Tìm hiểu về Kem đánh răng - Dầu gội đầu

“Một thương tóc bỏ đuôi gà Hai thương ăn nói mặn mà có duyên Ba thương má lúm đồng tiền Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua”. Trong số mười cái dễ thương của các bà, các cô, mái tóc được xếp hàng đầu, hàm răng đen chiếm hạng tư. Điều đó đủ nói lên rằng xã hội Việt Nam ngày xưa rất trọng tóc và răng, kể cả tóc và răng của các ông. Lịch sử mái tóc, hàm răng của dân ta cũng đã trải qua nhiều cuộc thăng trầm, đổi thay như vận nước. Nhưng các sách chỉ ghi chép một cách tổng quát. Đại khái chúng ta được biết: Về thời Hùng Vương, ai cũng xăm mình. Ai cũng búi tó hoặc cắt tóc ngắn (nhưng cũng có người bỏ xoã tóc hoặc tết đuôi xam). Ai cũng thích đeo hoa tai và nhiều vòng tay. Người ta nhuộm răng, ăn trầu. (Uỷ ban Khoa Học Việt Nam, Lịch sử Việt Nam, tập 1, Khoa Học Xã Hội, 1971, tr. 48). Sở dĩ nói rằng đến gần cuối đời nhà Lê là bởi vì năm 1789, trước lúc xuất quân dẹp giặc Thanh, Nguyễn Huệ đã tuyên bố: “Đánh cho để dài tóc Đánh cho để đen răng Đánh cho nó chích luân bất phản Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ ” (Lịch sử Việt Nam, sđd, tr. 353). Và như quan niệm về “Cái răng cái tóc là vóc con người”, chắc hẳn chúng ta ngày càng phải quan tâm nhiều đến hàm răng, mái tóc hơn. Chính vì lẽ đó, việc chăm sóc hàm răng, mái tóc là nhu cầu của mọi người mọi nhà. Tuy nhiên, không phải ai cũng chăm sóc đúng hay hiểu biết các sản phẩm chăm sóc đó là: Kem đánh răng & dầu gội đầu về thành phần cũng nhu các thành phần nên tránh trong mỹ phẩm trên. Từ những lý do trên, nhóm 1 đã tìm hiểu và trình bày những gì mình biết về những vấn đề trên. Trong quá trình thực hiện và trình bày không tránh khỏi những sai sót, rất mong sự thông cảm của cô và các bạn, nhóm 1 xin chân thành cảm ơn!

doc41 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3526 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tìm hiểu về Kem đánh răng - Dầu gội đầu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Mục lục 1 Lời mở đầu 2 Dầu gội đầu 3 Lịch sử hình thành dầu gội đầu 3 Tóc và các vấn đề của chúng 3 Những vấn đề gặp phải 4 Các thành phần và chức năng của dầu gội đầu 6 Một số chất hoạt động bề mặt chính 9 Chất điều hòa 10 Chất chống gàu 11 Chất làm đục và óng ánh xà cừ 13 Chất làm sệt/điều chỉnh độ nhờn 13 Chất ổn định bọt 14 Các chất vitamin 14 Chất bảo quản/chất chống oxi hóa 14 Các chất màu và hương liệu 15 Các chất gây hại 16 Ví dụ các đơn 17 Dầu xả 23 Nguyên tắc lập đơn 23 Các công thức mẫu 24 Kem đánh răng 26 Lịch sử hình thành 26 Khái niệm đại cương về cấu trúc miệng 27 Những vấn đề chính của răng 27 Các thành phần chính và chức năng của chúng 29 Nước 29 Các chất tẩy rửa 30 Các chất mài mòn 30 Các chất làm sệt 31 Các tác nhân làm dịu 32 Các chất làm đục 32 Các loại màu 32 Các chất ổn định và điều chỉnh pH 32 Các hương vị 33 Chất bảo quản 34 Các công thức mẫu 38 Kết luận 41 Lời nói đầu “Một thương tóc bỏ đuôi gà Hai thương ăn nói mặn mà có duyên Ba thương má lúm đồng tiền Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua”. Trong số mười cái dễ thương của các bà, các cô, mái tóc được xếp hàng đầu, hàm răng đen chiếm hạng tư. Điều đó đủ nói lên rằng xã hội Việt Nam ngày xưa rất trọng tóc và răng, kể cả tóc và răng của các ông. Lịch sử mái tóc, hàm răng của dân ta cũng đã trải qua nhiều cuộc thăng trầm, đổi thay như vận nước. Nhưng các sách chỉ ghi chép một cách tổng quát. Đại khái chúng ta được biết: Về thời Hùng Vương, ai cũng xăm mình. Ai cũng búi tó hoặc cắt tóc ngắn (nhưng cũng có người bỏ xoã tóc hoặc tết đuôi xam). Ai cũng thích đeo hoa tai và nhiều vòng tay. Người ta nhuộm răng, ăn trầu. (Uỷ ban Khoa Học Việt Nam, Lịch sử Việt Nam, tập 1, Khoa Học Xã Hội, 1971, tr. 48). Sở dĩ nói rằng đến gần cuối đời nhà Lê là bởi vì năm 1789, trước lúc xuất quân dẹp giặc Thanh, Nguyễn Huệ đã tuyên bố: “Đánh cho để dài tóc Đánh cho để đen răng Đánh cho nó chích luân bất phản Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ…” (Lịch sử Việt Nam, sđd, tr. 353). Và như quan niệm về “Cái răng cái tóc là vóc con người”, chắc hẳn chúng ta ngày càng phải quan tâm nhiều đến hàm răng, mái tóc hơn. Chính vì lẽ đó, việc chăm sóc hàm răng, mái tóc là nhu cầu của mọi người mọi nhà. Tuy nhiên, không phải ai cũng chăm sóc đúng hay hiểu biết các sản phẩm chăm sóc đó là: Kem đánh răng & dầu gội đầu về thành phần cũng nhu các thành phần nên tránh trong mỹ phẩm trên. Từ những lý do trên, nhóm 1 đã tìm hiểu và trình bày những gì mình biết về những vấn đề trên. Trong quá trình thực hiện và trình bày không tránh khỏi những sai sót, rất mong sự thông cảm của cô và các bạn, nhóm 1 xin chân thành cảm ơn! Dầu gội dầu Lịch sử hình thành dầu gội đầu Dầu gội đầu từ trong tiếng Anh có nguồn gốc từ Tiếng Hin-ddi chāmpo. Dean Mahomed giới thiệu các thực hành để phòng tắm hơi Basil Cochrane trong khi làm việc ở đó tại London vào đầu thế kỷ 19. Khi đó, xà phòng thông thường đã được sử dụng trong việc gội đầu. Tuy nhiên, xà phòng đã làm cho tóc bị khô và dễ rụng. Trong giai đoạn đầu của dầu gội đầu, xà phòng tạo mẫu tóc Anh cạo đun sôi trong nước và bổ sung các loại thảo mộc để cung cấp cho tóc và hương thơm. Kasey Hebert là người đầu tiên được biết đến nhà sản xuất dầu gội đầu. Ban đầu, xà phòng và dầu gội đầu là sản phẩm rất giống nhau, cả hai có chứa tự nhiên có nguồn gốc từ cùng một chất hoạt động bề mặt (một loại chất tẩy rửa). Dầu gội đầu hiện đại như ngày nay được biết đến lần đầu tiên được giới thiệu trong những năm 1930 bởi Drene, dầu gội đầu tiên có chất hoạt động bề mặt tổng hợp. Dưới đây là bảng số liệu thể hiện mức sử dụng dầu gội đầu trên thế giới từ 1991 đến 1996: Trước khi đi vào chi tiết của chính các sản phẩm, điều cần thiết là chúng ta phải nhắc lại cách vắn tắt một vài tín chất chung về tóc và các vấn đề do việc chăm sóc tóc đặt ra. Tóc và các vấn đề của chúng Mục đích của dầu gội đầu là làm sạch ra. Tóc mọc từ một lõm dưới da đầu gọi là nang tóc. Tóc gồm hai phần: Nang tóc (dưới dạng củ hành), phần dưới loe ra, bao bọc chân tóc với rất nhiều huyết quản. Thân tóc bao gồm ba lớp đồng tâm, từ trung tâm ra vòng ngoài , người ta phân biệt: Tủy Cortex hay vỏ là thành phần chính của tóc Biểu bì ngoài, hợp thành bởi keratin. Chất này là một scleroprotein cấu thành bởi một số lớn các amin – axit, mà chất chủ yếu là cystin. Những tế bào thuộc một phần ba bên dưới của nang tóc sản sinh ra keratin. Ba lớp này được bao quanh bởi hai lớp bao và một chất không định hình, một màng như thủy tinh. Mỗi sợi tóc đều trải qua ba giai đoạn: Giai đoạn anagen là một thời kỳ biến tăng trưởng mà thời gian trung bình là 3 năm. Giai đoạn catagen là một thời kỳ chuyển tiếp kéo dài khoảng 3 tuần. Trong giai đoạn này nang không hoạt động. Giai đoạn telogen là một giai đoạn ngừng nghỉ. Tóc chết rụng xuống, bị đẩy ra bởi một sợi tóc nhỏ mới, ở giai đoạn anagen, thay thế vị trí của nó. Sợi tóc mọc chừng 0,35 mm mỗi ngày. Nó mọc vào mùa hè nhanh hơn mùa đông, ban đêm hơn ban ngày và tóc nữ giới mọc nhan hơn nam giới. Mỗi cá nhân có khoảng 100000 đến 150000 sợi tóc. 85% tóc đều thuộc giai đoạn anagen ở người trẻ, trong khi số tóc thuộc giai đoạn telogen gia tăng theo tuổi tác. Mỗi ngày tóc rụng từ 50 đến 100 sợi thuộc giai đoạn telogen được xem là bình thường. Toàn bộ bề mặt của tóc ở phụ nữ, từ 4 đến 8 m2. Như thế, chính bề mặt này cần phải gội sạch, trong khi vẫn để ý đến sợi tóc có thể có một độ xốp ít nhiều quan trọng tùy theo tóc phơi ra nắng, thời tiết hay do vài tác nhân hóa học. Những vấn đề mà tóc gặp phải Nếu người ta quan sát một sợi tóc dài, suốt chiều dài của tóc có thể phân biệt được 4 loại trạng thái: Gần chân tóc, tóc còn mới, vậy ở trong điều kiện tốt , các biểu bì đều đặn và bao phủ hoàn toàn lớp vỏ cortex. Cách chân tóc 5cm, tóc đã già hơn, đã chịu những sự tấn công về mặt cơ học (lược, bàn chải, lau khô bằng khăn tắm…), các cạnh biểu bì bị hư hại và gãy. Về phía đuôi của sợi tóc, đa số biểu bì không còn nữa (vì những sự tấn công về mặt cơ học và hóa học, các v.v…), vỏ cortex bây giờ bị phơi ra. Đoạn cuối của sợi tóc bị chẻ ra thành nhiều phần nhỏ: toàn bộ biểu bì bị mất đi, vỏ cortex hoàn toàn bị phơi trần, do đó dễ bị gãy. Các giải thích về tính dễ gãy của sợi tóc phải được bổ sung bởi hai điểm then chốt khác dạng nhập cuộc: đó là các vết bẩn và gàu. Các chất bẩn của tóc Các chất bẩn của tóc đa dạng và có nhiều nguồn gốc khác nhau. Chất nhờn và các chất dầu tạo nên phần chủ yếu. Sơ đồ hình 9.8 làm nổi bật sự hiện diện của tuyến chất nhờn và trong nang. Sự tiết ra chất nhờn này thay đổi theo độ tuổi: yếu trong thời gian tuổi thơ, tăng ở tuổi thiếu niên, và đạt mức tối đa vào tuổi trưởng thành. Sau đó, sự tiết chất nhờn này lại giảm theo năm tháng. Người ta cũng tìm thấy các mảnh keratin xuất phát tử đóng vảy ở da đầu, các chất protein, các chất thành phần hữu cơ hay khoáng chất trong mồ hôi, các lớp bụi bám xuống do không khí xung quanh, những sản phẩm dùng để chải tóc hay chăm sóc tóc còn lưu lại (các “gel”, chất xịt tóc, kem làm bóng tóc,…). Và chính chất nhờn đã giữ lại các lớp bụi bẩn và các mảnh vụn từ bất cứ nguồn gốc nào. Nó tạo nên yếu tố quyết định tiến trình gội rửa. Các lipid của tóc tạo nên một hỗn hợp rất phức tạp biến đổi theo độ tuổi, giới tính, cách ăn uống và các mùa. Các lipid này có thể chịu những sự biến đổi về mặt hóa học như thủy phân và oxyt hóa. Những biến đổi này có thể thay đổi những đặc tính vật lý của chúng, chẳng hạn độ đặc và tính phân cực của chúng. Chúng là những yếu tố quan trọng giúp chúng cản trở việc gội rửa. Lưu ý: chứng da nhờn (được các chuyên viên khoa da sử dụng) chỉ rõ sự tiết quá nhiều của các tuyến chất nhờn. Chứng này ở da đầu và ít nhiều có trách nhiệm đối với tóc nhờn. Hậu quả thẩm mỹ thật đáng tiếc: Tóc nhuốm dầu rất nhanh chóng Tóc nhiều dầu rất chóng bẩn vì bụi bẩn kết tụ Các kiểu làm tóc không được bền lâu Hiện tượng peroxit hóa chất nhờn làm phát sinh các mùi khó chịu Gàu Các tế bào ở bề mặt của lớp sừng bị hủy hoại và làm phát sinh nhiều mảnh keratin nhỏ hay các vảy da li ti là điều bình thường. Nhưng nếu chứng sùi da trở nên bất bình thường, biểu bì sẽ tạo nên gàu thật sự. Đó là các loại vảy màu xám hay nâu nhạt tản mát trong bộ tóc và rơi xuống các cổ áo. Các gàu này có thể gội sạch cách đơn giản giản nhưng chúng tái diễn một cách mau lẹ. Người ta gọi chúng là gàu khô. Gàu liên quan đến tuổi tác: chúng xuất hiện ở lứa tuổi dậy thì, gia tăng cho đến 20-25 tuổi, rồi giảm xuống. Chúng quan trọng vào mùa đông hơn mùa hè và từ 10-15% dân số (nam và nữ) đều gặp vấn đề này. Các nguyên nhân gây nên gàu chưa được làm sáng tỏ hoàn toàn. Ngày nay người ta đưa ra hai giả thuyết: Sự mỏng manh của lớp sừng gây ra chứng sùi da không bình thường. Nói cách khác, lớp bề mặt của da được thay mới quá nhanh làm mất nhiều tế bào hơn: cái gì xảy ra là gàu. Sự tăng nhanh không bình thường của các vi khuẩn hay nấm: da dầu thu nhận rất nhiều vi khuẩn từ ngoài môi trường xung quanh. Các vi khuẩn thuộc ba nhóm: các vi khuẩn ưa khí, các vi khuẩn kỵ khí, và nhất là nấm men. Da dầu, dày đặc các tuyến tiết nhiều chất nhờn, tạo nên một môi trường lý tưởng để các vi sinh vật tăng trưởng. Nhưng các điều kiện đặc biệt này dường như chỉ thích hợp cho povale, bởi vì loại men nấm này chiếm 75% vì thực vật ở những người nhiều gàu so với 45% trên da đầu bình thường. Các chất thành phần và chức năng của dầu gội đầu: Vai trò chính của dầu gội đầu là gội sạch tóc, nghĩa là tẩy hết các bụi bẩn do bụi bặm, dầu và các tế bào đã chết mà chúng ta đã nói đến trên đây. Hơn nữa, dầu gội đầu phải hội đủ một số các thuộc tính để có thể cạnh tranh đặc biệt: Dễ dàng hòa tan bất chấp độ cứng hay mềm và không hình thành các chất kết tủa. Gội sạch hữu hiệu (dù bất cứ độ cứng nào) mà không làm bớt chất dầu (như thế chất hoạt động bề mặt phải có một hiệu quả tạo nhũ tương và hiệu quả tẩm ướt tốt). Để cho tóc mềm mại, mượt mà dễ dàng chải chuốt, ít tĩnh điện hơn. Tạo bọt ngay và nhiều khi bôi dầu, (đó là yêu cầu của người tiêu dùng!). Trái lại, bọt này phải tiêu tan nhanh chóng khi xả và không làm cay mắt (cho dù giây lát) khi mắt chạm phải. Tạo một hiệu năng tối đa với các độ ph trung tính hay kiềm nhẹ. Có hương thơm dịu. Không ăn da tay người tiêu dùng. Không làm ngứa ngáy da đầu. Trông đẹp mắt (màu, óng ánh và độ nhờn tốt). Giá cả phải chăng. Trong vài trường hợp đặc biệt, dầu gội đầu còn phải giải quyết vài vấn đề được nêu trên đây (dầu gội đầu dùng để chữa bệnh: chống gàu). Nhằm đáp ứng các yêu cầu khẩn thiết khác nhau này, người ta phải chọn lựa gắt gao các nguyên liệu được sử dụng, mà chúng ta sẽ triển khai trong các trang sau đây: Các chất hoạt động bề mặt Ưu điểm Các chất anionic Không đắt lắm, ít nguy hiểm đối với mắt Các loại xà bông: Vô cơ (Na, K) Không lấy đi quá nhiều chất dầu mỡ. Hữu cơ (alkanolamin) để tóc mềm mại và dễ dàng chải chuốt (trong nước mềm: tẩy giặt tốt và tạo bọt tốt). Khuyết điểm Độ kiềm của các dung dịch (vấn đề về da). Cảm ứng với canxi Tính gội sạch và bọt giảm trong nước cứng. Kết tụ loại xà bông canxi: tóc mất Bóng (tóc lưu mờ). Các chất sunfonat Ưu điểm LAS Khả năng lấy đi chất dầu cao(3-4% đối với các dầu đặc biệt cho tóc có dầu). Không thủy phân trong kiềm (các Acidsulfonic là các axít mạnh). Không đắt tiền. Alpha olefin sulfonat Ổn định tốt với độ ph thấp ,dung nạp nước cứng. Khả năng tạo bọt vẫn cao khi có chất nhờn. Độ đục thấp. Đặc tính hòa tan hóa tốt /ít màu sắc/ít có mùi. Vừa phải các vấn đề tác động lên da. Sulfosccinat Cá đặc tính tẩy rửa tốt Khả năng tạo bọt tốt Rất nhẹ đối với da Không làm cay mắt Khuyết điểm Xu hướng để thủy phân nhóm este của chúng tốt hơn nên dùng chúng trong khu vực độ pH từ 6 đến 8(lý tưởng là 6,5). Sulfoalkyl amit của axit béo Phân tán tốt các xà bông canxi cùng cảm giác như các sản phẩm góc xà bông. Ví dụ: N-axyltaurit N-metyl taurit Axyl isethionat Các đặc tính có thể so sánh với sulfosccinat Cũng có các vấn đề về tính ổn định. Ít hòa tan trong nước lạnh:ưu tiên được sử dụng trong các dầu gọi đầu đục. Thí dụ: Sulfat Alkylsunfat PAS Alkyl ete sunfat Các dây dài: tẩy rửa tốt, các đặc tính nhũ tương hóa và làm hòa tan tốt. Thí dụ: R:c12-c14 số OE giữa 2 hay 3 LES Khi số OE yếu: độ hòa tan giảm trong nước lạnh. Khả năng tạo bọt tốt với sự dung nạp tốt đối với da. Sulfat diglycolamit Ổn định trong dung dịch nước và có thể Được sử dụng trong dầu gội đầu. Carboxylat N –axylaminoaxit Khả năng tạo bọt tốt, các đặc tính tẩy rửa tốt Axylsarcosinat Hòa tan trong nước cứng đễ hơn xà bông. Không hại da và tóc Cung cấp cho tóc và da vẻ mềm mại mượt mà. Polyoxyetylen Các đặc tính tẩy rửa thỏa đáng Khả năng phân tán các xà bông canxi tốt. Dễ xả Cùng những đặc tính như các muối N-acyl Amin axit. Khi n cao chúng tương hợp với các cationic. Dễ hòa tan ở độ pH thấp. Ít tạo bọt hơn các chất LES Các cationic Làm mềm tóc sau khi gội Hoạt động như các chất ngưng kết (tẩy giặt yếu). Hoạt tính về mặt sinh lý và làm cay ngứa, ngoại trừ các amin-este có dây dài, khi có nhiều nhóm OH, thì khả năng gây cay ngứa yếu. Các chất lưỡng tính và các chất hoạt động bề mặt lưỡng cực Alkyl amidobetain Khả năng tác động trực tiếp mạnh (được dùng trong các dầu gội đầu dùng cho tóc bạc và tóc nhuộm). Các chất lưỡng tính và ion lưỡng tính ít độc hai cà ít làm rát da hơn các cationic đồng đẳng của chúng. Chúng thường kết hợp với chất hoạt động bề mặt khác (chất anionic và NI) để làm dầu gội đầu dịu nhẹ (dành cho các bé sơ sinh). Các chất hoạt động bề mặt NI Chất alkanolamit Monoetanolamit Gia tăng hiệu năng tạo bọt Làm ổn định các công thức dựa trên alkylsunfat Hay dietanolamit stearyl etanolamit: được dùng như chất làm đặc và tạo xà cừ. Oleyl etanolamit: cũng được dùng để làm mượt tóc. Các dẫn xuất polyetoxy hóa Rượu béo etoxy hóa Đặc tính tẩy rửa tốt (ít tạo bọt n=2-3 số C trong R. Khi n cao, khả năng làm rát da giảm. Các estepolyol Các este béo polyetoxy hóa là chất thành phần căn bản của dầu gội đầu dành cho bé sơ sinh (rất dịu). Chúng giảm đến mức tối thiểu khả năng làm rát da vì các anionic được dùng kết hợp với các este sunfat và betain. Rất tương hợp với da khả năng tạo bọt đặc biệt tốt. Các oxitamin đa chức năng Hợp chất bán cực ationnic ổn định bọt Chủ yếu trong môi trường axit Điều chỉnh độ nhờn Có tác dụng làm mượt tóc. Có tiềm năng chống làm rát da. Bảng 1: Các thành phần có thể có trong dầu gội đầu. Một chất hoạt động bề mặt chính. Bảng 2: hệ thống các chất hoạt động bề mặt được sử dụng nhiều nhất. Chất hoạt động bề mặt chính Chất đồng hoạt động bề mặt Thí dụ Các đặc điểm Thí dụ Chức năng Lauryl ete sunfat (LES) Không độc hại Tẩy rửa tốt Khả năng tạo bọt tốt Ít rát da Ít /không có màu sắc Ít /không có mùi Dễ mua Giá cả trung bình Coco amido Propyl Betain: CAPP Gia tăng bọt khi có các vết bẩn Gia tăng độ nhờn Cải thiện độ dịu (hiệu quả yếu). Làm giảm hiện tượng khô da. Đối với các nhà sản xuất khác người ta sử dụng nhiều chất hoạt động bề mặt khác trong bảng danh sách dài các chất hoạt động bề mặt đã cho trên đây. Chất điều hòa Một vài chất tẩy rửa có tác dụng mạnh trên chất dầu trên tóc cũng như trên tay, sự việc này không phải là một điểm tốt cho dầu gội. Hơn nữa chất tẩy rửa có khuynh hướng bị tóc hấp thụ, khiến cho tóc dễ gãy và khó chải chuốt. Vì lý do này người ta dùng vài chất thành phần vô hiệu hóa các tác dụng này: Chất lanolin Chất lanolin và các chất dẫn xuất của lanolin, cồn cetyl tạo các kết quả tốt với tỉ lệ thấp (nếu tỉ lệ >2%, khả năng tạo bọt dầu gội dầu bị ành hưởng). Chất lexitin Chất lexitin cũng có thể được dùng ở tỉ lệ thấp. Trứng / lòng trứng (chứa chất lexitin, cholesterol và các chất protein) cũng được sử dụng. Tác dụng bảo vệ của chúng (chất keo) giúp chúng làm mượt bộ tóc. Các polime cationic Trong các polyme, người ta có thể kể tên chẳng hạn các homopolyme hay các copolyme cationic làm ra bằng cách polyme hóa một chất đơn phân vinyl, nối nhóm amino thế bốn lần hay một amin được tứ phân với một chất đơn phân khác có thể hòa tan trong nước như acrylamit, metacryamit…nhưng các polyme được sử dụng nhiều nhất là những chất phát sinh từ gôm cây “guar” như clorua hydroxyl propyl trimonium của gôm guar có công thức là: Được thương mại hóa dưới tên gọi là Jaguar C-13-S, C17,… Các chất silicon Chất silicon, trong đó người ta có thể kể ra chẳng hạn: Chất polydimetyl silosan có trọng lượng phân tử cao (trên 200.000) có công thức: Chất dimeticonol có công thức: Người ta có thể cùng nhiều chất hoạt động bề mặt dịu nhẹ như là chất phụ gia, chạng hạn: Các chất este sorbitan polyetoxy hóa của axit béo. Tác dụng của những chất làm mượt tóc này là do chúng hấp phụ bởi sợi tóc nhanh hơn chất hoạt động bề mặt thuộc loại alkyl sulfat hay alkyl aryl sunfonat, do đó cản trở sự hấp phụ của chúng. Các lý thuyết khác kết luận rằng các chất làm mượt tóc dính chặt lúc xả (khi dầu xã được pha quá loãng) hay chúng lại bao quanh các mixen của chất tẩy rửa. Các dầu gội đầu dùng chữa bệnh Vài cách thành lập công thức chứa những chất chuyên biệt giúp chữa trị các “chứng khác thường” của tóc hay da đầu. Trong giai đoạn này, chúng ta chủ yếu đề cập đến trường hợp tóc có gàu. Chất chống gàu Có thể có ba cách tác động Giảm tốc độ thay thế các tế bào mới. Ngăn cản sự tăng trưởng của các loại men nấm hầu như là nguyên nhân chính sản sinh gàu “P-ovale”. Giảm độ phần trăm acid béo tự do trên da đầu, chúng tạo nên một mội trường nuôi các vi sinh vật, trong đó có các men nấm. Về điểm một, người ta có thể suy nghĩ đến cách củng cố lớp sừng để giới hạn da đóng vảy. Trong trường hợp này, việc sử dụng các sản phẩm phân giải da như lưu huỳnh hay sulfua seleni, có thể mang lại những hiệu quả tốt. Tuy nhiên, các sản phẩm này có khả năng làm mỏng lớp sừng đó, khiến dầu xuất hiện, thuận lợi các vi sinh vật. Cũng nên lưu ý rằng chất disunfua seleni, do tính độc hại tương đối của nó, được sử dụng nhất là trong các dầu gội đầu dùng để chữa bệnh bán tại các nhà thuốc. Về điểm 3, người ta cũng có thể dùng dầu gội đầu dành cho tóc nhiều dầu mà chúng ta sẽ nói ở phần sau. Để hạn chế sự tăng trưởng của vi sinh vật, trong đó có men nấm povale, người ta dùng các chất diệt khuẩn. Các chất thông dụng nhất là: Chất pyridinthion kẽm (ZnPTO hay ZPTO) có công thức: Chất pirocton olamin : etanolamin (octopirox) Sản phẩm thứ hai này thường được ưa chuộng hơn chất ZnPTO, vì chất này có vần đề về sự ổn định (ở nhiệt độ thấp) và cũng về tính độc hại nữa. Chất pirocton olamin : Dễ hòa tan hơn trong các chất hoạt động bề mặt. Ít độc hại. Dễ sử dụng. Ổn định tốt. Nhưng giá thành của nó cao hơn ZnPTO một cách có ý nghĩa. Toàn bộ các bài viết về vấn đề này trong các bằng sáng chế có gợi đến các chất phát minh khác như : Các muối không hòa tan của 1-hydroxy-2-pyridimethion. Muối của hydroxypiridon có cấu trúc hóa học. Các dẫn xuất của imidazolylketon, có công thức hóa học tổng quát như sau: Sunfit silini. Các chất thành phần khác Loạt các chất thành phần khác sẽ giúp cải thiện vẻ ngoài của sản phẩm trên phương diện vật lý (độ nhờn, độ ph, tính ổn định, sự bảo quản) hoặc trên phương diện thu hút người tiêu thụ (màu sắc, mẫu mã và hương thơm…). Các chất làm đục và làm óng ánh xa cừ Thông thường đó là những chất sulfat cồn có dây dài như sulfat xetyl natri (C16). Người ta cũng tìm thấy những chất như: Các chất alkoamin ít hòa tan của axit béo no với C18 hay hơn nữa. Rượu béo ( rượu từ mỡ bò, xetyl, stearyl) có nhiệm vụ làm mượt tóc, nhưng giảm đi khả năng tạo bọt. Các nhũ tương của các polyme vinyl hay styren. Chất este etylen glycol, propylen glycol hay glyxerol. Trong các chất này chất được sử dụng nhiều nhất là: Chất monostearat etylen glycol (GMS: glycol mono stearate) Chất distearat etylen glycol (EGDS: Ethylene glycol distearate): Các chất làm sệt / các chất điều chỉnh độ nhờn Người ta dùng các chất điện giải vô cơ NaCl chẳng hạn và các chất dẫn xuất có thể hòa tan của xenluloza. Các chất dẫn xuất này là các chất làm sệt cho các côn