Tiểu luận Xung đột văn hóa Đông Tây

Việt Nam trong thế kỷ 20 và 21 là “sân cỏ” của hai yếu tố văn hóa Ðông - Tây trong một tương quan ảnh hưởng phức hợp. Nhưng hiển nhiên, trong tiến trình phát triển này, một trong hai đi sớm hơn, nhanh hơn, mạnh hơn, lắm khi đột kích ào ạt hơn, đưa đến một sự mất quân bình văn hóa hay khập khiễng văn hóa, đến từ sự thu nhận vô tình, vô thức không chọn lựa, yếu tố văn hóa “khác, lạ”, dẫn đến nguy cơ đồng hóa văn hóa nếu trong tương quan hỗ tương giữa hai nền văn hóa không có những tiêu chuẩn thích nghi hay hội nhập phù hợp hầu tạo nên một hòa điệu có ý nghĩa cho con người trong môi trường sống. Văn hoá là tổng hoà của các mối quan hệ, phương thức sản xuất, phương thức tiêu thụ của xã hội. Đây là một lĩnh vực mà đến nay trên thế giới chưa có định nghĩa cụ thể và thống nhất. Nhưng tựu trung văn hoá là tất các những gì tốt đẹp của cuộc sống từ cách ăn, cách mặc, cách giao tiếp, cách hưởng thụ và ngay cả cách sản sinh văn hoá. Trong tiến trình toàn cầu hóa với mức độ thần tốc của truyền thông điện tử, sự tỉnh thức trước nguy cơ đồng hóa văn hóa trở nên thời sự hơn bao giờ. Phản ứng nhấn mạnh ý thức văn hóa bản địa là một trả lời nghịch lý nhưng thực tế đối với tiến trình toàn cầu hóa, không chỉ riêng Việt Nam. Đối với Việt Việt Nam, trong tiến trình hội nhập thế giới, vấn đề “truyền thống và hiện đại” đang đánh động sự chú ý với những sáng kiến kêu gọi trở về nguồn, ý thức bản sắc dân tộc, bảo tồn di sản văn hóa, Xét cho cùng, những chủ trương kêu gọi trở về nguồn không mới lạ, mà đã trở nên một nét “truyền thống” Việt Nam, một phản ứng tất nhiên đến từ bên trong xã hội, mỗi khi nguy cơ bị đồng hóa văn hóa bộc phát tối đa. Lịch sử truyền thống văn hóa Việt Nam là lịch sử của sự tả xung hữu đột Ðông-Tây, Nam-Bắc để nhận diện và khẳng định bản lai văn hóa của dân tộc. Song song với việc tranh đấu giành độc lập ở các thời điểm lịch sử nhất định, trận chiến “tự chủ” văn hóa xảy ra từng giờ từng phút trên từng góc cạnh, lĩnh vực và cả ý tưởng của dân trong một nước khi va chạm với yếu tố ngoại lai, với cái lạ, cái khác. Ở đây văn hoá truyền thống được hiểu là các nét văn hoá được gìn giữ lâu đời của đồng bào các dân tộc trên địa bàn tỉnh còn, văn hoá hiện đại là những nét văn hoá sinh ra từ cuộc sống hiện đại có gắn liền với thời đại công nghiệp. Hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược sự khác nhau đó trong lịch sử ở khía cạnh văn hóa giữa truyền thống và hiện đại.

pdf16 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2378 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Xung đột văn hóa Đông Tây, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 Tiểu luận Xung đột văn hóa Đông Tây 2 Phần mở đầu Việt Nam trong thế kỷ 20 và 21 là “sân cỏ” của hai yếu tố văn hóa Ðông - Tây trong một tương quan ảnh hưởng phức hợp. Nhưng hiển nhiên, trong tiến trình phát triển này, một trong hai đi sớm hơn, nhanh hơn, mạnh hơn, lắm khi đột kích ào ạt hơn, đưa đến một sự mất quân bình văn hóa hay khập khiễng văn hóa, đến từ sự thu nhận vô tình, vô thức không chọn lựa, yếu tố văn hóa “khác, lạ”, dẫn đến nguy cơ đồng hóa văn hóa nếu trong tương quan hỗ tương giữa hai nền văn hóa không có những tiêu chuẩn thích nghi hay hội nhập phù hợp hầu tạo nên một hòa điệu có ý nghĩa cho con người trong môi trường sống. Văn hoá là tổng hoà của các mối quan hệ, phương thức sản xuất, phương thức tiêu thụ… của xã hội. Đây là một lĩnh vực mà đến nay trên thế giới chưa có định nghĩa cụ thể và thống nhất. Nhưng tựu trung văn hoá là tất các những gì tốt đẹp của cuộc sống từ cách ăn, cách mặc, cách giao tiếp, cách hưởng thụ và ngay cả cách sản sinh văn hoá. Trong tiến trình toàn cầu hóa với mức độ thần tốc của truyền thông điện tử, sự tỉnh thức trước nguy cơ đồng hóa văn hóa trở nên thời sự hơn bao giờ. Phản ứng nhấn mạnh ý thức văn hóa bản địa là một trả lời nghịch lý nhưng thực tế đối với tiến trình toàn cầu hóa, không chỉ riêng Việt Nam. Đối với Việt Việt Nam, trong tiến trình hội nhập thế giới, vấn đề “truyền thống và hiện đại” đang đánh động sự chú ý với những sáng kiến kêu gọi trở về nguồn, ý thức bản sắc dân tộc, bảo tồn di sản văn hóa,… Xét cho cùng, những chủ trương kêu gọi trở về nguồn không mới lạ, mà đã trở nên một nét “truyền thống” Việt Nam, một phản ứng tất nhiên đến từ bên trong xã hội, mỗi khi nguy cơ bị đồng hóa văn hóa bộc phát tối đa. Lịch sử truyền thống văn hóa Việt Nam là lịch sử của sự tả xung hữu đột Ðông-Tây, Nam-Bắc để nhận diện và khẳng định bản lai văn hóa của dân tộc. Song song với việc tranh đấu giành độc lập ở các thời điểm lịch sử nhất định, trận chiến “tự chủ” văn hóa xảy ra từng giờ từng phút trên từng góc cạnh, lĩnh vực và cả ý tưởng của dân trong một nước khi va chạm với yếu tố ngoại lai, với cái lạ, cái khác. Ở đây văn hoá truyền thống được hiểu là các nét văn hoá được gìn giữ lâu đời của đồng bào các dân tộc trên địa bàn tỉnh còn, văn hoá hiện đại là những nét văn hoá sinh ra từ cuộc sống hiện đại có gắn liền với thời đại công nghiệp.. Hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược sự khác nhau đó trong lịch sử ở khía cạnh văn hóa giữa truyền thống và hiện đại. II. Một số khái niệm 1.Khái niệm văn hóa Theo UNESCO được thừa nhận rộng rãi: Văn hóa là “tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo của con người đã diễn ra trong quá khứ cũng như đang diễn ra trong hiện tại. Qua hàng thế kỷ các hoạt động sáng tạo ấy đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống thị hiếu thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc khẳng định bản sắc riêng của mình” 2.Văn hóa truyền thống 3 Theo giáo sư Trần Văn Giàu: “Giá trị truyền thống được hiểu là những cái tốt, bởi vì những cái tốt mới được gọi là giá trị. Thậm chí không phải bất cứ cái gì tốt đều được gọi là giá trị; mà phải là cái tốt cơ bản, phổ biến, có nhiều tác dụng tích cực cho đạo đức, cho sự hướng dẫn nhận định, đánh giá và dẫn dắt hành động của một dân tộc thì mới mang đầy đủ ý nghĩa của khái niệm “giá trị truyền thống”. GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm cho rằng: “Truyền thống văn hóa là những giá trị tương đối ổn định (những kinh nghiệm tập thể) thể hiện dưới những khuôn mẫu xã hội được tích lũy và tái tạo trong cộng đồng người qua không gian và được cố định hóa dưới dạng những phong tục tập quán, nghi lễ, luật pháp, dư luận…”. Một khái niệm khác: “Nền văn hóa được truyền lại được gọi là truyền thống văn hóa. Như vậy, nó phản ánh được những thành tựu con người, tích tập được trong quá trình tìm hiểu, thực hiện và truyền bá ý nghĩa sâu lắng nhất của cuộc sống. Đó chính là truyền thống theo nghĩa hài hòa của nó như là một hiện thân của trí tuệ”. Còn theo nhóm hiểu: văn hóa truyền thống là những kinh nghiệm thực tế mang ý nghĩa thiết thực đối với bản sắc và nét đặc trưng riêng của mỗi vùng lãnh thổ, được lưu giữ qua thời gian và thể hiện dưới các mặt của đời sống xã hội. 3.Văn hóa hiện đại. Văn hóa hiện đại được hình thành từ xã hội công nghiệp, khoa học kĩ thuật phát triển, với đặc điểm toàn cầu hóa và ít mang tính riêng biệt đặc trưng cho mỗi vùng, mỗi quốc gia do tác dụng mạnh mẽ của công nghệ thông tin. 4.Xung đột văn hóa. Bởi vì văn hoá là một khái niệm vô cùng rộng, các loại hình “đụng độ” dựa trên văn hoá là rất nhiều và đa dạng. Từ giác độ địa lý, có đụng độ giữa văn hoá phương Đông và phương Tây; từ giác độ lịch sử, có đụng độ giữa văn hoá truyền thống và văn hoá hiện đại; từ giác độ quốc gia, có đụng độ giữa văn hoá ngoại lai và văn hoá bản địa; từ giác độ phát triển xã hội, có đụng độ giữa văn hoá nông nghiệp và văn hoá công nghiệp… Có 2 luồng quan điểm về xung đột văn hóa: a) Xung đột văn hóa thuần túy... Xung đột văn hóa nếu theo cách hiểu này thì nhiều chuyên gia cho rằng sự biểu hiện của nó được phản ánh trên diện rộng,trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Mấu chốt của mâu thuẫn này là do cách nhìn nhận và tiếp thụ khác nhau các giá trị văn hóa của xã hội…và cũng chính vì lý do mặt hại đối với thành phần xã hội này lại là lợi ích của thành phần khác nên mâu thuẫn ắt xảy ra. Xung đột văn hóa khi diễn ra sẽ rất phức tạp do tính đặc thù của nó phụ thuộc vào quan điểm riêng của mỗi người,mỗi dân tộc… 4 b) Xung đột nhìn từ góc độ văn hóa Những người theo quan diểm này nhận định xung đột văn hóa chỉ là một khía cạnh trong vô vàn xung đột,nhưng mọi xung đột lại biểu hiện qua văn hóa,đặc biệt là văn hóa ứng sử… Các nền văn hóa được định hình riêng biệt đặc trưng cho mỗi vùng,nó mặc định sẵn cho mỗi con người tương ứng với mỗi lãnh thổ,nơi sản sinh ra nét văn hóa ấy ,tạo nên những ý thức ,những cách nhìn nhận các vấn đề khác nhau hay nói cách khác nó chỉ ra cho mỗi người,mỗi quốc gia biết đâu là bản sắc riêng của mình. Từ những khác biệt ấy đã tạo ra những chuẩn mực về đời sống khác nhau,chính vì thế ko nên đánh giá vội vàng phiếm diện về một vấn đề nào đó… III Một số ví dụ điển hình Xung đột văn hóa giữa truyền thống và hiện đại thì được biểu hiện ở rất nhiều khía cạnh, nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Ở đây thì nhóm không thể liệt kê được hết tất cả mà nhóm sẽ đưa ra một số ví dụ điển hình và phân tích sâu hơn để thấy sự xung đột đó nó diễn ra như thế nào. Tiêu chí Truyền thống Hiện đại Nhận xét 5 TRANG PHỤC -Đối với phụ nữ: Ở miền Bắc thì người phụ nữ thường mặc áo cánh ngắn bằng vải giấu nâu, cổ tròn, viền nhỏ, tà mở, đa số không cài cúc trước ngực. Ngoài ra, còn phải kể đến áo dài. Ở miền Nam thường mặc đồ đen, áo cánh có cài nút giữa, không có túi. Đó là trang phục trong những ngày lao động hằng ngày, còn trong những ngày lễ hội thì sẽ cầu kỳ hơn. Những cô gái Kinh Bắc thì thường diện bộ cánh mớ ba, còn phụ nữ miền Nam, các cô gái mặc áo bà ba trắng, áo dài các bà các cô thường mặc đến đầu gối, phũ lên chiếc quần lĩnh đen. -Đối với đàn ông thì họ mặc đơn giản hơn người phụ nữ rất nhiều. Đi làm đồng thì họ thường mặc quần lá tọa, còn vào những dịp lễ hội thì ăn mặc chỉnh chu hơn đó là áo dài, thường là áo the. - Ngày nay, trang phục không những để bảo vệ cơ thể mà còn thể hiện đẳng cấp của mỗi người. - Những trang phục ngày nay được cách điệu, thiết kế phù hợp với môi trường sống và làm việc hơn. - Thường người ta hay mặc áo sơmi, hay áo thun, quần tây hoặc quần jean khi đi học và đi làm. Còn vào các dịp đặc biệt thì người ta ăn mặc cầu kì hơn, đối với phụ nữ thì có thể mặc đầm, váy với các chất liệu vải, họa tiết quan trọng. Còn nam giới thì thường mặc vest khi đi những công việc quan trọng hoặc tiệc tùng. - Sự thay đổi trang phục để thích ứng với cuộc sống hiện đại là 1 lẽ tất nhiên, tuy nhiên chỉ phù hợp khi sự thay đổi đó diễn ra theo hướng tích cực và lành mạnh, nhất là thanh niên, nhưng không thể công nhận những hiện tượng may mặc đua đòi, chạy theo “mốt” lố lăng, phô trương, xa hoa, lãng phí,...xa rời truyền thống văn hóa tốt đẹp dân tộc. Nhìn chung, trang phục xưa và nay có sự khác biệt nhau về nhiều khía cạnh. Nét truyền thống vẫn còn giữ đến ngày nay đó là tà áo dài duyên dáng của người phụ nữ, nhưng ngày nay cũng có đôi chút cách điệu cho hợp thời. Với sự du nhập ồ ạt của văn hóa phương Tây, trang phục ngày nay của chúng ta cũng có nhiều thay đổi mà những người khó tính khó lòng chấp nhận được, bên cạnh những trang phục đẹp và phù hợp. Do đó điều quan trọng là người mặc phải biết cách phối hợp hài hòa để không đánh mất những nét đẹp trong trang phục truyền thống mà cũng không bị cho “lỗi thời” với sự phát triển của cuộc sống hiện đại. 6 KIẾN TRÚC Quá trình phát triển nền kiến trúc cổ Việt Nam gắn liền với môi trường thiên nhiên và hoàn cảnh kinh tế - xã hội. Dù là công trình nhỏ bé như kiến trúc dân gian hoặc đồ sộ, phức tạp như kiến trúc cung đình, vật liệu xây dựng sẵn có ở địa phương đã được khai thác và sử dụng phổ biến và rộng khắp: tranh, tre, nứa, lá, gỗ, đá..., sau này còn có các Kiến trúc ngày nay, với đủ các điều kiện về kĩ thuật vật chất đã tạo cho kiến trúc Việt Nam thời hiện đại những nét độc đáo và mới lạ. Vật liệu cũng được sử dụng mạnh dạn, táo bạo như cửa kính, mái kính, thép, mái nhẹ, gỗ ngoài trời, đá… sử dụng phối hợp với nhau tạo nên nét độc đáo cho mỗi công trình. Để so sánh giữa kiến trúc cổ và kiến trúc hiện đại thì thật sự là sự so sánh khập khiểng, do mỗi thời có một nét đặc sắc riêng, vật chất kĩ thuật khác nhau. Ngày nay khi công nghệ phát triển và nhu cầu của con người cao hơn thì các công trình được xây dựng đều đáp 7 vật liệu khác như gạch, ngói, sành, sứ... Hệ thống kết cấu khung cột, kèo và các loại xà đều có quy định thống nhất về kích thước, tương quan về tỷ lệ và qua đó, những nghệ nhân trước đây đã sáng tạo ra một thức kiến trúc riêng biệt trong kiến trúc cổ và dân gian Việt Nam. Những tòa nhà hiện đại ở nước ta hiện nay nhìn chung rất quy mô, tuy nhiên do diện tích đất sử dụng ngày càng thu hẹp nên cách xây dựng các tòa nhà cũng khác hẳn, chủ yếu có dạng dài, hẹp ngang và cao tầng. ứng được cả hai mặt vật chất và tinh thần. ẨM THỰC -Bữa ăn chính của người Việt thường bao gồm một món chủ lực (cơm), một món gia vị (nước chấm) và ba món ăn cơ bản đủ chất và cân bằng âm dương: +Một nồi cơm chung cho cả gia đình (mỗi người một bát và đôi đũa) +Một bát nhỏ đựng nước chấm (nước mắm, tương hoặc xì dầu) cả gia đình dùng chung. +Một món mặn có chất đạm động vật và chất béo được luộc, rán hoặc kho như thịt, cá +Một món rau luộc hoặc xào, hoặc rau thơm, rau sống, dưa muối. +Một món canh có thể đậm đà, cầu kỳ nhưng cũng không hiếm khi chỉ đơn giản là một bát nước luộc rau -Cỗ bàn Cỗ bàn thường sử dụng nhiều món ăn trong đó nhấn mạnh đặc biệt các món mặn dùng nguyên liệu động vật, loại trừ tất Hiện nay, do đời sống được nâng cao hơn, cơ cấu bữa ăn chính của người Việt hiện cũng đã cải thiện đáng kể theo hướng gia tăng các món mặn nhiều dinh dưỡng sử dụng nguyên liệu động vật. Bên cạnh xu hướng một số vùng miền (nhất là những vùng thôn quê) có đặc tính càng nhiều món trên mâm càng tốt, nhiều gia đình thành thị lại chú trọng xu hướng tinh giản bằng cách chỉ nấu một món trọng tâm có đủ chất đạm và các loại rau bày lên mâm, ăn kèm với các loại rau dưa lặt vặt khác. Một số gia đình làm các món ăn đặc biệt nnhân ngày chủ nhật, những món cầu kỳ mà ngày thường ít có thời gian để làm. Bát nước chấm "cộng đồng" nay cũng dần được nhiều gia đình, hoặc các nhà hàng cầu Ấm thực từ truyền thống đến hiện đại đã có những thay đổi khá rõ nét, nhưng nói chung do sự thay đổi của hoàn cảnh và môi trường sống thì sự thay đổi như thế cũng là phù hợp. Tuy nhiên, cũng đừng bị cuốn vào nhịp sống của công nghiệp hóa mà đánh mất đi những nét đẹp của ẩm thực truyền thống, điển hình là bữa ăn sum họp trong gia đình,... 8 cả những món ăn ngày thường như rau luộc, dưa cà v.v. -Cỗ cúng tổ tiên Cúng tổ tiên (ngày giỗ chạp, ngày tết cổ truyền) thường sử dụng xôi đậu xanh, xôi gấc với gà luộc nguyên con hoặc chân giò. Cúng người mới mất chỉ dùng xôi trắng và một quả trứng luộc. -Cỗ Tết Cỗ tết truyền thống rất cầu kỳ, mâm cỗ cơ bản thường là 5 bát: bóng, miến, măng, mọc, chim hoặc gà tần và 5 đĩa: giò, chả, gà hoặc vịt luộc, nộm, xào. kỳ san riêng ra bát cho từng người để hợp vệ sinh hơn, và có nhiều loại nước chấm khác nhau tùy theo trong bữa có loại đồ ăn gì. Điều đó hiện nay phù hợp với văn hóa mới, tính chất công việc và sinh hoạt nhưng phần nào đã làm giảm đi sự gắn bó, than thiết với nhau giữa mỗi người trong gia đình. NGÔN NGỮ - Xét về chữ viết, thời xưa, việc viết chữ được xem là cả một sự nghiệp, họ mở khoa thi và đều là văn cả,…Vd: “tiên học lễ- hậu học văn”, cách cho điểm gắt gao ,… -Chữ viết không dễ bị đồng hóa bởi bên ngoài. Vd: chữ Nôm và chữ quốc ngữ nước ta vẫn có sự rành mạch rõ ràng, không lẫn vào những chữ của ngôn ngữ khác. -Xét về chữ viết ngày nay có sự cải tiến rất nhiều, văn viết trở thành môn học bình thường trong số các môn học khác.Vd: văn, sử, địa, anh văn,…cách cho điểm thoáng hơn,… -Chữ viết dễ bị đồng hóa bởi nhiều văn hóa khác tác động vào, khi ngoại ngữ trở nên phổ biến của thế giới, người Việt mình lạm dụng những từ ngữ tiếng anh vào bài viết với lí do, vừa hoc tiếng anh và vừa viết từ đó để tiết kiệm thời gian hay sự tiếp xúc với tiếng Pháp là một biến động lớn đã xẩy ra, và xảy ra chưa đủ lâu, trong quá trình -Điều này vô hình chung đã làm giảm tính giá trị của văn chương trong góc độ văn hóa, nhưng ta cũng không thể phủ nhận rằng, xã hội hiện đại phát triển, kéo theo nhiều lĩnh vực kiến thức mà ta cần biết, phải có sự hài hòa, đồng đều ở các môn. -Có thể nói, việc giao thoa ngôn ngữ một cách rối ren và mang tính tự phát như vậy càng làm cho văn chương tiếng Việt phai mờ dần đi, do yếu tố thời gian, môi trường du nhập văn 9 - Các dân tộc có quyền sử dụng tiếng mẹ đẻ của mình trong tất cả mọi lĩnh vực đời sống xã hội, trong các phạm vi giao tiếp: từ nội bộ tộc người của mình đến ngoài xã hội, trong giáo dục, trên các phương tiện thông tin đại chúng, trước toà án, trong các giấy tờ hành chính, thư từ cá nhân,… Vd: trẻ em dân tộc thiểu số chỉ biết ngôn ngữ của dân tộc mình,không có tiền để học chữ quốc ngữ nếu muốn biết thì người ta phải tìm hiểu về thứ tiếng đó. - Xét về lời nói, con người luôn cẩn trọng khi nói, do ảnh hưởng của phong kiến, nói có đủ cấu trúc ngữ pháp.Vd:cho tôi xin 2 quyển sách ạ!... phát triển của tiếng Việt.:I can hiểu rằng…thanks bạn nhé!... - Các dân tộc bên cạnh việc dùng tiếng mẹ đẻ trong đời sống, họ còn dùng ngôn ngữ chung, được quy định của nhà nước để thống nhất và ai cũng có thể hiểu được nội dung.Vd: biểu hiện rõ nhất là những trường đại học ngày nay đã xuất hiện không ít các bạn sinh viên ở dân tộc của những vùng miền khác trên đất nước ta:Khmer, Chăm, Hoa,… -Xét về lời nói, con người khi nói không cần câu cú, trả lời ngắn gọn, thậm chí ngắn gọn bằng cách rút ngắn từ ngữ có thể nhất.Vd: choa tui xing 2 wuyển sack ah! ngôn ngữ hiện đại luôn rất ngắn. Ví dụ: wá, wyển ( quá, quyển); wen (quen); wên (quên); iu (yêu); lun (luôn); bùn (buồn); bit k? (biết không?); bít rùi (biết rồi); mí (mấy) ; dc (được); ko,k (không); u (bạn, mày),v.v. Và rất mới như: chuối (dở hơi); hóa phương tây mà tạo nên, từ đó, con người lại thích nghi với cái mới và làm lu mờ nét văn hóa dân tộc. - Tác động này mang một yếu tố tích cực, nhưng bên cạnh đó, một số người vẫn không chấp nhận hiện tượng trên bởi họ sợ ngôn ngữ tổ tiên của họ dần bị thay thế hoàn toàn bởi các thế hệ trẻ sau này. -Những hiện tượng đó có những nguyên nhân khách quan và chủ quan của nó. Về mặt khách quan, đó là những nguyên nhân ngoài ngôn ngữ như: xu hướng đổi mới, sự thay đổi, sự hội nhập, các trào lưu xã hội, sự bùng nổ của Interrnet…và trong ngôn ngữ, đó chính là quy luật tiết kiệm. Đó là quy luật không ai có thể phá vỡ nổi, không có 10 khoai (khó); phở (đẹp đẽ,ngon lành); điên đảo (cực kì);vãi (kinh khủng); hack (siêu); hic (buồn), haha (vui).v.v. đạo luật nghiêm khắc nào có thể ngăn chặn, can thiệp được, dù ghét nó người ta cũng phải nhượng bộ. Còn về mặt chủ quan thì giới tuổi teen muốn tìm sự khác biệt, mới lạ, muốn khẳng định mình trước người lớn, để người lớn phải tôn trọng. Tư duy cần phải tạo nên sự khác biệt đã ăn sâu vào giới trẻ hiện nay. Song, điều này vẫn có tác động tiêu cực, phản cảm đối với dư luận của thế hệ lớn đi trước. LỐI SỐNG – CÁCH ỨNG XỬ -Có một tinh thần nhân văn dân gian Với người Việt cổ truyền, đời sống là đi tìm cái vui trong sinh hoạt bình dị, hài hòa với gia đình và xã hội, Vd:trong ca dao tục ngữ: Vui xuân kẻo hết xuân đi, Cái già sồng sộc nó thì theo sau. Râu tôm nấu với ruột bầu Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon. -Cuộc sống hiện đại, với áp lực công việc dày đặc, bị lôi vào vòng xoáy của cuộc sống, người ta không còn tư tưởng tìm một lối sống thanh nhàn như trước mà thời đại đã khiến họ phải thay đổi theo để tồn tại được.Vd: khi thị trường nước ngoài du nhập vào Việt Nam, buộc con người phải lo tích lũy vốn tiếng anh cho mình mới có thể làm việc được, không có sự ung dung và thú vui nữa. -Chính những yếu tố bên ngoài tác động đến con người chúng ta, khi môi trường sống thay đổi thì con người buộc phải thay đổi, điều đó đồng nghĩa cho việc nét văn hóa giữa xưa và nay có sự khác biệt rõ rệt. 11 - Nhìn chung, con người sống bằng tình cảm, có thể do lối sống cộng đồng từ thời nguyên thủy, đặc biệt là ở phương Đông, con người luôn sống nặng tình cảm.Vd: bán anh em xa, mua láng giềng gần, anh em như thể tay chân,… -Tính dung hợp - hòa hợp - khoan hòa Người Việt rất biết cách hòa hợp với tự nhiên và con người, tính cộng đồng rất cao.Vd: họ ăn cơm chung 1 mâm, dùng chung chén - Cuộc sống và xã hội trở nên hiện đại, cùng với nó là những tệ nạn xảy ra: ma túy, cướp giật, giết người, lừa đảo,…Khiến con người phải cảnh giác và phải tự bảo vệ lấy mình. Trong họ có sự e dè, khép kín trong giao tiếp, thậm chí họ thờ ơ trước hoàn cảnh khó khăn của người khác.Vd: ở TP.HCM là một đô thị hiện đại, có những nạn cướp giật, diễn ra vào ban ngày, ai cũng chứng kiến nhưng không ai hành động cứu giúp cả. Hoặc Biết kiên nhẫn xếp hàng mua vé khi đến sân vận động hay tới rạp chiếu phim, bến xe, ga tàu; biết nhường nhịn người già, trẻ em và phụ nữ mang thai khi đi xe buýt…, những điều tưởng chừng như đơn giản và nhỏ nhặt ấy nhưng không ít bạn trẻ vẫn không làm được hoặc biết nhưng không muốn làm vì sợ ảnh hưởng đến chút lợi ích của bản thân. - Tính cá nhân được đưa lên mức cao và tinh thần tập thể giảm sụt hẳn.Vd: việc ý thức giữ gìn an ninh trật tư, trai gái vẫn tình tứ nơi công cộng như ngoài đường, -Chính những yếu tố của cuộc sống, tác động không nhỏ đễn nhân cách, lối sống và quan niệm của con người dần khác, giảm đi yếu tố nhân văn đ
Luận văn liên quan