kiểu dáng, chủng loại, bao bì, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành của chính hàng hóa, dịch vụ thương mại được bán, được cung ứng trên thị trường. Điều 19. Quảng cáo có sử dụng Nhãn hiệu hàng hóa, biểu tượng, tên Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ thương mại Nhãn hiệu hàng hóa, biểu tượng, tên cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ thương mại sử dụng trong quảng cáo phải thuộc Quyền sở hữu của người yêu cầu quảng cáo hoặc phải được Chủ sở hữu hợp pháp chấp nhận. Thương nhân có yêu cầu thuê quảng cáo phải chịu trách nhiệm về việc sử dụng nhãn hiệu hàng hóa, biểu tượng, tên cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ thương mại. Điều 20. Sản phẩm quảng cáo thương mại, địa điểm quảng cáo và phương tiện quảng cáo thương mại 1. Việc sử dụng các hình thức, hình ảnh, hành động, âm thanh, tiếng nói, chữ viết, biểu tượng, màu sắc, ánh sáng để quảng cáo cho hàng hóa và dịch vụ thương mại phải tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam. 2. Địa điểm quảng cáo phải tuân thủ quy hoạch về đô thị, xây dựng địa phương và hướng dẫn của cơ quan liên quan; không gây ảnh hưởng xấu đến cảnh quan, môi trường, trật tự an toàn giao thông, an toàn xã hội. 3. Việc sử dụng các Phương tiện quảng cáo thương mại phải tuân thủ các quy định tại Điều 190, 193 Luật Thương mại. Mục 3: Kinh doanh dịch vụ quảng cáo thương mại Điều 21. Quy định đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo thương mại 1. Là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật; 2. Là doanh nghiệp hoạt động độc lập, chuyên kinh doanh dịch vụ quảng cáo thương mại; 3. Không có hoạt động mua bán hàng hóa, trừ việc mua bán các máy móc, thiết bị, vật tư phục vụ cho ngành nghề của doanh nghiệp. Điều 22. Hợp đồng dịch vụ quảng cáo thương mại. Hợp đồng dịch vụ quảng cáo thương mại; quyền và nghĩa vụ của bên thuê quảng cáo và bên làm dịch vụ quảng cáo thương mại được thực hiện theo Điều 195, 196, 197 Luật Thương mại. Mục 4: Quản lý nhà nước đối với hoạt động quảng cáo thương mại kinh doanh dịch vụ quảng cáo thương mại 2.2.Quảng cáo thương mại Mục 1: Nội dung của sản phẩm quảng cáo thương mại Điều 21. Bảo bộ quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động quảng cáo thương mại 1. Việc sử dụng sản phẩm quảng cáo thương mại có chứa đựng những đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ phải được sự đồng ý của chủ sở hữu đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đó. 2. Thương nhân có quyền đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm quảng cáo thương mại theo quy định của pháp luật. Điều 22. Sản phẩm quảng cáo thương mại có nội dung so sánh với hàng giả, hàng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ Thương nhân có quyền so sánh hàng hóa của mình với hàng giả, hàng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ trong sản phẩm quảng cáo thương mại sau khi có xác nhận của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về việc sử dụng hàng giả, hàng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ để so sánh. Điều 23. Bảo vệ trẻ em trong hoạt động quảng cáo thương mại 1. Quảng cáo thương mại đối với hàng hóa là sản phẩm dinh dưỡng dùng cho trẻ em phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật về kinh doanh và sử dụng sản phẩm dinh dưỡng dùng cho trẻ em. 2. Không được lợi dụng sự thiếu hiểu biết và thiếu kinh nghiệm của trẻ em để đưa vào nội dung sản phẩm quảng cáo các thông tin sau đây: a) Làm giảm mềm tin của trẻ em vào gia đình và xã hội; b) Trực tiếp đề nghị, khuyến khích trẻ em yêu cầu cha mẹ hoặc người khác mua hàng hóa, dịch vụ được quảng cáo; c) Thuyết phục trẻ em về việc sử dụng hàng hóa, dịch vụ được quảng cáo sẽ có lợi thế hơn những trẻ em không sử dụng hàng hóa, dịch vụ được quảng cáo, d) Tạo cho trẻ em suy nghĩ, lời nói, hành động trái với đạo đức, thuần phong mỹ tục, gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ, an toàn hoặc sự phát triển bình thường của trẻ em. Điều 24. Quảng cáo thương mại đối với hàng hoá, dịch vụ liên quan đến y tế Quảng cáo thương mại đối với hàng hóa, dịch vụ liên quan đến dược phẩm, văc-xin, sinh phẩm y tế, trang thiết bị, dụng cụ y tế, phương pháp chữa bệnh, thuốc chữa bệnh và thực phẩm chức năng phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật về y tế. Điều 25. Quảng cáo thương mại đối với hàng hóa, dịch vụ liên quan đến thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón, thức ăn chăn nuôi và giống vật nuôi, giống cây trồng Quảng cáo thương mại đối với hàng hoá, dịch vụ liên quan đến thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón, thức ăn chăn nuôi, giống vật nuôi, giống cây trồng phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật có liên quan và không được chứa đựng các nội dung sau: 1. Khẳng định về tính an toàn, tính không độc hại nhưng không có xác nhận của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền. 2. Khẳng định về hiệu quả và tính năng của thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón, thức ăn chăn nuôi và giống vật nuôi, giống cây trồng nhưng không có cơ sở khoa học. 3. Sử dụng tiếng nói, chữ viết hoặc hình ảnh vi phạm quy trình và phương pháp sử dụng an toàn thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật. Điều 26: Quảng cáo thương mại đối với hàng hóa thuộc diện phải áp dụng tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật về chất lượng hàng hóa Ngoài những loại hàng hoá không thuộc diện phải áp dụng tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật về chất lượng hàng hoá, thương nhân chỉ được phép quảng cáo thương mại đối với hàng hóa thuộc diện phải áp dụng tiêu chuẩn quy định kỹ thuật tương ứng sau khi hàng hóa đó được cấp giấy chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn hoặc quy định kỹ thuật của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền hoặc được công bố tiêu chuẩn chất lượng. Mục 2: Trách nhiệm thực hiện quảng cáo thương mại Điều 27. Trách nhiệm đối với nội dung sản phẩm quảng cáo thương mại 1. Thương nhân kinh doanh quảng cáo thương mại phải tự chịu trách nhiệm trước pháp luật nếu nội dung sản phẩm quảng cáo của mình vi phạm các nội dung quảng cáo bị cấm tại Luật Thương mại và các nội dung về sản phẩm quảng cáo được quy định tại Nghị định này; phải chấp hành đúng các quy định về sử dụng phương tiện quảng cáo theo quy định của pháp luật hiện hành. 2. Người đứng đầu cơ quan quản lý các phương tiện thông tin đại chúng, phương tiện truyền tin, báo điện tử và các loại xuất bản phẩm chịu trách nhiệm về sản phẩm quảng cáo thương mại được quảng cáo trên phương tiện quảng cáo mà mình quản lý. 2.3. Khen thưởng và xử lý vi phạm  Điều 32. Khen thưởng Tổ chức, cá nhân có thành tích trong hoạt động quảng cáo thì được khen thưởng theo quy định của pháp luật. Một số giải thưởng: - Giải thưởng Quả Chuông Vàng - giải thưởng quảng cáo, sáng tạo Việt Nam. - Liên hoan Phim Quảng cáo Quốc tế Cannes - lấy cảm hứng từ Liên Hoan Phim Quốc Tế Cannes- là giải thưởng lớn nhất thế giới về tính sáng tạo trong quảng cáo. Vì là giải thưởng quảng cáo quốc tế danh giá bậc nhất trong ngành, đã có trên 22,500 hạng mục tham dự được trình chiếu và đánh giá tại liên hoan này. - “Quảng Cáo Hay Nhất” được trao bởi One Show. One Show là liên hoan phim quảng cáo lớn nhất tại Mỹ tôn vinh những tác phẩm hay nhất trong năm. Ngoài ra còn có nhiều giải thưởng về quảng cáo: - “Quảng cáo được yêu thích nhất”. - “Phim Quảng Cáo Doanh Nghiệp Hay Nhất”. - “Quảng Cáo Thức Uống Hay Nhất”. - “Quảng Cáo Lan Truyền Hay Nhất”.   - Giải cho “Phim Quảng Cáo trên Mạng Hay Nhất”. Giải quảng cáo sáng Tạo Trực Tuyến dành cho “Top Phim Quảng Cáo Truyền Hình của năm”…. Cụ thể: - Audi đoạt giải thưởng hay nhất ARF 2009. - Johnie Walker với mẫu quảng cáo “The man who walked around the world” giành được Huy Chương Vàng tại Liên Hoan Quảng Cáo Cannes; Quảng Cáo Hay Nhất được trao bởi One Show; 3 giải thưởng tại Giải Thưởng Quảng Cáo Truyền Hình Anh ghi nhân những đoạn phim quảng cáo truyền hình hay nhất cho những công ty quảng cáo của Anh; Giải Vàng ANDY cho ‘Phim Quảng Cáo trên Mạng Hay Nhất”; Mẫu Quảng Cáo số 1 tại Sáng Tạo Trực Tuyến dành cho Top Phim Quảng Cáo Truyền Hình của 2009. Ngoài những hình thức khen thưởng trong quảng cáo con có những biện pháp xử phạt đối với các hành vi vi phạm những quy định của chính phủ về quảng cáo. Theo Điều 24, Điều 25, Điều 26, Điều 27 và Điều 28 NĐ 88/CP ngày 14-12-1995 của Chính phủ đã quy định rõ về các hành vi vi phạm hành chính trong ling4 vực quảng cáo về việt, đặt bảng hiệu, hình thức và mức phạt. Điều 24.- Vi phạm các
Luận văn liên quan