Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vựa lúa của cả nước, với đóng góp khoảng 50%
sản lượng và 90% lượng gạo xuất khẩu hàng năm (Niên giám thống kê, 2013). Để có được sản
lượng đó, nông dân đã đẩy nhanh sản xuất lúa gạo với việc thâm canh từ 2 đến 3 vụ trong
năm, thậm chí có nơi sản xuất đến 7 vụ trong 2 năm (Phạm Thị Phấn và ctv., 2001), thời gian
nghỉ của đất giữa 2 vụ lúa quá ngắn đã đưa đến điều kiện đất lúa ở tình trạng khử kéo dài và
do đó sản sinh khí mêtan (CH4) và ôxit nitơ (N2O)(Mitsch et al., 2000), đây là 2 chất khí nhà
kính quan trọng ảnh hưởng đến sự biến đổi khí hậu toàn cầu.
Nhiều nghiên cứu cho thấy, việc quản lý nước trong ruộng lúa đã góp phần ảnh hưởng
đến lượng phát thải khí CH4 và N2O. Khi ruộng bị ngập, đất bị yếm khí (khử ôxy) tạo ra CH4
trong khi khí N2O có thể được tạo ra bởi các vi khuẩn trong đất trong điều kiện háo khí (ôxy
hóa) và cả yếm khí, tùy thuộc vào lượng phân N cung cấp (chủ yếu qua phân bón). Thông
thường, ở ruộng lúa bị ngập thường xuyên có phát thải khí N2O thấp nhưng CH4 cao. Để hài
hòa hai nguồn phát thải này cần có chế độ quản lý nước phù hợp (Lagomarsino et al., 2016).
Trong canh tác, mặc dù chất N là nhân tố chi phối hàng đầu đến năng suất lúa, nhưng đặc tính
của các hệ thống canh tác lúa là có hiệu quả sử dụng phân N thấp, điều này phần lớn là do sự
mất N nhanh chóng từ sự bốc thoát amoniac (NH3) và sự khử nitrat (NO3-), ước tính có khoảng
10% đến 65% N bón vào đất lúa bị mất (Vlek and Byrne, 1986; De Detta and Burêsh, 1989).
Việc bốc thoát khí NH3 từ sử dụng phân N cũng dẫn đến sự lắng tụ N và từ đó hình
thành và phát thải N2O (Wulf and Clemens, 2002). Ngoài ra, việc giữ lại rơm rạ trong ruộng lúa
để tái sử dụng chất dinh dưỡng cũng là một hoạt động canh tác khá phổ biến. Tuy nhiên, nó
cung cấp một nguồn chất hữu cơ dồi dào làm tăng phát thải CH4, góp phần tác động môi trường
qua hiệu ứng nhà kính (WeiWang et al., 2016).
Khí CH4 và N2O là hai loại khí quan trọng gây hiệu ứng nhà kính trong biến đổi khí
hậu, được phát thải từ đất nông nghiệp chiếm theo thứ tự khoảng 50% và 60% nguồn phát thải
gây hiệu ứng nhà kính (WeiWang et al., 2016). Khí NH3 là loại khí kiềm có nhiều trong khí
quyển, là một thành phần chính trong phản ứng nitơ. Nguồn bốc thoát NH3 lớn nhất là từ nông
nghiệp, bao gồm chăn nuôi và sử dụng phân N (Behera et al., 2013).
Nhìn chung, việc sử dụng phân N, chất hữu cơ không hiệu quả đã góp phần làm gia
tăng phát thải các loại khí nhà kính, hiệu quả canh tác lúa không cao. Để hạn chế phát thải
CH4 từ nguồn hữu cơ cung cấp cho ruộng lúa, phát thải N2O và bốc thoát NH3 từ bón phân N
trong canh tác lúa, cần nghiên cứu các biện pháp cải thiện kỹ thuật canh tác phù hợp trong việc
quản lý nước kết hợp bón phân N và xử lý rơm rạ để góp phần cải thiện năng suất lúa và bảo vệ
môi trường, do vậy, đề tài “Biện pháp quản lý nước kết hợp bón đạm, xử lý rơm rạ để
nâng cao sinh trưởng lúa và giảm bốc thoát khí ammoniac, phát thải khí mêtan và ôxit
nitơ” đã được thực hiện.
27 trang |
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 413 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Biện pháp quản lý nước, kết hợp bón đạm, xử lý rơm rạ để nâng cao sinh trưởng lúa, giảm bốc thoát khí amoniac, phát thải khí mêtan và ôxit nitơ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Chuyên ngành: Khoa học Cây trồng
Mã ngành: 62 62 01 10
TRẦN THỊ HỒNG HUYẾN
BIỆN PHÁP QUẢN LÝ NƢỚC, KẾT HỢP BÓN ĐẠM,
XỬ LÝ RƠM RẠ ĐỂ NÂNG CAO SINH TRƢỞNG LÚA,
GIẢM BỐC THOÁT KHÍ AMONIAC, PHÁT THẢI KHÍ
MÊTAN VÀ ÔXIT NITƠ
Cần Thơ, 2018
CÔNG TRÌNH ĐƢỢC HOÀN THÀNH TẠI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
Người hướng dẫn chính: GS.TS. Ngô Ngọc Hưng
Luận án được bảo vệ trước hội đồng chấm luận án tiến sĩ cấp trường
Họp tại:
Vào lúc ...... giờ ......, ngày ....... tháng ........... năm ....................
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
Trung tâm Học liệu, Trường Đại học Cần Thơ.
Thư viện Quốc gia Việt Nam.
DANH MỤC CÁC BÀI BÁO ĐÃ CÔNG BỐ
Các bài báo đăng trên tạp chí:
1. Trần Thị Hồng Huyến, Nguyễn Quốc Khương, Nguyễn Thành Hối và Ngô Ngọc Hưng,
2014. Nghiên cứu ảnh hưởng của biện pháp bón thấm urê lên sự bốc thoát NH3, hấp thu N và
năng suất lúa trồng trên thẩm kế. Tạp chí của Hội khoa học đất Việt Nam, số N0 43: 31-36
2. Trần Thị Hồng Huyến, Lê Văn Dang, Ngô Ngọc Hưng và Nguyễn Kim Quyên, 2016. Sự
phát thải NH3, N2O và năng suất lúa trên đất phù sa trong canh tác lúa nước thực hiện biện pháp
tưới tiêu xen kẻ. Tạp chí nông nghiệp & phát triển nông thôn, Chuyên đề khoa học công nghệ,
tập 2: 79-86
1
CHƢƠNG 1: GIỚI THIỆU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vựa lúa của cả nước, với đóng góp khoảng 50%
sản lượng và 90% lượng gạo xuất khẩu hàng năm (Niên giám thống kê, 2013). Để có được sản
lượng đó, nông dân đã đẩy nhanh sản xuất lúa gạo với việc thâm canh từ 2 đến 3 vụ trong
năm, thậm chí có nơi sản xuất đến 7 vụ trong 2 năm (Phạm Thị Phấn và ctv., 2001), thời gian
nghỉ của đất giữa 2 vụ lúa quá ngắn đã đưa đến điều kiện đất lúa ở tình trạng khử kéo dài và
do đó sản sinh khí mêtan (CH4) và ôxit nitơ (N2O)(Mitsch et al., 2000), đây là 2 chất khí nhà
kính quan trọng ảnh hưởng đến sự biến đổi khí hậu toàn cầu.
Nhiều nghiên cứu cho thấy, việc quản lý nước trong ruộng lúa đã góp phần ảnh hưởng
đến lượng phát thải khí CH4 và N2O. Khi ruộng bị ngập, đất bị yếm khí (khử ôxy) tạo ra CH4
trong khi khí N2O có thể được tạo ra bởi các vi khuẩn trong đất trong điều kiện háo khí (ôxy
hóa) và cả yếm khí, tùy thuộc vào lượng phân N cung cấp (chủ yếu qua phân bón). Thông
thường, ở ruộng lúa bị ngập thường xuyên có phát thải khí N2O thấp nhưng CH4 cao. Để hài
hòa hai nguồn phát thải này cần có chế độ quản lý nước phù hợp (Lagomarsino et al., 2016).
Trong canh tác, mặc dù chất N là nhân tố chi phối hàng đầu đến năng suất lúa, nhưng đặc tính
của các hệ thống canh tác lúa là có hiệu quả sử dụng phân N thấp, điều này phần lớn là do sự
mất N nhanh chóng từ sự bốc thoát amoniac (NH3) và sự khử nitrat (NO3
-
), ước tính có khoảng
10% đến 65% N bón vào đất lúa bị mất (Vlek and Byrne, 1986; De Detta and Burêsh, 1989).
Việc bốc thoát khí NH3 từ sử dụng phân N cũng dẫn đến sự lắng tụ N và từ đó hình
thành và phát thải N2O (Wulf and Clemens, 2002). Ngoài ra, việc giữ lại rơm rạ trong ruộng lúa
để tái sử dụng chất dinh dưỡng cũng là một hoạt động canh tác khá phổ biến. Tuy nhiên, nó
cung cấp một nguồn chất hữu cơ dồi dào làm tăng phát thải CH4, góp phần tác động môi trường
qua hiệu ứng nhà kính (WeiWang et al., 2016).
Khí CH4 và N2O là hai loại khí quan trọng gây hiệu ứng nhà kính trong biến đổi khí
hậu, được phát thải từ đất nông nghiệp chiếm theo thứ tự khoảng 50% và 60% nguồn phát thải
gây hiệu ứng nhà kính (WeiWang et al., 2016). Khí NH3 là loại khí kiềm có nhiều trong khí
quyển, là một thành phần chính trong phản ứng nitơ. Nguồn bốc thoát NH3 lớn nhất là từ nông
nghiệp, bao gồm chăn nuôi và sử dụng phân N (Behera et al., 2013).
Nhìn chung, việc sử dụng phân N, chất hữu cơ không hiệu quả đã góp phần làm gia
tăng phát thải các loại khí nhà kính, hiệu quả canh tác lúa không cao. Để hạn chế phát thải
CH4 từ nguồn hữu cơ cung cấp cho ruộng lúa, phát thải N2O và bốc thoát NH3 từ bón phân N
trong canh tác lúa, cần nghiên cứu các biện pháp cải thiện kỹ thuật canh tác phù hợp trong việc
quản lý nước kết hợp bón phân N và xử lý rơm rạ để góp phần cải thiện năng suất lúa và bảo vệ
môi trường, do vậy, đề tài “Biện pháp quản lý nước kết hợp bón đạm, xử lý rơm rạ để
nâng cao sinh trưởng lúa và giảm bốc thoát khí ammoniac, phát thải khí mêtan và ôxit
nitơ” đã được thực hiện.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định ảnh hưởng của kỹ thuật tưới khô ngập luân phiên (AWD) trên lượng bốc
thoát khí NH3, phát thải khí CH4 và N2O.
- Xác định ảnh hưởng của biện pháp bón thấm urê trên hiệu quả sử dụng N và khả năng
phát thải khí nhà kính.
2
- Xác định ảnh hưởng của việc sử dụng phân hữu cơ có xử lý chế phẩm nấm
Trichoderma đến khả năng giảm phát thải khí nhà kính và cải thiện sinh trưởng lúa.
1.3 Những đóng góp mới của luận án
1.3.1 Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu cung cấp những dữ liệu khoa học về ảnh hưởng của kỹ thuật tưới
khô ngập luân phiên, biện pháp bón thấm urê và sử dụng phân hữu cơ có xử lý chế phẩm nấm
Trichoderma trên lượng phát thải khí nhà kính và sinh trưởng của lúa, qua đó đóng góp dữ liệu
khoa học để bổ sung và hoàn thiện qui trình kỹ thuật canh tác lúa nhằm tăng hiệu quả sử dụng
N, giảm phát thải khí nhà kính và cải thiện năng suất lúa tại ĐBSCL. Ngoài ra, kết quả nghiên
cứu của đề tài đã cung cấp cơ sở khoa học cho các nghiên cứu tiếp theo và làm tài liệu trong
giảng dạy.
1.3.2 Ý nghĩa thực tiễn
Kỹ thuật tưới ngập khô luân phiên làm giảm lượng phát thải CH4 và N2O. Ngoài ra,
biện pháp này giúp giảm lượng nước tưới khoảng 1.000 m3/vụ nhưng vẫn không ảnh hưởng đến
năng suất lúa và hiệu quả sử dụng nước gia tăng 50,8% so với biện pháp tưới ngập liên tục.
Biện pháp bón thấm urê và tái ngập nước sau một ngày làm giảm lượng bốc thoát NH3
so với tưới ngập liên tục. Bón thấm urê làm gia tăng có ý nghĩa thống kê về số chồi/m2 và số
bông/m2 so với tưới ngập liên tục. Lượng N hấp thu của lúa trong biện pháp bón thấm urê (105
kgN/ha) cũng cao hơn so với tưới ngập liên tục (95 kgN/ha). Do vậy, trên vùng đất Bình Minh -
Vĩnh Long, lượng N hiệu quả nhất bón cho lúa trong vụ Đông Xuân được đề nghị là là 80
kgN/ha.
Bón rơm có xử lý nấm Trichoderma kết hợp với phân N làm giảm sự phát thải khí CH4
và N2O trong khi vùi rơm tươi đưa đến tăng phát thải khí CH4. Biện pháp bón rơm có xử lý nấm
Trichoderma và biện pháp vùi rơm tươi không gây ra sự khác biệt về thành phần năng suất và
năng suất lúa.
Các kết quả nghiên cứu về tác động của một số biện pháp kỹ thuật đến khả năng giảm
phát thải khí nhà kính và sinh trưởng của lúa là những kết quả có giá trị thực tiễn cao đóng góp
vào việc hoàn thiện qui trình kỹ thuật canh tác lúa để tăng hiệu quả sử dụng N, giảm phát thải
khí nhà kính và nâng cao năng suất lúa tại Bình Minh–Vĩnh Long nói riêng và vùng ĐBSCL
nói chung.
1.4 Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là các biện pháp canh tác ảnh hưởng đến sinh
trưởng, năng suất lúa và sự phát thải khí nhà kính trên đất phù sa trồng lúa.
Các thí nghiệm cơ bản về biện pháp quản lý nước, biện pháp bón thấm urê và quản lý
rơm rạ được thực hiện tại nhà lưới Khoa Nông Nghiệp và Sinh học Ứng dụng - Trường ĐHCT
trong vụ Hè Thu 2012.
Từ việc kế thừa các kết quả nghiên cứu trong nhà lưới, các thí nghiệm ngoài đồng được
thực hiện tại Bình Minh - Vĩnh Long trong vụ Đông Xuân 2012 – 2013 và Đông Xuân 2013 –
2014.
3
CHƢƠNG 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Các vấn đề quan tâm trong sản xuất lúa
Với dân số trên 90 triệu người, phần lớn dân cư Việt Nam sống trong vùng nông thôn và
hoạt động nông nghiệp, trong đó canh tác lúa là chủ yếu. Do vậy, ĐBSCL có sản lượng lúa gạo
lớn để đáp ứng nhu cầu lương thực trong nước và xuất khẩu (Tổng cục thống kê, 2013). Để đạt
năng suất cao và sản lượng đủ lớn, nông dân thường xuyên sử dụng nhiều phân N trong canh
tác. Ngoài ra, do tác động phức tạp của biến đổi khí hậu nên các biện pháp kỹ thuật sản xuất lúa
để thích ứng với tình hình này đang được chú ý và tiếp tục nghiên cứu ở ĐBSCL, trong đó:
Kỹ thuật tưới tiết kiệm nước bằng phương pháp khô ngập luân phiên (AWD) để làm
giảm khí CH4 đang được quan tâm. Ruộng lúa tưới bằng kỹ thuật AWD cho năng suất giống
như ruộng tưới nước ngập liên tục theo truyền thống, nhưng tiết kiệm chi phí nước từ 16-24%
và chi phí sản xuất 20-25%. Tưới AWD giúp giảm sự rò rỉ, trực di phân N và chỉ ảnh hưởng
nhỏ đến sự bốc hơi trên mặt ruộng. Bên cạnh đó, tưới AWD giúp cải thiện hệ thống rễ, giảm đỗ
ngã, giúp đất thông thoáng, kiểm soát tốt hơn các đối tượng dịch hại.
Sự bốc thoát NH3 từ phân N được xem là mối đe dọa đến môi trường trên thế giới. Nó
cũng là một trong những con đường gây mất N chính trên đất lúa. Sau khi bón N vào trong đất,
N bị thủy phân tạo thành NH4
+ và nước ruộng tích lũy NH4
+
. Sự chuyển hoá NH4
+
sang NH3 phụ
thuộc rất lớn vào pH của nước ruộng. Do đó, sự hình thành khí NH3 và bốc thoát NH3 gia tăng
đáng kể cùng với sự gia tăng pH.
N-NO3
-
trong đất là nguồn không thể thiếu cho tiến trình khử nitrate và sự khử nitrate là nguồn
quan trọng làm bốc thoát khí nitơ (N2) và N2O. Một số nghiên cứu cho thấy, N mất ở dạng N2O,
NO (nitơ monoxit), N2 gia tăng sau khi đất khô bị ngập trở lại (Scholes et al., 1997).
Bên cạnh đó, trong canh tác lúa rơm rạ nếu để tự nhiên sẽ cần thời gian phân hủy rất lâu
và khi cày vùi trực tiếp vào đất sẽ gây ngộ độc hữu cơ cho cây lúa. Để hạn chế sự bất lợi này,
rơm rạ trước khi hoàn trả lại cho vụ mùa tiếp theo thì cần ủ kết hợp với nấm Trichoderma vì đây
là nguồn vi sinh vật có khả năng phân hủy rơm rạ nhanh và có thể hạn chế được sự phát triển
nấm gây bệnh Đốm vằn (Rhizoctonia solani) lưu tồn trong rơm rạ.
2.2 Các kết quả nghiên cứu về quản lý nƣớc, bón N và xử lý rơm rạ
Theo Kyuma (2004), việc bón thấm urê đã góp phần chất cải thiện thành phần năng suất
lúa do khi đất được rút nước đến nứt chân chim, tạo nên tình trạng thông thoáng trong đất.
Ngược lại, trong điều kiện đất ngập nước, chất hữu cơ bị phân hủy yếm khí tạo ra nhiều độc
chất như axit hữu cơ, H2S,làm giảm sinh trưởng và năng suất lúa.
Kết quả nghiên cứu của Lưu Hồng Mẫn và ctv., (2006) về việc ứng dụng chế phẩm sinh
học để sản xuất phân hữu cơ vi sinh phục vụ cho thâm canh lúa ở ĐBSCL từ năm 2000 – 2005
(10 vụ lúa) cho thấy, khi bón kết hợp phân hữu cơ xử lý bằng nấm Trichoderma kết hợp liên tục
với 60% phân hóa học đã làm giảm được 80% lượng phân hóa học sử dụng cho lúa, do đó sử
dụng rơm rạ ủ làm phân hữu cơ tại chỗ cho lúa không chỉ giảm lượng phân hóa học, hạn chế ô
nhiễm môi trường, dần trả lại độ phì nhiêu cho đất mà vẫn đảm bảo được năng suất lúa thu
hoạch.
Lý Ngọc Thanh Xuân (2010) nghiên cứu ảnh hưởng của kỹ thuật AWD đến sự thoát hơi
N và hiệu quả sử dụng N trên đất lúa ngập nước cho thấy, khi bón phân urê cho lúa trong vụ
Đông Xuân thì tổng lượng N bốc thoát ở dạng NH3 trong cả vụ trên đất phù sa và đất phèn ở
4
nghiệm thức ngập nước liên tục (CF) chiếm 19,12% (3,41% lượng phân N bón vào). Ở nghiệm
thức AWD, bốc thoát NH3 chiếm 17,11% (2,65% lượng phân N bón vào).
Trần Quang Giàu (2011) nghiên cứu ảnh hưởng của biện pháp luân canh và quản lý
nước đến một số đặc tính đất và cân bằng NPK trên đất phèn nhẹ trồng lúa cho rằng, biện pháp
tưới tiết kiệm tuy không làm gia tăng năng suất so với tưới liên tục nhưng đã làm giảm EC và
hàm lượng Fe2+ trong dung dịch đất, đặc biệt giảm được lượng nước tưới, góp phần tiết kiệm
được chi phí sản xuất và giải quyết vấn đề thiếu nước đang đặt ra hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của Maninder Kaur Khosa et al. (2011) cho thấy, ở biện pháp bón
phân N theo truyền thống (bón phân N trong điều kiện đất ngập nước liên tục) làm tốc độ phát
thải CH4 giảm hơn so với chế độ bón thấm là do điều kiện kỵ khí mạnh không thể phát triển do
nước ngập không liên tục. Sau khi Eh giảm khoảng 0 thì lượng S2- và axit axêtic tăng lên, tiếp
theo có sự phát thải CH4.
Kết quả nghiên cứu của Trần Thị Ngọc Sơn và ctv. (2011) về ảnh hưởng của rơm rạ xử
lý bằng chế phẩm nấm Trichoderma đến năng suất lúa và hiệu quả kinh tế trồng lúa ở ĐBSCL
cho thấy, chế phẩm nấm Trichoderma có khả năng xử lý rơm rạ nhanh trên đồng ruộng, phù
hợp với điều kiện canh tác ở ĐBSCL, làm giảm tỷ lệ C/N trong rơm rạ còn 20,4 đến 21,4 và gia
tăng hàm lượng NPK. Xử lý rơm rạ bằng chế phẩm nấm Trichoderma góp phần giảm khoảng
30% NPK phân hóa học và gia tăng năng suất lúa cũng như tăng hiệu quả kinh tế trồng lúa và
cải thiện độ phì nhiêu đất.
Theo Tô Lan Phương và ctv. (2012) nghiên cứu ảnh hưởng của phân Biogro, phương
pháp tưới tiết kiệm nước đến năng suất lúa và phát thải khí nhà kính trên ruộng lúa cho rằng, khi
áp dụng kỹ thuật AWD làm cho cây lúa nảy chồi tốt hơn so với biện pháp CF. Kỹ thuật AWD
làm giảm lượng khí CH4 sinh ra nhưng lại làm gia tăng phát thải khí N2O ở giai đoạn lúa đẻ
nhánh.
5
CHƢƠNG 3: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Nội dung
Nghiên cứu được thực hiện qua 6 thí nghiệm như sau:
3.1.1 Thí nghiệm nhà lƣới
Ba thí nghiệm nhà lưới 1, 2 và 3 được thực hiện tại nhà lưới Bộ môn Khoa học Cây
trồng, Khoa NN và SHƯD, Trường ĐH Cần Thơ, vụ Hè Thu 2012.
Thí nghiệm 1: Ảnh hƣởng của kỹ thuật tƣới khô ngập luân phiên trên khả năng phát thải
khí nhà kính và năng suất lúa
- Thí nghiệm được bố trí theo thể thức hoàn toàn ngẫu nhiên, 3 nghiệm thức: (1) Tưới
ngập liên tục (CF, đối chứng); (2) Tưới khô ngập luân phiên khi lực giữ nước đạt 0,10 bar
(AWD1); (3) tưới khô ngập luân phiên khi lực giữ nước đạt 0,15 bar (AWD2). Thí nghiệm có 3
lần lặp lại, gồm 9 lô thí nghiệm với diện tích mỗi lô là 4 m2 (dài 2 m x rộng 2 m).
- Chỉ tiêu theo dõi: Chỉ số lực giữ nước, thế oxy hóa khử (Eh); phát thải CH4 và N2O
vào các giai đoạn 10, 20 và 45 ngày sau sạ (NSS), chỉ tiêu nông học, thành phần năng suất và
năng suất thực tế.
Thí nghiệm 2: Ảnh hƣởng của kỹ thuật bón thấm urê trên khả năng phát thải khí nhà
kính
- Thí nghiệm được bố trí theo thể thức hoàn toàn ngẫu nhiên, 3 nghiệm thức: (1) Bón
urê trong điều kiện ngập liên tục (FA, đối chứng); (2) Bón thấm urê ở ẩm độ đất 65%, sau đó
giữ mực nước ruộng 5 cm (PA1); (3) Bón thấm urê ở ẩm độ 65%, giữ mực nước ruộng 0 cm
trong 1 ngày sau đó giữ mực nước ruộng 5 cm (PA2). Thí nghiệm có 3 lần lặp lại, gồm 9 lô thí
nghiệm với diện tích mỗi lô là 4 m2 (dài 2 m x rộng 2 m).
- Các chỉ tiêu theo dõi: Bốc thoát NH3, phát thải CH4 và N2O vào 3 đợt bón phân 10, 20
và 45 NSS, các thông số pH, nhiệt độ tại thời điểm đo NH3.
Thí nghiệm 3: Ảnh hƣởng của phân hữu cơ lên khí phát thải nhà kính và năng suất lúa
- Thí nghiệm được bố trí theo thể thức hoàn toàn ngẫu nhiên, 3 nghiệm thức: Bón vùi 6
tấn rơm tươi/ha (BS, đối chứng); bón 3 tấn rơm/ha ủ nấm Trichoderma (OA1); bón 6 tấn
rơm/ha ủ nấm Trichoderma (OA2). Thí nghiệm có 3 lần lặp lại, 9 lô thí nghiệm với diện tích
mỗi lô là 4 m2 (dài 2 m x rộng 2 m).
- Chỉ tiêu theo dõi: Phát thải CH4 và N2O vào 3 đợt bón phân 10, 20 và 45 NSS, các chỉ
tiêu nông học, thành phần năng suất và năng suất thực tế.
3.1.2 Thí nghiệm đồng ruộng
Ba thí nghiệm đồng ruộng 4, 5, 6 được thực hiện tại xã Đông Thạnh, thị xã Bình Minh,
tỉnh Vĩnh Long, trong trong vụ Đông Xuân 2013-2014 (thí nghiệm 4) và Đông Xuân 2012-
2013 (thí nghiệm 5 và 6).
Thí nghiệm 4: Ảnh hƣởng của kỹ thuật tƣới khô ngập luân phiên trên khả năng phát thải
khí nhà kính và năng suất lúa
- Thí nghiệm được bố trí theo thể thức so sánh cặp (Matched Pair Design) hoàn toàn
ngẫu nhiên, 2 nghiệm thức: Tưới ngập liên tục (CF, đối chứng); tưới khô ngập luân phiên
(AWD). Thí nghiệm có 4 lần lặp lại, gồm 8 lô thí nghiệm với diện tích mỗi lô là 20 m2 (dài 5 m
x rộng 4 m).
- Chỉ tiêu theo dõi: Lượng nước tiết kiệm (WIS), hiệu quả sử dụng nước (WP), lượng
NH3 bốc thoát và phát thải N2O vào 3 đợt bón phân 10, 20 và 45 NSS, thành phần năng suất và
năng suất thực tế.
Thí nghiệm 5: Ảnh hƣởng của kỹ thuật bón thấm urê trên khả năng phát thải khí nhà
kính và năng suất lúa
6
- Thí nghiệm thừa số hai nhân tố bố trí trong khối hoàn toàn ngẫu nhiên. Nhân tố A gồm
3 mức bón N: (1) 0 kgN/ha, (2) 80 kgN/ha, (3) 120 kgN/ha. Nhân tố B gồm 3 mức độ quản lý
nước: (1) Quản lý nước ngập liên tục (CF), (2) Bón phân N khi đất “nứt chân chim”, sau đó cho
nước thấm vào ruộng (PA), (3) Bón phân N khi đất “nứt chân chim”, sau 1 ngày cho nước thấm
vào ruộng (PA'). Thí nghiệm có 4 lần lặp lại, gồm 36 lô thí nghiệm với diện tích mỗi lô là 20
m
2 (dài 5 m x rộng 4 m).
- Chỉ tiêu theo dõi: Thông số pH, nhiệt độ lúc đo bốc thoát NH3, bốc thoát NH3 vào 3
đợt bón phân 10, 20 và 45 NSS, các chỉ tiêu nông học; N trong hạt và rơm rạ, thành phần năng
suất và năng suất thực tế.
Thí nghiệm 6: Ảnh hƣởng của phân hữu cơ lên khí phát thải nhà kính và năng suất lúa
- Thí nghiệm được bố trí theo thể thức khối hoàn toàn ngẫu nhiên, 3 nghiệm thức:
Không vùi rơm (ĐC); bón 6 tấn rơm tươi/ha vào đất (BS); bón 6 tấn rơm/ha ủ với nấm
Trichoderma (OA), 4 lần lặp lại, gồm12 lô thí nghiệm với diện tích mỗi lô là 20 m2 (dài 5 m x
rộng 4 m).
- Chỉ tiêu theo dõi: Phát thải CH4 và N2O vào 3 đợt bón phân 10, 20 và 45 NSS, các chỉ
tiêu nông học, thành phần năng suất và năng suất thực tế.
3.2 Phƣơng pháp nghiên cứu
3.2.1 Phƣơng pháp thu thập và phân tích mẫu NH3, CH4 và N2O
- Lấy mẫu NH3 vào hai thời điểm: Buổi sáng (8 giờ - 10 giờ), buổi chiều (14 giờ - 16
giờ). Thông số pH, nhiệt độ và dòng khí đi qua bộ phận lọc được đo 2 lần vào buổi sáng và 2
lần vào buổi chiều trong thời gian lấy mẫu.
Công thức tính lượng NH3 bốc thoát:
F↓: Lượng NH3 bốc thoát (mgN/m
2
/giờ); Mabs: Lượng NH3 bốc thoát từ buồng đo
(chamber) (mgN); Camb: Nồng độ NH3 trong không khí xung quanh; Q: Thể tích không khí
xuyên qua chamber (m3); A: Diện tích của chamber (m2); t: thời gian thu mẫu (giờ); Cout: Nồng
độ NH3 bốc thoát từ chamber (mgN/m
3
).
- Đo mẫu khí CH4 và N2O bằng máy sắc ký khí tại Phòng thí nghiệm Bộ môn Khoa học
đất và Vi sinh, Viện Lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long.
3.2.2 Phân tích mẫu đất, cây và các chỉ tiêu phân tích
- Lấy mẫu đất vào thời điểm đầu vụ ở độ sâu 0-20 cm và 20–40 cm, để khô tự nhiên ở
nhiệt độ phòng, sau đó xác định pH, EC, sa cấu và N tổng số, lân tổng số, lân dễ tiêu, kali trao
đổi tại Phòng phân tích Phì nhiêu Đất, Bộ môn Khoa học đất, ĐHCT.
- Các chỉ tiêu nông học được ghi nhận ở các thời điểm 10, 20, 45, 65 và 90 NSS theo
phương pháp của IRRI (2002).
- Năng suất thực tế được lấy vào giai đoạn thu hoạch: Gặt 5,0 m2 đối với thí nghiệm
đồng ruộng hoặc 1,0 m2 đối với thí nghiệm nhà lưới, cân sinh khối hạt và rơm rạ sau đó ra hạt,
giê sạch và cân khối lượng, sau đó quy ra tấn/ha (ẩm độ 14%).
- Mẫu thân và hạt được lấy ở giai đoạn cuối vụ. Thu hoạch toàn bộ cây trong lô 1 m2 để
tính các thành phần năng suất và phân tích N trong thân và hạt.
- Các thành phần năng suất và năng suất thực tế:
Số bông/m2: Đếm tổng số bông trong mỗi khung (1 m2).
Số hạt/bông: Tổng số hạt thu được/Tổng số bông thu được/1 m2
Tỷ lệ hạt chắc = (Tổng số hạt chắc/Tổng số hạt) x 100%.
Khối lượng 1.000 hạt: Cân khối lượng 1.000 hạt của mỗi nghiệm thức (ẩm độ 14%)
- Phân tích N trong hạt và rơm rạ bằng phương pháp Kjeldahl.
7
3.3 Xử lý số liệu
Số liệu thí nghiệm được xử lý và tính toán bằng phần mềm Excel của Microsoft Office
và phân tích thống kê bằng phần mềm SPSS phiên bản 16.0.
8
CHƢƠNG 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1 Thí nghiệm nhà lƣới
4.1.1 Ảnh hƣởng của kỹ thuật tƣới khô ngập luân phiên trên khả năng phát thải khí nhà
kính và năng suất lúa
4.1.1.1 Phát thải khí CH4
Ở giai đoạn 10 và 20 và 45 NSS, nghiệm thức CF có khuynh hướng phát thải khí CH4
cao hơn nghiệm thức AWD1 và AWD2 nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Đến giai
đoạn 65 NSS thì lượng phát thải khí CH4 có khuynh hướng