Hải Dương là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, lại nằm trong địa bàn kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, với tổng diện tích tự nhiên là 1651 km2. Hải Dương có tọa độ địa lí từ 20036’B đến 21033’B và từ 106030’Đ đến 106036’Đ. Với vị trí này, Hải Dương là điểm chung chuyển giữa thủ đô Hà Nội và thành phố Hải Phòng, tạo mối giao lưu giữa các vùng kinh tế khác trong nước cũng như các nước trong khu vực và trên thế giới. Đây cũng là những đô thị có dân số đông, là thị trường tiêu thụ rộng rãi các sản phẩm nông nghiệp của tỉnh. Đồng thời cũng là nơi cung cấp máy móc, trang thiết bị kĩ thuật để phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn của tỉnh.
Hải Dương nằm trên trục giao thông đường sắt, đường bộ, đường sông thuận lợi thuận tiện như quốc lộ 5, 18, 37 tạo thế mạnh để giao lưu, vận chuyển sản phẩm nông nghiệp từ nơi sản xuất tới nơi tiêu thụ, rút ngắn quá trình vận chuyển, nâng cao chất lượng của sản phẩm nông nghiệp.
Với những thuận lợi đặc biệt về vị trí địa lí như trên, Hải Dương đã và dang phát huy lợi thế đó trong phát triển kinh tế, đặc biệt trong phát triển nông nghiệp của tỉnh, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, phát triển nông nghiệp của tỉnh theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế của tỉnh, góp phần nâng cao thu nhập và nâng cao đời sống nhân dân.
46 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3218 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tình hình phát triển nông nghiệp Hải Dương giai đoạn 2000-2009, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 1: NGUỒN LỰC PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
TỈNH HẢI DƯƠNG
1.1 Vị trí địa lí
Hải Dương là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, lại nằm trong địa bàn kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, với tổng diện tích tự nhiên là 1651 km2. Hải Dương có tọa độ địa lí từ 20036’B đến 21033’B và từ 106030’Đ đến 106036’Đ. Với vị trí này, Hải Dương là điểm chung chuyển giữa thủ đô Hà Nội và thành phố Hải Phòng, tạo mối giao lưu giữa các vùng kinh tế khác trong nước cũng như các nước trong khu vực và trên thế giới. Đây cũng là những đô thị có dân số đông, là thị trường tiêu thụ rộng rãi các sản phẩm nông nghiệp của tỉnh. Đồng thời cũng là nơi cung cấp máy móc, trang thiết bị kĩ thuật để phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn của tỉnh.
Hải Dương nằm trên trục giao thông đường sắt, đường bộ, đường sông thuận lợi thuận tiện như quốc lộ 5, 18, 37… tạo thế mạnh để giao lưu, vận chuyển sản phẩm nông nghiệp từ nơi sản xuất tới nơi tiêu thụ, rút ngắn quá trình vận chuyển, nâng cao chất lượng của sản phẩm nông nghiệp.
Với những thuận lợi đặc biệt về vị trí địa lí như trên, Hải Dương đã và dang phát huy lợi thế đó trong phát triển kinh tế, đặc biệt trong phát triển nông nghiệp của tỉnh, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, phát triển nông nghiệp của tỉnh theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế của tỉnh, góp phần nâng cao thu nhập và nâng cao đời sống nhân dân.
1.2 Các nguồn lực tự nhiên
1.2.1 Địa hình
Hải Dương là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng nên diện tích chủ yếu là đồng bằng (chiếm 89%), miền núi (chiếm 11%) chỉ tập trung ở 2 huyện Chí Linh và huyện Kinh Môn.
Địa hình tỉnh nghiêng và thấp dần từ tây bắc xuống đông nam. Phía đông của tỉnh có địa hình thấp trũng, thường chịu ảnh hưởng của thủy triều và bị ngập nước vào mùa mưa.
Địa hình có sự phân hóa theo chiều Bắc Nam,có thể chia ra làm 2 vùng chính: vùng phía bắc Hải Dương (vùng bán sơn địa), vùng phía nam Hải Dương (vùng đông bằng).
1.2.2 Khí hậu
Hải Dương nằm ở gần trung tâm của vùng đồng bằng sông Hồng nên khí hậu Hải Dương mang tính chất nhiệt đới gió mùa ẩm có một mùa đông lạnh.
Trong năm Hải Dương chịu sự thống trị của hai hoàn lưu gió mùa: gió mùa mùa hè và gió mùa mùa đông đã phân hóa khí hậu Hải Dương thành hai mùa rõ rệt.
Mùa hè chịu ảnh hưởng của gió mùa tây nam gây nóng bức mưa nhiều. Mùa đông chịu ảnh hưởng của gió mùa mùa đông bắc nên Hải Dương có một mùa đông lạnh với 3 – 4 tháng nhiệt độ trung bính tháng dưới 180C. Vào đầu mùa đông thời tiết khá lạnh, khô, lượng mưa thấp, sương muối xuất hiện trên diện rộng thuộc các huyện miền núi: huyện Chí Linh, huyện Kinh Môn.
Chính nhân tố hoàn lưu gió mùa này đã làm nên tính thất thường của khí hậu Hải Dương mà biểu hiện của nó thể hiện qua chế độ nhiệt và chế độ mưa, ở sự dao động nhiệt độ tháng, sự dao động nhiệt độ ngày bắt đầu và kết thúc của mùa nóng lạnh.
Sự hoạt động thất thường của gió mùa đông bắc vào mùa đông làm cho có năm rét sớm, có năm rét muộn, có năm rét đậm, kéo dài nhưng có năm gió mùa đông bắc hoạt động yếu làm cho thời tiết nóng lên sớm, bất thường. CÒn về mùa hạ tùy theo nhịp điệu và sự xuất hiện của hội tụ front bãi biển Đông mà gây nên sự khác biệt về cường độ, thời gian, lượng mưa giữa các năm. Đồng thời sự hoạt động xen kẽ của tín phong bắc bán cầu, gió phơn tây nam, gió mùa đông bắc tạo nên sự gián đoạn thay đổi thất thường mưa – khô, nóng lạnh trong những ngày mùa hè.
Tóm lại, với đặc điểm khí hậu này cùng với công tác thủy lợi được quan tâm, chú trọng xây dựng cơ cấu cây trồng vật nuôi phù hợp với điều kiện khí hậu của tỉnh và chuyển đổi cơ cấu mùa vụ hợp lí… thì trên địa bàn tỉnh có khả năng xen canh, gối vụ, thâm canh, tăng diện tích gieo trồng… làm tăng năng suất, sản lượng, góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển nông nghieepjj của tỉnh.
1.2.3 Tài nguyên nước
Hải Dương có mạng lưới sông ngòi tự nhiên và sông nội đồng dày đặc cùng với hàng nghìn ao hồ nhỏ.
Các sông ở Hải Dương có hai nguồn cung cấp là nước mưa trong tỉnh và lượng nước từ các nơi khác đổ vào. Trong đó, đối với các sông lớn thì lượng nước từ các nơi khác đổ vào (nước từ thượng nguồn và thủy triều) là chủ yếu. Còn các song trong nội đồng, ngoài việc lấy nước qua các cống, các trạm bơm thì nước mưa cũng là một phần quan trọng. Lượng mưa trung bình năm từ 1400 – 1700 mm, do đó, tổng lượng nước mặt khoảng 20 – 30 tỉ m3/năm. Tổng chiều dài sông lớn đạt 5000 km và trên 2000 km sông nhỏ, tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất nông nghiệp phát triển.
Nguồn tài nguyên nước ngầm của tỉnh Hải Dương khá phong phú tuy nhiên chưa được nghiên cứu kĩ, khai thác và đưa vào phục vụ nhiều cho mục đích sản xuất nông nghiệp.
Như vậy, tỉnh Hải Dương có nguồn tài nguyên nước phong phú tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp, thâm canh, tăng vụ… Nhưng mực nước của các sông trong tỉnh có sự khác nhau rõ rệt giữa các mùa: mùa mưa các sông có nhiều nước thường gây ngập úng, còn mùa khô các sông ít nước và thường thiếu nước cho sản xuất. Bên cạnh đó, hiện tượng ô nhiễm môi trường nước ngày càng nghiêm trọng làm cho nguồn tài nguyên nước của tỉnh bị cạn kiệt, lãng phí.
1.2.4 Tài nguyên đất
Đất đai có vai trò quan trọng đối với sự phát triển và phân bố ngành nông nghiệp, là tư liệu sản xuất trực tiếp của hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Tài nguyên đất của tỉnh Hải Dương khá phong phú, đa dạng, bao gồm đất phù sa, đất feralit.
- Đất phù sa: có khoảng 148.929 ha đất phù sa do sông Thái Bình và một phần nhỏ do sông Hồng bồi đắp. Đất phù sa của tỉnh được chia làm 2 loại chính: đất phù sa được bồi hàng năm (huyện Thanh Hà, Kinh Môn), đất phù sa không được bồi đắp hàng năm (Cẩm Giàng, Gia Lộc, Nam Sách…). Đây là nhóm đất có độ màu mỡ cao nên thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp, đặc biệt là cây rau màu và cây công nghiệp ngắn ngày.
- Đất feralit: có tổng diện tích là 16.548 ha và được chia thành các loại đất sau:
+ Đất feralit phát triển trên đá sa thách chiếm 7,9% diện tích đất tự nhiên của tỉnh. Nhóm đất này thích hợp với việc trồng các cây công nghiệp và cây ăn quả.
+ Đất feralit xói mòn mạnh trơ sỏi đá: nhóm đất này là hậu quả của việc phá rừng bừa bãi gây nên hiện tượng xói mòn. Đất rất nghèo dinh dưỡng nên không thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp, cần phải phủ xanh đất trống đồi trọc.
Như vậy, tỉnh Hải Dương có tài nguyên đất khá phong phú, diện tích đất xấu, nghèo chất dinh dưỡng chiếm tỉ trọng thấp còn diện tích đất tôt thuận lợi cho phát triển nông nghiệp thì chiếm tỉ trọng cao trong tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh, là cơ sở để phát triển một nền nông nghiệp với cơ cấu cây trồng đa dạng, đạt năng suất và hiệu quả lao động cao.
1.3 Nguồn lực kinh tế - xã hội
1.3.1 Dân cư và nguồn lao động
Năm 2009, Hải Dương có 1.732.347 người, chiếm khoảng 2% dân số của cả nước, trong đó có 1.097.976 người trong độ tuổi lao động (59,7% lao động tham gia vào lĩnh vực nông nghiệp). Lao động Hải Dương có truyền thống cần cù, giàu kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp. Như vậy, dân số đông và tăng nhanh tạo ra một lực lượng lao động nông nghiệp dồi dào, một thị trường tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp rộng lớn. Do đó tạo điều kiện cho việc phát triển một số cây trồng cần nhiều lao động như: cây lương thực, các loại rau đậu… và phát triển một nền nông nghiệp với trình độ thâm canh cao.
1.3.2 Cơ sở vật chất, kĩ thuật
- Hệ thống thủy lợi tương đối hoàn chỉnh, nhìn chung hầu hết các xã trong huyện, tỉnh đều có một trạm bơm khá kiên cố, hệ thống kênh dẫn được bê tong hóa, mở rộng, hệ thống mương nội đồng thường xuyên được nạo vét… tạo điều kiện thuận lợi cho công tác tười tiêu, thoát nước phục vụ sản xuất nông nghiệp.
- Ứng dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất, nhiều máy móc đã được sử dụng vào tất cả các khâu của quá trình sản xuất: máy cày và cơ giới hóa làm đất, máy tuốt lúa, máy bơm, máy gieo xạ, máy cấy.
- Nhiều giống cây trồng, vật nuôi mới cho năng suất cao, chất lượng tốt như: giống lúa P6, AC5…., cây thực phẩm như dưa lai, bí lai, măng tây.. Việc đưa vào sản xuất nhiều giống cây trồng, vật nuôi mới đã góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị trong sản xuất nông nghiệp. Công tác bảo vệ thực vật đã được thực hiện có hiệu quả, xác định được các loại sâu bệnh gây hại cho cây trồng, đề ra được các giải pháp phòng trừ sâu bệnh theo hướng tích cực, hạn chế sử dụng thuốc bảo vệ thực vật hợp lí nhằm tăng giá trị và chất lượng của nông sản, bảo vệ môi trường.
1.2.3 Cơ sở hạ tầng
Mạng lưới giao thông vận tải của Hải Dương khá hoàn chỉnh với đầy đủ các loại hình giao thông, bao gồm cả đường ô tô, đường sắt, đường sông… Mạng lưới giao thông vận tải phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển các sản phẩm nông sản, máy móc, phân bón, thuốc trừ sâu… tốt hơn, là tiền đề để xây dựng một nền nông nghiệp hàng hóa.
Như vậy, mạng lưới giao thông vận tải của tỉnh khá phát triển tạo điều kiện cho việc giao lưu trao đổi hàng hóa giữa các xã, các huyện trong tỉnh và với các tỉnh khác trong vùng. Đặc biệt là việc vận chuyển các sản phẩm nông nghiệp đến thị trường tiêu thụ đảm bảo chất lượng và vận chuyển máy móc, phân bón kịp mùa để phục vụ cho hoạt động sản xuất nông nghiệp. Giao thông vận tải phát triển là cơ sở, tiền đề cho tỉnh phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa.
Các cơ sở công nghiệp chế biến: năm 2009 ngành công nghiệp chế biến nông sản chiếm trên 9% trong cơ cấu ngành công nghiệp, tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp chế biến sản phẩm nông nghiệp là 22,7%. Các công ty chế biến sản phẩm nông sản của tỉnh có quy mô lớn, mức tăng trưởng cao, thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài như: công ty Vạn Đắc Phúc, công ty thực phẩm Nghĩa Mỹ….Bên cạnh công nghiệp chế biến sản phẩm nông sản, thì công nghiệp chế biến thức ăn gia súc cũng phát triển. Ngày càng có nhiều nhà máy, cơ sở sản xuất thức ăn cho chăn nuôi. Sản lượng và chủng loại thức ăn chăn nuôi rất phong phú từ thức ăn đậm đặc đến thức ăn dạng viên phù hợp với từng đối tượng vật nuôi: lợn tập ăn, lợn nái, lợn tăng trưởng…
Hệ thống khuyến nông được tăng cường và hoàn thiện để giúp các hộ nông dân nâng cao trình độ kĩ thuật, ứng dụng tiến bộ của khoa học kĩ thuật vào sản xuất. Các chi cục bảo vệ thực vật, chi cục thú y, trung tâm giống cây trồng… đã hoạt động tích cực góp phần đáng kể giúp cho phong trào sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp phát triển.
1.2.4 Nguồn vốn và thị trường tiêu thụ
Hiện nay, ngành nông nghiệp của tỉnh Hải Dương đang thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư từ trong nước và ngoài nước. Năm 2009, tổng số vốn đầu tư xây dựng cơ bản của ngành nông nghiệp là 623.383 triệu đồng. Tuy nhiên, số vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản của ngành nông nghiệp vẫn rất thấp chiếm 8,3%. Số dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào ngành nông nghiệp ngày càng tăng, năm 2009 là 1,5 triệu USD.
Thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp của tỉnh rộng lớn, bao gồm thị trường trong tỉnh và thị trường ngoài tỉnh:
+ Thị trường trong tỉnh: Đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao, cơ sở hạ tầng khá phát triển, nền nông nghiệp đang phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa nên việc trao đổi hàng hóa trong tỉnh diễn ra khá sôi động. Do đó, dân số đông trong tỉnh đã trở thành một nguồn lực thực sự cho việc phát triển nông nghiệp
+ Thị trường ngoài tỉnh: Hải Dương giáp với 3 đô thị lớn Hà Nội, Hải Phòng, Hạ Long… đây là một thị trường tiêu thụ rộng lớn. Tuy nhiên, những thị trường này cũng đòi hỏi cao về sự đa dạng và chất lượng của sản phẩm nông nghiệp; đó là động lực giúp cho nông nghiệp của tỉnh Hải Dương phát triển với cơ cấu đa dạng và không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm.
Như vậy, sản phẩm nông nghiệp bảo tỉnh có thị trường tiêu thụ rộng lớn, tạo điều kiện cho nông nghiệp của tỉnh phát triển đa dạng, quy mô sản xuất được mở rộng và nâng cao chất lượng sản phẩm. Qua đó, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.
CHƯƠNG 2: HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN VÀ PHÂN BỐ
NÔNG NGHIỆP TỈNH HẢI DƯƠNG
2.1 Khái quát chung
2.1.1 Vị trí của ngành nông nghiệp trong nền kinh tế tỉnh Hải Dương
Ngành nông nghiệp chiếm vị trí quan trọng, năm 2009 chiếm 89,9% trong cơ cấu giá trị sản xuất cảu khu vực nông – lâm – thủy sản. Quy mô giá trị sản xuất nông nghiệp cao gấp 197 lần so với ngành lâm nghiệp và 9,3 lần so với nghành thủy sản.
Bảng 1: Giá trị sản xuất, cơ cấu sản xuất nông – lâm – thủy sản giai đoạn 2005 – 2009
Năm
2005
2007
2009
Tỉ đồng
%
Tỉ đồng
%
Tỉ đồng
%
Tổng số
5988,1
100
7353,0
100
10244,8
100
Nông nghiệp
5493,8
91,7
6610,0
89,9
9208,0
89,9
Lâm nghiệp
21,7
0,4
22,7
0,3
46,7
0,4
Thủy sản
472,6
7,9
719,3
9,8
990,1
9,7
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương năm 2009
Với vị trí đó, nông nghiệp đóng góp một phần cơ bản vào GDP khu vực nông – lâm - ngư nghiệp đang chuyển dịch theo hướng tích cực. Tỉ trọng ngành nông nghiệp đang có xu hướng giảm dần , tuy nhiên vẫn ở mức cao (chiếm 89,9% năm 2009, giảm 1,8% so với năm 2005), sự chuyển dịch còn chậm tức là lực cản lớn đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa nông thôn.
Cùng với sự chuyển dịch trong nội bộ khu vực nông – lâm – thủy sản, tỉ trọng của khu vực I cũng có xu hướng giảm dần trong cơ cấu GDP toàn tỉnh, phù hợp với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế.
Bảng 2: Cơ cấu GDP tỉnh Hải Dương giai đoạn 2005 – 2009
Ngành
2005
2007
2009
Nông – lâm - thủy sản
27,1
25,5
24,3
Công nghiệp – xây dựng
43,6
44,0
44,7
Dịch vụ
29,3
30,5
31,0
Tăng trưởng của khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản không cao do ảnh hưởng liên tiếp của thiên tai, dịch bệnh diễn ra trên diện rộng và kéo dài, sản xuất của khu vực này còn bị tác động bởi diễn biến bất lợi về thị trường và giá cả, mặt khác do lao động giản đơn, tiến bộ khoa học kĩ thuật trong sản xuất chưa được tăng cường, diện tích đất canh tác ngày càng bị thu hẹp; việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng chưa đạt được kết quả theo mong muốn…
2.1.2 Giá trị sản xuất nông nghiệp và cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp
Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng liên tục qua các năm, tốc độ tăng trưởng khá cao, đạt bình quân 1,4%/năm (giai đoạn 2000 – 2009) (theo giá thực tế năm 1994). Trong đó, tốc độ tăng trưởng của ngành chăn nuôi cao nhất, đạt 3,7%/năm, tốc độ tăng trưởng của ngành trồng trọt chỉ đạt 1,3%/năm. Nhìn chung, tốc độ tăng trưởng của ngành nông nghiệp còn thấp hơn so với tốc độ của ngành lâm nghiệp (2,4%/năm) và ngành thủy sản (7,5%/năm); mức độ đóng góp vào nhịp độ tăng trưởng GDP hàng năm thấp, bình quân hàng năm dưới 10% cho tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế.
Quá trình công nghiệp hóa đang có những tác động rõ nét vào sản xuất nông nghiệp với sự chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành. Cơ cấu ngành nông nghiệp đang có sự chuyển dịch theo hướng giảm tỉ trọng ngành trồng trọt, tăng dần tỉ trọng ngành chăn nuôi và dịch vụ nông nghiệp. Tuy nhiên, sự chuyển dịch còn diễn ra chậm và chưa ổn định.
Bảng 3: Giá trị sản xuất và cơ cấu giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp giai đoạn 2000 – 2009 (Giá thực tế)
2000
2005
2008
2009
Tỉ đồng
%
Tỉ đồng
%
Tỉ đồng
%
Tỉ đồng
%
Tổng số
2.943,2
100
3753,2
100
4105,1
100
4031,1
100
Trồng trọt
2.139,6
72,7
2363,7
63,0
2550,3
62,1
2418,5
60,0
Chăn nuôi
740,9
25,2
1195,0
31,8
1335,1
32,5
1381,1
34,3
Dịch vụ
62,6
2,1
194,5
5,2
219,6
5,4
231,5
5,7
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương năm 2009.
Ngành trồng trọt vẫn chiếm tỉ trọng cao trong cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp, đạt 60% năm 2009.
Ngành chăn nuôi chiếm tỉ trọng khá, có tăng lên nhưng tốc độ còn chậm, đạt 34,3% năm 2009.
Tỉ trọng ngành dịch vụ nông nghiệp còn thấp và tốc độ tăng chậm, năm 2009 chỉ đạt 5,7%.
Sản xuất trồng trọt và chăn nuôi đang từng bước chuyển dần từ sản xuất tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hóa và nâng cao thu nhập trên 1 đơn vị diện tích.
2.2 Hiện trạng sản xuất nông nghiệp theo ngành
2.2.1 Trồng trọt
Trồng trọt là ngành có nhiều lợi thế nhất trong sản xuất nông nghiệp của tỉnh Hải Dương. Ngành trồng trọt hiện chiếm 60% giá trị sản xuất nông nghiệp của tỉnh. Tốc độ tăng trưởng của ngành trồng trọt tuy co giảm trong giai đoạn 2000 – 2009 tuy nhiển tỷ trọng của ngành vẫn chiếm 60% trong cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp của ngành nông nghiệp. Trồng trọt vẫn giữ vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Giá trị sản phẩm thực tế thu hoạch trên một ha đất trồng trọt và nuôi trồng thủy sản (gọi tắt là đất nông nghiệp) thể hiện trong bảng số liệu sau:
Bảng 4: Giá trị sản phẩm trên 1ha đất nông nghiệp tỉnh Hải Dương.
(Đơn vị: triệu đồng/ha)
Năm
2005
2006
2007
2008
2009
2010
Toàn tỉnh
38,25
42,74
48,83
67,23
69,41
72,51
Trong đó:
- Trồng trọt
- Thủy sản
37,38
47,57
41,96
50,92
7,84
58,75
66,46
74,80
67,10
96,32
71,17
96,32
Nguồn: Kinh tế - xã hội tỉnh Hải Dương 5 năm (2006 – 2010)
Kết quả trên cho thấy, giá trị sản phẩm trên một ha đất nông nghiệp năm 2010 tăng 35,3 triệu đồng so với năm 2005, tốc độ tăng bình quân hàng năm trong 5 năm là 13,9/năm (giai đoạn 2000 – 2005 là 8,8%/năm); trong đó giá trị sản phẩm trồng trọt tăng bình quân 13,7%/năm (giai đoạn 2000 – 2005 là 20,1%/năm). Trong ngành trồng trọt, cây hàng năm tăng bình quân 13,0% (giai đoạn 2000 – 2005 là 9,5%/năm); cây lâu năm tăng bình quân 23,7%/năm.
Điều đáng chú ý là, năm 2008 có sự tăng đột biến, từ 48,8 triệu đồng năm 2007 lên 67,2 triệu (37%), một phần do sản lượng lúa trong năm tăng 6.877 tấn, sản lượng rau tăng 7.701 tấn và sản lượng thủy sản nuôi trồng tăng 6.210 tấn (15,4%), nhưng chủ yếu là do sự đột biến tưng về giá nông sản (chỉ số giá nông sản phẩm tăng 34,9%, riêng giá lúa tăng 54%)
Bảng 5: Giá trị sản phẩm trên 1ha đất nông nghiệp phân theo huyện, thành phố năm 2006 – 2010. (Tính theo giá bình quân chung của tỉnh Hải Dương). Đơn vị: triệu đồng/ha,%
2005
2006
2007
2008
2009
2010
Chỉ số tăng BQ năm (%)
Toàn tỉnh
38,3
42,7
43,8
67,2
69,4
73,5
13,9
Hải Dương
30,7
31,7
27,8
61,4
67,2
71,4
18,4
Chí Linh
19,2
23,8
31,3
41,8
42,5
46,2
19,2
Nam Sách
40,5
42,9
49,8
65,5
74,2
78,4
14,1
Kinh Môn
35,6
39,1
46,3
64,2
67,4
71,7
15,0
Kim Thành
44,1
53,2
57,9
79,1
89,0
93,2
16,1
Thanh Hà
29,4
36,1
38,9
52,3
54,0
57,5
14,4
Cẩm Giàng
46,0
48,9
55,3
77,9
78,9
83,1
12,6
Bình Giang
37,2
41,3
45,7
66,3
66,7
71,0
13,8
Gia Lộc
64,8
71,3
85,3
111,1
110,8
115,1
12,2
Tứ Kì
42,8
42,8
53,9
72,4
77,1
81,38
13,7
Nam Giang
37,6
38,6
42,0
63,6
65,7
70,0
13,2
Thanh Miện
38,5
41,8
46,2
66,8
64,6
68,8
12,3
Nguồn: Kinh tế - xã hội tỉnh Hải Dương 5 năm (2006 – 2010)
Giá trị sản phẩm trồng trọt và nuôi trồng thủy sản ở các huyện, thị xã, thành phố nhìn chung đều tăng qua các năm, năm sau cao hơn năm trước. Dẫn đầu trogn việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi và quay vòng đất để đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất là huyện Gia Lộc; với lợi thế của huyện là quỹ đất phong phú, tỷ lệ diện tích đất loại I cao, nguồn nhân lực dồi dào, kinh nghiệm, trình độ kĩ thuật thâm canh cây, con cao nên kết quả sản xuất đạt cao nhất trong tỉnh, năm 2005 đạt 64,8 triệu đồng/1ha, năm 2010 đạt 115,1 triệu dồng/ha.
Thị xã Chí Linh, do đặc điểm của miền đồi núi, đất bạc màu, độ dinh dưỡng của đất thấp, nhiều vùng thường xuyên bị hạn hán, ngập úng nhiều, năng suất