Chúng ta bước sang thế kỷ 21- thế kỷ của sự phát triển tột bậc khoa học, công nghệ và thông tin. Mọi thành tựu khoa học được ứng dụng nhanh chóng vào mọi lĩnh vực nhưng nhạy cảm nhất là lĩnh vực kinh tế. Sự cạnh tranh để tồn tại và độc quyền là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp nỗ lực tìm kiếm, phát minh, sáng kiến về máy móc và quản lý.
Trong các hoạt động sản xuất và kinh doanh của các doanh nghiệp hiện nay cùng với quá trình mở cửa, sự cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt, quyết liệt của người tiêu dùng trong và ngoài nước buộc các nhà kinh doanh cũng như các nhà quản lý phải hết sức coi trọng vấn đề tiêu thụ sản phẩm. Chức năng cơ bản của doanh nghiệp sản xuất là sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Sản phẩm là kết qủa cuối cùng của qúa trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng trong toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của một chu kỳ nhưng đây lại là khâu quan trọng nhất vì tiêu thụ sản phẩm giúp cho các doanh nghiệp thu hồi vốn, tìm kiếm lợi nhuận. Khi quá trình tiêu thụ được thực hiện trôi chảy tức là doanh nghiệp đang thực hiện tái sản xuất một cách thường xuyên liên tục nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng có thể làm tốt công tác tiêu thụ sản phẩm. Nếu sản phẩm sản xuất ra không được thị trường thì dần dần doanh nghiệp sẽ đi đến phá sản, đó là điều tất yếu mà không một doanh nghiệp nào muốn. Chính vì vậy các nhà sản xuất kinh doanh không ngừng hoàn thiện việc quản lý công tác tiêu thụ sao cho có thể đứng vững trong sự cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm ? Đó là cả một quá trình nghiên cứu, phân tích, đánh giá tình hình mọi mặt của doanh nghiệp mình. Trên cơ sở đó các nhà doanh nghiệp có thể đưa ra các biện pháp quản lý sáng suốt, linh hoạt, nhậy bén để có hướng đi đúng đắn, phù hợp với tình hình hiện nay. Làm tốt được điều đó có nghĩa là doanh nghiệp đã khẳng định được sự tồn tại và phát triển của mình, ngược lại nếu không có những giải pháp đúng đắn, kịp thời cho công tác tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp sẽ tự đào thải mình ra khỏi thị trường.
Xuất phát từ đó, trong thời gian thực tập tại Công ty Da giầy Hà nội, em đã quan tâm đi sâu nghiên cứu tình hình quản lý về tiêu thụ sản phẩm của Công ty, cùng với những kiến thức đã được học ở nhà trường và sự định hướng nghiên cứu của giáo viên hướng dẫn, em chọn đề tài: “ Tiêu thụ sản phẩm và các phương hướng biện pháp thúc đẩy khả năng tiêu thụ sản phẩm của Công ty Da giầy Hà nội “ nhằm một mặt đối chiếu giữa lý luận với thực tiễn đang diễn ra giúp bản thân đúc kết, củng cố kiến thức. Mặt khác nhằm tham kiến góp phần đẩy mạnh hơn công tác quản lý tiêu thụ sản phẩm trong quá trình tổ chức sản xuất, góp phần đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của Công ty trong cơ chế kinh tế mới.
Bố cục chuyên đề gồm các nội dung sau:
Chương 1: Tiêu thụ sản phẩm và sự cần thiết phải đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm ở các doanh nghiệp.
Chương 2: Tình hình tiêu thụ sản phẩm của Công ty Da giầy Hà nội.
Chương 3: Những phương hướng, biện pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ sản phẩm ở Công ty Da giầy Hà nội.
46 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1968 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiêu thụ sản phẩm và các phương hướng biện pháp thúc đẩy khả năng tiêu thụ sản phẩm của Công ty Da giầy Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Chúng ta bước sang thế kỷ 21- thế kỷ của sự phát triển tột bậc khoa học, công nghệ và thông tin. Mọi thành tựu khoa học được ứng dụng nhanh chóng vào mọi lĩnh vực nhưng nhạy cảm nhất là lĩnh vực kinh tế. Sự cạnh tranh để tồn tại và độc quyền là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp nỗ lực tìm kiếm, phát minh, sáng kiến về máy móc và quản lý.
Trong các hoạt động sản xuất và kinh doanh của các doanh nghiệp hiện nay cùng với quá trình mở cửa, sự cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt, quyết liệt của người tiêu dùng trong và ngoài nước buộc các nhà kinh doanh cũng như các nhà quản lý phải hết sức coi trọng vấn đề tiêu thụ sản phẩm. Chức năng cơ bản của doanh nghiệp sản xuất là sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Sản phẩm là kết qủa cuối cùng của qúa trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng trong toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của một chu kỳ nhưng đây lại là khâu quan trọng nhất vì tiêu thụ sản phẩm giúp cho các doanh nghiệp thu hồi vốn, tìm kiếm lợi nhuận. Khi quá trình tiêu thụ được thực hiện trôi chảy tức là doanh nghiệp đang thực hiện tái sản xuất một cách thường xuyên liên tục nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng có thể làm tốt công tác tiêu thụ sản phẩm. Nếu sản phẩm sản xuất ra không được thị trường thì dần dần doanh nghiệp sẽ đi đến phá sản, đó là điều tất yếu mà không một doanh nghiệp nào muốn. Chính vì vậy các nhà sản xuất kinh doanh không ngừng hoàn thiện việc quản lý công tác tiêu thụ sao cho có thể đứng vững trong sự cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm ? Đó là cả một quá trình nghiên cứu, phân tích, đánh giá tình hình mọi mặt của doanh nghiệp mình. Trên cơ sở đó các nhà doanh nghiệp có thể đưa ra các biện pháp quản lý sáng suốt, linh hoạt, nhậy bén để có hướng đi đúng đắn, phù hợp với tình hình hiện nay. Làm tốt được điều đó có nghĩa là doanh nghiệp đã khẳng định được sự tồn tại và phát triển của mình, ngược lại nếu không có những giải pháp đúng đắn, kịp thời cho công tác tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp sẽ tự đào thải mình ra khỏi thị trường.
Xuất phát từ đó, trong thời gian thực tập tại Công ty Da giầy Hà nội, em đã quan tâm đi sâu nghiên cứu tình hình quản lý về tiêu thụ sản phẩm của Công ty, cùng với những kiến thức đã được học ở nhà trường và sự định hướng nghiên cứu của giáo viên hướng dẫn, em chọn đề tài: “ Tiêu thụ sản phẩm và các phương hướng biện pháp thúc đẩy khả năng tiêu thụ sản phẩm của Công ty Da giầy Hà nội “ nhằm một mặt đối chiếu giữa lý luận với thực tiễn đang diễn ra giúp bản thân đúc kết, củng cố kiến thức. Mặt khác nhằm tham kiến góp phần đẩy mạnh hơn công tác quản lý tiêu thụ sản phẩm trong quá trình tổ chức sản xuất, góp phần đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của Công ty trong cơ chế kinh tế mới.
Bố cục chuyên đề gồm các nội dung sau:
Chương 1: Tiêu thụ sản phẩm và sự cần thiết phải đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm ở các doanh nghiệp.
Chương 2: Tình hình tiêu thụ sản phẩm của Công ty Da giầy Hà nội.
Chương 3: Những phương hướng, biện pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ sản phẩm ở Công ty Da giầy Hà nội.
Chương 1:
Tiêu thụ sản phẩm và sự cần thiết phải đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm ở các doanh nghiệp.
I/ Những vấn đề cơ bản về công tác tiêu thụ sản phẩm ở các doanh nghiệp:
1/ Khái niệm và nội dung của tiêu thụ sản phẩm và doanh thu tiêu thụ sản phẩm:
1.1/ Khái niệm và nội dung của tiêu thụ sản phẩm:
Cùng với việc đa dạng hoá các thành phần kinh tế, ngày càng xuất hiện nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Các doanh nghiệp này cùng sản xuất hàng hoá, cùng tồn tại, cạnh tranh lẫn nhau và bình đẳng trước pháp luật. Vì vậy, để có khả năng cạnh tranh trên thị trường và phát triển thì hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp phải đạt hiệu quả. Do đó, thay cho việc trước đây các doanh nghiệp chỉ lo sản xuất đủ kế hoạch giao nộp cho nhà nước là việc ngày nay các doanh nghiệp không chỉ sản xuất sản phẩm mà còn phải tìm cách tiêu thụ số sản phẩm đó. Đây là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng đối với doanh nghiệp bởi vì nó quyết định sự thành bại của doanh nghiệp.
Tiêu thụ sản phẩm là quá trình đơn vị bán xuất giao hàng hoá, sản phẩm cho đơn vị mua và đơn vị mua thanh toán tiền hàng hoặc chấp nhận việc thanh toán tiền hàng theo giá thoả thuận giữa đơn vị bán và đơn vị mua về số lượng hàng hoá, sản phẩm đã xuất giao.
Đứng trên giác độ luân chuyển vốn thì tiêu thụ sản phẩm là một quá trình chuyển hoá hình thái giá trị của vốn từ hình thái là sản phẩm hàng hoá sang hình thái tiền tệ. Đây cũng là giai đoạn kết thúc quá trình luân chuyển của vốn, làm cho vốn trở lại hình thái ban đầu khi nó bước vào mỗi chu kỳ sản xuất. Thật vậy, quá trình tái sản xuất được bắt đầu từ những đồng vốn mà nhà sản xuất bỏ ra để mua các yếu tố “đầu vào “ của sản xuất như : công cụ lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Lúc này vốn bằng tiền được chuyển hoá thành vốn dưới hình thái vật chất. Vốn dưới hình thái vật chất được đưa vào quá trình sản xuất để tạo ra các sản phẩm. Sản phẩm hàng hoá đã tạo ra được đem đi tiêu thụ. Kết thúc quá trình tiêu thụ thì kết quả là doanh nghiệp thu được tiền về. Lúc này đồng vốn của doanh nghiệp lại từ hình thái vật chất quay trở lại hình thái ban đầu của nó là hình thái tiền tệ. Đến đây một chu kỳ sản xuất kết thúc và vốn tiền tệ lại được sử dụng lặp lại theo đúng chu kỳ mà nó đã trải qua.
Quá trình tái sản xuất đó có thể mô tả qua sơ đồ sau:
TLSX( CCLĐ + ĐTLĐ )
T - H ... sản xuất ... H' -T'
SLĐ tiêu thụ
Như vậy, tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất là một trong những vấn đề rất quan trọng đối với công tác quản lý tài chính của doanh nghiệp. Thực hiện giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá thông qua 2 hành vi: doanh nghiệp cung cấp sản phẩm hàng hoá cho doanh nghiệp khác và được doanh nghiệp đó thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán cho doanh nghiệp.
Khi tiêu thụ được sản phẩm, doanh nghiệp sẽ đạt được số doanh yhu bán hàng hay còn gọi là doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Doanh thu tiêu thụ sản phẩm là các khoản thu nhập có được chủ yếu do tiêu thụ sản phẩm và cung cấp dịch vụ bên ngoài từ các hoạt động sản xuất kinh doanh chính và phủ trong một thời kỳ nhất định (thường là 1 năm).
Đây là một chỉ tiêu rất quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp, bởi vị có doanh thu tiêu thụ sản phẩm thì mới có thể bù đắp được mọi chi phí đã bỏ vào quá trình sản xuất kinh doanh, thu được lợi nhuận và như vậy quá trình tái sản xuất mới được thực hiện thường xuyên, liên tục. Doanh thu tiêu thụ sản phẩm có thể được xác định trong các trường hợp sau:
Trường hợp 1: Doanh nghiệp bán hàng được khách hàng thanh toán ngay. Khi đó lượng hàng hoá xuất giao được xác định ngay là tiêu thụ, đồng thời doanh thu bán hàng và tiền bán hàng cũng được xác định. Trường hợp này doanh thu tiêu thụ sản phẩm và tiền bán hàng trùng nhau về thời điểm thực hiện.
Trường hợp 2: Doanh nghiệp xuất giao hàng hoá đươc khách hàng chấp nhận thanh toán nhưng chưa trả tiền ngay. Lúc này doanh thu tiêu thụ được xác định nhưng tiền bán hàng chưa thu được về.
Trường hợp 3: Doanh nghiệp đã xuất giao đủ hàng cho khách hàng theo số tiền mà khách hàng trả trước. Khi đó tiền ứng trước trở thành tiền thu bán hàng của doanh nghiệp và doanh thu tiêu thụ cũng được xác định ở thời điểm này.
Trường hợp 4: Doanh nghiệp thu được tiền hoặc được chấp nhận thanh toán về số hàng đã gửi bán hoặc giao cho đại lý. Trường hợp này tiền thu bán hàng được xác định nhưng do việc giao hàng và thanh toán cách nhau khá xa nên hay có sự nhầm lẫn trong việc xác định doanh thu tiêu thụ kỳ hạch toán này và kỳ hạch toán khác.
Trường hợp 5: Doanh nghiệp bán hàng với phương thức trả góp thid doanh thu tiêu thụ sản phẩm cũng được xác định ngay nhưng tiền bán hàng chỉ thu được một phần, phần còn lại sẽ được trả dần vào các kỳ sau.
1.2/ Nội dung doanh thu tiêu thụ sản phẩm:
Quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sản xuất là quá trình doanh nghiệp dùng tiền để mua sắm nguyên vật liệu và những yêú tố đầu vào khác cần thiết cho sản xuất, tiến hành sản xuất sản phẩm, tiêu thụ sản phẩm và thu được tiền về là tạo nên doanh thu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Doanh thu tiêu thụ sản phẩm gồm hai nhóm:
- Doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Doanh thu từ các hoạt động khác.
*Doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh: Doanh thu bán hàng là các khoản thu nhập có được chủ yếu do tiêu thụ sản phẩm và cung cấp dịch vụ cho bên ngoài từ các hoạt động sản xuất kinh doanh chính và phụ trong một thời kỳ nhất định ( thường là một năm).
+ Doanh thu bán các sản phẩm hàng hoá thuộc sản xuất kinh doanh chính như doanh thu về bán các thành phẩm, nửa thành phẩm bao gồm cả doanh thu do tiêu thụ sản phẩm sản xuất bằng nguyên liệu của doanh nghiệp và của người đặt hàng, doanh thu về bàn giao khối lượng công trình xây dựng cơ bản đã hoàn thành, công tác thiết kế...
+ Doanh thu về tiêu thụ khác như: cung cấp lao vụ, dịch vụ cho bên ngoài, bán các bản quyền phát minh, sáng chế, tiêu thụ những sản phẩm chế biến từ phế liệu, phế phẩm...Ngoài ra, doanh thu của doanh nghiệp còn bao gồm: các khoản trợ giá theo quy định của nhà nước đối với những sản phẩm hàng hoá được nhà nước trợ giá ( do chính sách kinh tế) như khuyến khích xuất khẩu: mỗi một sản phẩm sẽ được nhà nước trợ giá cho sản phẩm đó nếu bị thua lỗ; giá trị của các sản phẩm hàng hoá được sử dụng để biếu tặng hoặc tiêu dùng trong doanh nghiệp.
* Doanh thu từ hoạt động khác gồm hai loại:
+ Doanh thu từ hoạt động đầu tư tài chính: là các khoản thu từ việc đầu tư tài chính và kinh doanh về vốn đưa lại cho doanh nghiệp. Bao gồm: các khoản thu từ hoạt động góp vốn liên doanh; các khoản thu từ hoạt động đầu tư chứng khoán; các khoản thu về lãi tiền gửi ngân hàng, về tiền lãi do doanh nghiệp cho các đơn vị, tổ chức khác vay vốn...
+ Doanh thu từ các hoạt động bất thường: là những khoản thu mà doanh nghiệp không dự tính trước hoặc có dự tính nhưng ít có khả năng thực hiện và không xảy ra thường xuyên. Bao gồm: các khoản thu từ việc bán vật liệu, tài sản thừa trong sản xuất; thu từ nhượng bán hoặc thanh lý TSCĐ; thu từ các khoản nợ khó đòi mà trước đó đã xoá sổ; thu nhập kinh doanh từ những năm trước( quên chưa vào sổ).
Xuất phát từ những vấn đề trên, việc thực hiện doanh thu của doanh nghiệp một cách kịp thời sẽ thúc đẩy tốc độ chu chuyển vốn, do đó ảnh hưởng lớn đến tình hình tài chính của doanh nghiệp, có thể làm cho doanh nghiệp hoặc phát triển mạnh lên hoặc khiến doanh nghiệp không đủ sức cạnh tranh trên thị trường và đi dần đến sự phá sản.
2/ Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác tiêu thụ sản phẩm và doanh thu tiêu thụ sản phẩm:
Việc tiêu thụ sản phẩm và có doanh thu tiêu thụ của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của một số nhân tố chủ yếu đó là: đặc điểm sản xuất kinh doanh của từng ngành nghề, khối lượng sản phẩm sản xuất đưa ra tiêu thụ, kết cấu sản phẩm hàng hoá đưa ra tiêu thụ, chất lượng sản phẩm hàng hoá sản xuất, giá bán sản phẩm, công tác tổ chức bán hàng và thị trường tiêu thụ sản phẩm.
2.1/ Đặc điểm sản xuất kinh doanh của từng ngành nghề:
Do đặc điểm sản xuất kinh doanh của từng ngành có khác nhau nên việc tiêu thụ sản phẩm có những đặc trưng riêng, do đó doanh thu cũng phụ thuộc vào đặc điểm sản xuất. Trong ngành công nghiệp, do sản phẩm sản xuất đa dạng, nhất là những sản phẩm tiêu dùng, dựa trên trình độ kỹ thuật cao, việc sản xuất ít bị lệ thuộc vào thiên nhiên và thời vụ, sản phẩm tiêu thụ nhanh do đó tiền thu bán hàng cũng nhanh hơn và thường xuyên hơn. Trong ngành nông nghiệp, sản xuất lại phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên và sản xuất mang tính thời vụ cho nên việc tiêu thụ sản phẩm cũng theo thời vụ tập trung chủ yếu vào mùa thu hoạch. Do đó doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong năm của doanh nghiệp thường tập trung vào vụ thu hoạch còn ngành xây dựng cơ bản thì khác biệt rõ rệt so với hai ngành trên. Đó là sản xuất đơn chiếc theo đơn đặt hàng, thời gian thi công kéo dài, nên việc tiêu thụ cũng chỉ là những sản phẩm cá thể, tuỳ thuộc vào từng công trình cụ thể. Do đó, doanh thu cũng phụ thuộc vào thời gian và tiến độ hoàn thành công việc.
2.2/ Khối lượng sản phẩm sản xuất và đưa ra tiêu thụ:
Khối lượng sản phẩm sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng sản phẩm tiêu thụ. Khối lượng sản phẩm đưa ra tiêu thụ cũng là nhân tố ảnh hưởng tới quá trình tiêu thụ. Nếu khối lượng sản phẩm đưa ra càng nhiều thì khả năng về doanh thu càng lớn, với điều kiện khối lượng sản phẩm đó phải phù hợp với nhu cầu thị trường. Trong trường hợp khối lượng sản phẩm đưa ra quá lớn, vượt quá nhu cầu thị trường, thì cho dù sản phẩm có hấp dẫn người tiêu dùng, giá cả có hợp lý, nhưng sức mua lại có hạn nên việc tiêu thụ cũng bị hạn chế. Còn nếu doanh nghiệp đưa ra thị trường khối lượng sản phẩm nhỏ hơn nhu cầu thị trường thì doanh thu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp bị giảm đi, ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Mặt khác, do không đáp ứng đủ nhu cầu nên sẽ dẫn đến việc có những khách hàng của doanh nghiệp sẽ tìm đến với doanh nghiệp khác có cùng loại sản phẩm. Như vậy, doanh nghiệp sẽ mất đi một bộ phận khách hàng tức là doanh nghiệp đã kàm giảm thị phần của mình trong điều kiện việc tìm kiếm thị phần là vô cùng khó khăn. Chính vì vậy, trong công tác tiêu thụ sản phẩm các nhà quản lý doanh nghiệp cần nghiên cứu thị trường một cách kỹ lưỡng để đánh giá chính xác nhu cầu và năng lực sản xuất của mình nhằm chuẩn bị một khối lượng sản phẩm hợp lý để đưa ra tiêu thụ trên thị trường.
2.3/ Kết cấu sản phẩm hàng hoá đưa ra tiêu thụ:
Trong sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp muốn đạt được hiệu quả kinh tế cao thì luôn phải đổi mới và đưa ra thị trường nhiều loại sản phẩm khác nhau, giá cả của chúng cũng khác nhau. Trong mỗi loại sản phẩm đó lại phải đưa ra nhiều chủng loại, kích cỡ, mầu sắc, phẩm cấp, mẫu mã khác nhau để đáp ứng mọi nhu cầu cao thấp khác nhau cua người tiêu dùng. Khi đưa sản phẩm ra tiêu thụ không phải mặt hàng nào cũng như nhau mà có mặt hàng tiêu thụ được nhiều do phù hợp với nhu cầu tiêu dùng, giá cao, chất lượng thấp, tiêu thụ không đúng thị trường...Thêm vào đó, khi sản xuất có thể có những mặt hàng chỉ phải bỏ ra chi phí tương đói thấp nhưng giá bán lại tương đối cao, song cũng có những mặt hàng chi phí sản xuất tương đối nhiều mà giá bán lại thấp. Đôi khi không tránh khỏi mặt hàng có chất lượng cao nhưng không còn được ưa chuộng, trong khi có những mặt hàng chất lượng vừa phải, giá bán cao nhưng tiêu thụ vẫn mạnh vì nó còn phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Do đó, việc thay đổi kết cấu mặt hàng sản xuất cũng ảnh hưởng nhiều đến doanh thu. Tuy nhiên, ta cũng thấy rằng, mỗi loại sản phẩm đều có tác dụng nhất định trong việc thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng, cho nên doanh nghiệp cũng không thể tự thay đổi kết cấu sản phẩm sản xuất đưa ra tiêu thụ được. Vì vậy, việc nắm vững nhu cầu thị trường đối với mỗi doanh nghiệp là một việc hết sức cần thiết, nó làm căn cứ để đưa ra kết cấu sản phẩm hợp lý nhằm đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm nếu không hàng hoá sẽ bị ế ẩm, tồn đọng. Bên cạnh đó, doanh nghiệp phải không ngừng nghiên cứu tìm tòi, cho ra đời những sản phẩm mới ưu việt hơn, thay thế cho những sản phẩm đã bị lỗi thời để đối phó với sự biến động của thị trường.
2.4/ Chất lượng sản phẩm hàng hoá sản xuất:
Chất lượng sản phẩm là một trong những yếu tố vô cùng quan trọng trong cạnh tranh. Việc sản xuất gắn liền với việc đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm được nâng cao không những có ảnh hưởng tới giá bán sản phẩm mà còn ảnh hưởng tới khối lượng tiêu thụ, do đó nó ảnh hưởng trực tiếp tới doanh thu. Có thể nói chất lượng sản phẩm là một vũ khí cạnh tranh sắc bén có thể đè bẹp các đối thủ trên thị trường. Chính vì vậy, các doanh nghiệp muốn quảng cáo cho sản phẩm của mình thì luôn phải đưa quảng cáo về chất lượng lên hàng đầu.
Chất lượng sản phẩm tốt không chỉ thu hút khách hàng, làm tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ mà còn tạo điều kiện cho doanh nghiệp nâng cao giá bán sản phẩm một cách hợp lý mà vẫn tiêu thụ được. Nếu tiêu thụ được dễ dàng thì doanh nghiệp sẽ nhanh chóng thu được tiền bán hàng. Ngược lại, nếu chất lượng sản phẩm kém thì việc tiêu thụ sẽ gặp khó khăn, cả khi giá bán rẻ vẫn không được người tiêu dùng chấp nhận.
Nâng cao chất lượng sản phẩm có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo uy tín của doanh nghiệp với khách hàng. nó là sợi dây vô hình thắt chặt khách hàng với doanh nghiệp và tạo điều kiện cho tiêu thụ sản phẩm dễ dàng, nhanh chóng và thuận lợi, làm tăng doanh thu cho doanh nghiệp.
2.5/ Giá bán sản phẩm:
Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá và giá cả xoay quanh giá trị, giá cả sản phẩm tác động rất lớn tới quá trình tiêu thụ sản phẩm. Với cơ chế thị trường hiện nay, giá cả được hình thành tự phát trên thị trường theo sự thoả thuận giữa người mua và người bán,do đó doanh nghiệp hoàn toàn có thể sử dụng giá cả như một công cụ sắc bén để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm. Khi doanh nghiệp đưa ra một mức giá bán phù hợp với chất lượng sản phẩm sẽ được đông đảo người tiêu dùng chấp nhận, doanh nghiệp sẽ dễ dàng tiêu thụ sản phẩm của mình. Còn nếu khi giá quá cao thì người tiêu dùng sẽ không chấp nhận, lúc đó sản phẩm của doanh nghiệp không tiêu thụ được sẽ bị ứ đọng. Một cách làm khác cho doanh nghiệp là doanh nghiệp có thể dùng giá bán để cạnh tranh với các doanh nghiệp khác bằng cách nghiên cưú phương pháp làm cho giá bán sản phẩm của mình hạ hơn so với sản phẩm cùng loại của doanh nghiệp khác. Làm như vậy, doanh nghiệp có thể thu hút được khách hàng của các đối thủ cạnh tranh và có thể thành công trên thị trường.
Đối với thị trường nông thôn, miền núi, nơi có thu nhập thấp kà những thị trường sức mua có hạn. Do việc tiêu thụ sản phẩm ở mức độ thấp nên giá cả có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Với mức giá thấp hơn có thể tạo ra sức tiêu thụ lớn hơn và ngược lại, giá cao hơn một chút là có thể làm giảm sức tiêu thụ đi rất nhiều, thậm chí không tiêu thụ được.
Tóm lại, các quyết định về giá bán sản phẩm sản xuất ra của doanh nghiệp ngoài một số loại sản phẩm có tính chất chiến lược được nhà nước bảo hộ và định giá, còn lại hoàn toàn phụ thuộc vào cơ chế thị trường và quan hệ cung cầu. Doanh nghiệp phải tự tính toán, cân nhắc và định đoạt sao cho giá bán của sản phẩm phải bù đắp được phần tư liệu, vật chất đưa vào sản xuất, trả lương hay tiền công cho người lao động và có lợi nhuận để thực hiện tái sản xuất giản đơn và mở rộng.
2.6/ Công tác tổ chức bán hàng của doanh nghiệp: Bao gồm nhiều mặt:
*Về hình thức bán hàng: Một doanh nghiệp nếu áp dụng tổng hợp các hình thức bán hàng như bán buôn, bán lẻ, bán hàng tại kho của doanh nghiệp, tại kho của khách hàng, bán tại cửa hàng...tất nhiên sẽ tiêu thụ được nhiều sản phẩm hơn một doanh nghiệp khác chỉ áp dụng một hình thức bán hàng.
Để mở rộng và chiếm lĩnh thị trường, các doanh nghiệp còn có thể tổ chức mạng lưới các đại lý phân phối sản phẩm. Khi các đại lý này được mở rộng và hoạt động có hiệu quả sẽ nâng cao doanh thu cho doanh nghiệp và tăng thị phần của doanh nghiệp. Ngược lại, khi các đại lý hoạt động kém hiệu quả sẽ dẫn tới việc giảm sút doanh thu tiêu thụ sản phẩm.
* Về mặt tổ chức thanh toán: Doanh nghiệp có thể áp dụng nhiều phương thức thanh toán khác nhau như: thanh toán bằng tiền mặt, chuyển khoản, thanh toán hàng đổi hàng, thanh toán ngay...Với các hình thức thanh toán đa dạng đó sẽ làm cho khách hàng cảm thấy thoải mái và có thể lựa chọn cho mình phương thức thanh toán thuận lợi nhất do đó có thể thu hút được đông đảo khách hàng đến với doanh nghiệp, khi đó sản phẩm của doanh nghiệp sẽ tiêu thụ được nhiều hơn. Nếu doanh nghiệp chỉ áp dụng một phương thức thanh toán nào đó thì sẽ dẫn đến khả năng phương thức đó chỉ phù hợp với khách hàng này nhưng lại không phù hợp với khách hàng khác.
Mặt khác, nếu doanh nghiệp có những hình thức khuyến khích khách hàng thanh toán nhanh, thanh toán ngay bằng việc chiết khấu bán hàng thì cũng sẽ thu hút được khách hàng nhiều hơn, đẩy mạnh được tốc độ tiêu thụ sản phẩm và đó chính là đòn bẩy kích thích việc tiêu thụ sản phẩm.
* Về các dịch vụ kèm t