Trong nền kinh tế Việt Nam, các DNNN nói chung và các Tập đoàn kinh tế nhà
nước nước nói riêng có vai trò quan trọng là trụ cột của nền kinh tế quốc gia thể hiện
qua tỷ lệ phần trăm đóng góp và nền kinh tế quốc dân của đất nước. Tuy nhiên, quá
trình quản lý đầu tư vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp này cũng bộc lộ những
vấn đề bất cập như kinh doanh thua lỗ, hoạt động kém hiệu quả, trong đó nổi lên
vấn đề hiệu quả sử dụng vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Điều này gây ảnh hưởng
lớn đến mục tiêu bảo toàn vốn nhà nước trong các doanh nghiệp này, để vốn nhà
nước kinh doanh có hiệu quả các doanh nghiệp Nhà nước sở hữu cần phải có sự
thay đổi về quản trị. Theo lý thuyết đại diện cho rằng những doanh nghiệp có vốn
Nhà nước đầu tư và doanh nghiệp khác được quản trị tốt hơn gắn với tập trung sở
hữu cao hơn và hiệu quả hoạt động tốt hơn. Ảnh hưởng của tập trung sở hữu lên
hiệu quả doanh nghiệp (được đo lường bằng lợi nhuận và giá trị doanh nghiệp) và
quan trọng đối với chủ sở hữu vốn Nhà nước là người đại diện vốn. Tại Việt Nam,
quản trị công ty đang trở thành chủ đề nóng trong các cuộc thảo luận của Chính
phủ, đặc biệt khi Chính phủ cam kết thúc đẩy mạnh cải cách DNNN hay còn gọi là
cổ phần hóa. Một trong những yếu tố quan trọng của cải cách DNNN là minh bạch
hóa tài chính và tính trách nhiệm của quản trị hiệu quả để nâng cao kết quả hoạt
động kinh doanh của các DNNN. Từ thực trạng nêu trên, tại Nghị quyết Hội nghị
TW3, Hội nghị TW9 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX và Nghị quyết
Đại hội Đảng lần X, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
151/2005/QĐ-TTg ngày 20/6/2005 thành lập Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh
vốn Nhà nước (SCIC). Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước là tổ chức
kinh tế đặc biệt của Chính phủ được thành lập theo yêu cầu khách quan của quá
trình sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả kinh doanh DNNN.
Để tìm hiểu thực trạng về tình hình hoạt động kinh doanh cũng như những
vướng mắc, trở lực ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp có
vốn Nhà nước do SCIC làm đại diện chủ sở hữu và đưa ra những kiến nghị và đề
xuất các giải pháp nhằm phát huy năng lực và nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt2
động kinh doanh vốn Nhà nước tại doanh nghiệp cuả SCIC là việc làm rất có ý
nghĩa về lý luận và thực tiễn. Chính vì vậy, nghiên cứu sinh chọn đề tài “Các
nhân tố tác động đến hiệu quả kinh doanh vốn Nhà nước nghiên cứu tại Tổng
công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC)” làm luận án tiến sĩ kinh
tế.
31 trang |
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 361 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Các nhân tố tác động đến hiệu quả kinh doanh vốn Nhà nước nghiên cứu tại Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ LUẬN ÁN
1.1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong nền kinh tế Việt Nam, các DNNN nói chung và các Tập đoàn kinh tế nhà
nước nước nói riêng có vai trò quan trọng là trụ cột của nền kinh tế quốc gia thể hiện
qua tỷ lệ phần trăm đóng góp và nền kinh tế quốc dân của đất nước. Tuy nhiên, quá
trình quản lý đầu tư vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp này cũng bộc lộ những
vấn đề bất cập như kinh doanh thua lỗ, hoạt động kém hiệu quả, trong đó nổi lên
vấn đề hiệu quả sử dụng vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Điều này gây ảnh hưởng
lớn đến mục tiêu bảo toàn vốn nhà nước trong các doanh nghiệp này, để vốn nhà
nước kinh doanh có hiệu quả các doanh nghiệp Nhà nước sở hữu cần phải có sự
thay đổi về quản trị. Theo lý thuyết đại diện cho rằng những doanh nghiệp có vốn
Nhà nước đầu tư và doanh nghiệp khác được quản trị tốt hơn gắn với tập trung sở
hữu cao hơn và hiệu quả hoạt động tốt hơn. Ảnh hưởng của tập trung sở hữu lên
hiệu quả doanh nghiệp (được đo lường bằng lợi nhuận và giá trị doanh nghiệp) và
quan trọng đối với chủ sở hữu vốn Nhà nước là người đại diện vốn. Tại Việt Nam,
quản trị công ty đang trở thành chủ đề nóng trong các cuộc thảo luận của Chính
phủ, đặc biệt khi Chính phủ cam kết thúc đẩy mạnh cải cách DNNN hay còn gọi là
cổ phần hóa. Một trong những yếu tố quan trọng của cải cách DNNN là minh bạch
hóa tài chính và tính trách nhiệm của quản trị hiệu quả để nâng cao kết quả hoạt
động kinh doanh của các DNNN. Từ thực trạng nêu trên, tại Nghị quyết Hội nghị
TW3, Hội nghị TW9 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX và Nghị quyết
Đại hội Đảng lần X, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
151/2005/QĐ-TTg ngày 20/6/2005 thành lập Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh
vốn Nhà nước (SCIC). Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước là tổ chức
kinh tế đặc biệt của Chính phủ được thành lập theo yêu cầu khách quan của quá
trình sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả kinh doanh DNNN.
Để tìm hiểu thực trạng về tình hình hoạt động kinh doanh cũng như những
vướng mắc, trở lực ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp có
vốn Nhà nước do SCIC làm đại diện chủ sở hữu và đưa ra những kiến nghị và đề
xuất các giải pháp nhằm phát huy năng lực và nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt
2
động kinh doanh vốn Nhà nước tại doanh nghiệp cuả SCIC là việc làm rất có ý
nghĩa về lý luận và thực tiễn. Chính vì vậy, nghiên cứu sinh chọn đề tài “Các
nhân tố tác động đến hiệu quả kinh doanh vốn Nhà nước nghiên cứu tại Tổng
công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC)” làm luận án tiến sĩ kinh
tế.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Luận án thực hiện giải quyết 03 mục tiêu
Thứ nhất, tìm hiểu về hiệu quả kinh doanh VNN của SCIC tại doanh nghiệp và
các nhân tố tác động đến hiệu quả kinh doanh vốn Nhà nước tại doanh nghiệp.
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng hiệu quả kinh doanh vốn Nhà nước tại
doanh nghiệp của SCIC. Trên cơ sở phân tích định tính và phân tích định lượng; xác
định được điểm mạnh, điểm yếu, nguyên nhân của những điểm yếu trong hoạt động
kinh doanh vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp có vốn Nhà nước sở hữu để xác định
các nhân tố tác động đến hiệu quả kinh doanh vốn Nhà nước tại SCIC.
Thứ ba, đề xuất đưa ra những quan điểm, những giải pháp kiến nghị nhằm nâng
cao hiệu quả kinh doanh vốn Nhà nước tại SCIC.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu
Luận án làm rõ 03 câu hỏi nghiên cứu sau:
1. Những yếu tố nào tác động đến hiệu quả kinh doanh vốn Nhà nước tại doanh
nghiệp có vốn Nhà nước sở hữu?
2. Thực trạng kinh doanh vốn Nhà nước của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh
vốn Nhà nước hoạt động như thế nào? Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt
động kinh doanh vốn Nhà nước chưa đạt hiệu quả.
3. Những kiến nghị nào có thể rút ra cho việc nâng cao hiệu quả kinh doanh vốn
Nhà nước tại doanh nghiệp có vốn Nhà nước sở hữu của SCIC.
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.4.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của luận án hiệu quả kinh doanh vốn Nhà nước và các
nhân tố tác động đến hiệu quả kinh doanh vốn Nhà nước tại doanh nghiệp.
3
1.4.2. Phạm vi
- Về nội dung: Hiệu quả kinh doanh vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp có vốn
Nhà nước sở hữu được nghiên cứu theo cách tiếp cận quá trình quản lý với các nội
dung: (1) Ban hành chính sách quy định pháp luật về quản lý vốn Nhà nước tại doanh
nghiệp bao gồm các chính sách quy định về đầu tư, kinh doanh vốn Nhà nước vào các
doanh nghiệp, sử dụng vốn; (2) Tổ chức thực hiện kinh doanh vốn Nhà nước (3) Giám
sát kiểm tra việc vốn Nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp. Chủ thể ở đây là SCIC với vai
trò đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước tại doanh nghiệp.
- Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng kết quả hoạt động của SCIC từ năm 2012-
2016. Giải pháp và đề xuất cho đến năm 2025.
- Về không gian: Nghiên cứu xác định phạm vi các doanh nghiệp Nhà nước đã
cổ phần hóa sau khi Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước tiếp nhận
quyền đại diện chủ sở hữu, tác giả nghiên cứu 143 doanh nghiệp, số liệu thứ cấp từ
2012-2016. Giải pháp cho đến năm 2025.
1.5. Phương pháp và quy trình nghiên cứu
1.5.1. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng cả phương pháp nghiên cứu định tính, định lượng và nghiên
cứu thực nghiệm để phục vụ cho quá trình nghiên cứu.
1.5.2. Quy trình nghiên cứu
1.5.2.1. Nghiên cứu định tính:
Nghiên cứu định tính được tiến hành để khám phá nhân tố nhân tố đặc thù ảnh
hưởng đến hiệu quả kinh doanh vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Nghiên cứu định
được thực hiện thông qua phỏng vấn sâu 14 cán bộ Ban đổi mới doanh nghiệp Văn
phòng Chính phủ và 07 chuyên gia nghiên cứu về vấn đề kinh doanh vốn Nhà nước tại
doanh nghiệp. Thời gian thực hiện từ tháng 4 năm 2016.
1.5.2.2. Nghiên cứu thực nghiệm
Tác giả tiến hành nghiên cứu thực nghiệm trong nghiên cứu thực trạng kinh
doanh vốn Nhà nước của SCIC tại doanh nghiệp
Chọn mẫu và thu thập thông tin dữ liệu đối nghiên cứu thực nghiệm
1 Chọn mẫu: Luận án sẽ tiến hành nghiên cứu các doanh nghiệp có vốn Nhà
nước thuộc Tổng công ty SCIC quản lý làm đại diện chủ sở hữu tính đến thời điểm
4
tháng 12/2016 (tác giả nghiên cứu 143 doanh nghiệp gồm nhóm chiến lược, nhóm đầu
tư linh hoạt và doanh nghiệp thoái vốn) được phân ra theo nhóm A1, A2, B1, B2. Thời
kỳ lấy số liệu là giai đoạn 2012-2016.
2 Quy trình thu thập dữ liệu
+ Các dữ liệu được tích lũy có hệ thống trong báo cáo tài chính, báo cáo của các
doanh nghiệp thuộc SCIC sẽ được giới hạn từ 2012-2016 và các báo cáo khác của SCIC.
Xử lý số liệu
Tổng hợp phân tích số liệu: Dữ liệu thu thập từ các báo cáo tài chính của
doanh nghiệp do SCIC quản lý phân tích số liệu, kiểm định mức độ phù hợp của mô
hình nghiên cứu tác động của các nhân tố đến hiệu quả kinh doanh của vốn Nhà nước
tại doanh nghiệp. Luận án nghiên cứu sử dụng sự hỗ trợ của phần mềm SPSS để chạy
mô hình.
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH VỐN NHÀ NƯỚC
TẠI DOANH NGHIỆP
2.1. Tổng quan các nghiên cứu có liên quan
2.1.1 Tổng quan về quản trị công ty
Quản trị công ty được xây dựng và phát triển trên lý thuyết được cho là nguồn
gốc và phổ biến là lý thuyết người đại diện. Theo lý thuyết này, “người đại diện” là
người sở hữu công ty nhưng không trực tiếp tham gia vào quản lý. Do đó, quản trị
công ty là việc giải quyết mối quan hệ giữa cổ đông và hoạt động của công ty. Theo
OECD (2004): QTCT là tổng hòa các mối quan hệ đầy đủ giữa quản lý công ty, các cổ
đông, ban giám đốc và các bên có liên quan. QTCT sẽ là cơ sở để thiết lập các mục
tiêu của công ty và các phương thức được đưa ra nhằm đạt được mục tiêu cũng như
kiểm soát các kết quả hoạt động. Lý thuyết đại diện cho rằng những công ty được
quản trị tốt hơn gắn với tập trung sở hữu cao hơn và hiệu quả hoạt động tốt hơn. Ảnh
hưởng của tập trung sở hữu lên hiệu quả doanh nghiệp (được đo lường bằng lợi nhuận
và giá trị doanh nghiệp) như nghiên cứu của Gedajlovic và Shapiro (2002) tìm thấy
mối quan hệ dương giữa tập trung sở hữu và hiệu quả tài chính của 334 doanh nghiệp
Nhật Bản trong giai đoạn 1986 -1991; Joh (2003) tìm thấy rằng những doanh nghiệp
Hàn Quốc có tập trung sở hữu thấp thường có lợi nhuận thấp trong giai đoạn 1993-
5
1997. Những phát hiện này là nhất quán phù hợp với dự đoán của lý thuyết đại diện
cho rằng những cổ đông lớn có thể giảm chi phí đại diện vì họ có thể giám sát những
người quản lý hiệu quả hơn những cổ đông nhỏ.
Một trong những tài liệu nghiên cứu nổi bật liên quan đến chính sách quản lý
phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước là: “Hướng dẫn của OECD về quản
trị doanh nghiệp tại các doanh nghiệp nhà nước” của Tổ chức Hợp tác và Phát triển
kinh tế (OECD, 2005). Trong hướng dẫn này, OECD đề cập đến những khó khăn
chính của các quốc gia khi quản lý các doanh nghiệp nhà nước; đó là: Thứ nhất, cân
bằng giữa trách nhiệm của nhà nước đối với việc chủ động thực hiện chức năng sở
hữu; ví dụ như bổ nhiệm và bầu hội đồng quản trị và ban kiểm soát; đồng thời lại
không được áp đặt hay can thiệp chính trị quá mức đối với tình hình quản trị doanh
nghiệp. Thứ hai, nhằm đảm bảo có một sân chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp tư
nhân và các doanh nghiệp nhà nước, trong đó nhà nước không tác động vào sự cạnh
tranh thông qua các quy định hoặc quyền hạn giám sát mà tham gia với vai trò tư cách
là cổ đông của nhà nước được thể hiện như sau:
Một là, Nhà nước cần đóng vai trò chủ sở hữu có hiểu biết và tích cực, đảm bảo
việc quản trị DN được thực hiện một cách minh bạch và có trách nhiệm với mức độ chuyên
nghiệp, hiệu quả cao. Nhà nước cần đóng vai trò như một chủ sở hữu luôn chủ động và
nắm rõ đầy đủ thông tin, thiết lập một chính sách về quyền sở hữu rõ ràng và nhất quán,
đảm bảo rằng việc quản trị tại các DNNN được thực hiện một cách minh bạch có trách
nhiệm, mang tính chuyên nghiệp đem lại hiệu quả, đảm bảo khuôn khổ pháp lý, quy định
hiệu quả cho các DNNN; đảm bảo một sân chơi bình đẳng trong thị trường mà DNNN và
công ty tư nhân cạnh tranh công bằng để tránh làm biến đổi thị trường.
Hai là, đối xử công bằng với các cổ đông: Nhà nước và các doanh nghiệp nhà
nước phải công nhận quyền của tất cả cổ đông, đảm bảo đối xử công bằng và bình
đẳng trong việc tiếp cận thông tin của công ty.
Ba là, Quan hệ với các bên có quyền lợi liên quan và hoạt động kinh doanh có
trách nhiệm. Chính sách sở hữu nhà nước cần công nhận đầy đủ trách nhiệm của
DNNN đối với các bên có quyền lợi liên quan và yêu cầu doanh nghiệp báo cáo về
mối quan hệ của họ với các bên có quyền lợi liên quan. Chính sách nên làm rõ mọi kỳ
vọng của nhà nước đối với quy tắc kinh doanh có trách nhiệm mà DNNN thực hiện.
6
Bốn là, Tính minh bạch và công bố thông tin: DNNN phải thực hiện tiêu chuẩn cao
về tính minh bạch và phải tuân thủ cùng các chuẩn mực kế toán, công bố thông tin, tuân
thủ và kiểm toán chất lượng cao như các công ty niêm yết. Đặc biệt nội dung thông tin
phải bao gồm các hoạt động của DNNN được thực hiện vì lợi ích chung của xã hội. Phù
hợp với năng lực và quy mô của doanh nghiệp.
2.1.2. Tổng quan hiệu quả kinh doanh vốn nhà nước.
Từ lý thuyết và thực tiễn cho thấy, một trong những các mục tiêu quan trọng nhất
của kinh doanh vốn nhà nước tại các doanh nghiệp là phải đảm bảo sử dụng vốn có hiệu
quả, tăng khả năng sinh lời đồng vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Liên quan đến mối quan
hệ giữa sở hữu nhà nước và chi phí đại diện, Mak & Li (2001) cho rằng chính phủ thường
có xu hướng kém chủ động trong việc kiểm soát khoản đầu tư của mình, đồng thời do
việc huy động vốn dễ dàng hơn, dẫn đến hiện tượng các công ty có vốn đầu tư của nhà
nước có cơ chế kiểm soát công ty kém hơn, hay nói cách khác sẽ làm tăng chi phí đại
diện. Tuy nhiên, Bos (1991) lại cho rằng ở những công ty mà chính phủ sở hữu phần lớn
vốn cổ phần, chính phủ lại có động cơ để kiểm soát công ty một cách chặt chẽ và hiệu
quả, do đó có thể làm giảm chi phí đại diện và nâng cao khả năng sinh lời cho công ty.
Nghiên cứu của Gumbau – Albert và Maudos (2002) đã phát hiện sự suy giảm về hiệu
quả hoạt động của công ty khi tăng tỷ lệ sở hữu của nhà nước Tương tự tác giả Li, Yue
và Zhao (2009) cho rằng, sở hữu nhà nước dễ dàng hơn trong việc tiếp cận các khoản nợ
dài hạn và có mối quan hệ dương giữa sở hữu nhà nước và đầu tư dài hạn và quan hệ âm
giữa sở hữu nhà nước và hiệu quả doanh nghiệp
2.2. Khoảng trống của các công trình đã công bố
Trên cơ sở tổng quan những nội dung và kết quả nghiên cứu chính của các công
trình có liên quan đến hiệu quả kinh doanh của DNNN được đề cập ở trên, có thể rút
ra những kết quả của các công trình khoa học đã công bố mà luận án có thể tiếp tục
cần nghiên cứu cụ thể:
Thứ nhất, hầu hết các nghiên cứu tập trung vào việc giải thích quản trị công ty, ban
điều hành công ty, trong khi có rất ít các nghiên cứu đi sâu vào hiệu quả kinh doanh phần
vốn Nhà nước tại doanh nghiệp đứng trên góc độ chủ sở hữu Nhà nước đại diện vốn tại
doanh nghiệp.
Thứ hai, Chưa có nghiên cứu cụ thể đối với việc hoạt động kinh doanh vốn
7
Nhà nước do Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) làm đại diện chủ sở
hữu. Trong đó, việc đại diện quản lý vốn Nhà nước tại Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh
vốn nhà nước hiện nay còn có nhiều bất cập, nhiều câu hỏi quản lý được đặt ra nhưng chưa
có câu trả lời đầy đủ như: cơ chế đầu tư vốn Nhà nước, cơ chế quản lý sử dụng vốn, cơ chế
giám sát, hình thức thực hiện quyền chủ sở hữu Nhà nước, quản trị công ty có vốn Nhà nước
và vai trò người đại diện vốn Nhà nước
Thứ ba, tại Việt Nam các nghiên cứu về hoạt động kinh doanh vốn Nhà nước,
chưa có một nghiên cứu nào xây dựng được mô hình đo lường mối quan hệ giữa hiệu
quả kinh doanh vốn Nhà nước với doanh nghiệp như: các yếu tố thuộc về đặc điểm
tài chính của doanh nghiệp, yếu tố thuộc về quản trị trong bối cảnh kinh tế, xã hội
hiện nay với điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ tư, tại Việt Nam các nghiên cứu trước đây chủ yếu tập trung vào việc quản lý
vốn Nhà nước tại DNNN nói chung. Tuy nhiên, để nghiên cứu về các nhân tố tác động
đến hiệu quả kinh doanh vốn Nhà nước tại SCIC thì chưa có nghiên cứu nào đề cập đến.
Như vậy, nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm về hiệu quả kinh doanh vốn Nhà nước tại
Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) còn khá ít và còn nhiều hạn
chế. Bởi một lẽ, đây là mô hình đại diện chủ sở hữu kinh doanh vốn Nhà nước mang
đặc trưng riêng, cơ chế tổ chức quản lý và nghiệp vụ quản lý khá mới mẻ ở Việt Nam.
Chính vì vậy, đây chính là khoảng trống để nghiên cứu sinh có mục tiêu nghiên cứu, có
chỗ đứng riêng, kế thừa nhưng không trùng lặp với các luận án, công trình khoa học
trước đó.
2.3. Các lý thuyết về quản trị công ty
2.3.1. Lý thuyết người đại diện
Quản trị công ty được xây dựng và phát triển trên lý thuyết được cho là nguồn
gốc và phổ biến là lý thuyết người đại diện. Theo lý thuyết này, “người đại diện” là
người sở hữu công ty nhưng không trực tiếp tham gia vào quản lý. Do đó, quản trị
công ty là cách thức hệ giải quyết mối quan hệ giữa cổ đông và hoạt động của công ty.
OECD (2004) đã đưa ra định nghĩa về quản trị công ty mang nghĩa rộng hơn; OECD
(2004) cho rằng quản trị công ty là tổng hòa các mối quan hệ đầy đủ giữa quản lý công
ty, các cổ đông, ban giám đốc và các bên có liên quan. Quản trị công ty sẽ là cơ sở để
8
thiết lập các mục tiêu của công ty và các phương thức được đưa ra nhằm đạt được mục
tiêu cũng như kiểm soát các kết quả hoạt động của công ty
2.3.2. Lý thuyết về nhà quản lý
Ý tưởng chính của lý thuyết nhà quản lý là phản ánh quan niệm về bổn phận và
trách nhiệm đối với người khác dựa trên việc duy trì mối quan hệ giao ước. Theo như
Penner, Dovidio, Piliavin và Schroeder (2005) thì các hành vi quản lý là một loại hành
động xã hội nhằm mục đích ảnh hưởng tích cực lên người khác.
Có thể thấy, hầu hết các lý thuyết về quản trị công ty bắt nguồn từ lợi ích cá
nhân. Tuy vậy, lý thuyết về nhà quản lý lại không đề cao lợi ích cá nhân.Trong khi “lý
thuyết người đại diện” giả định rằng các nhà quản lý làm việc nhằm cải thiện vị trí của
chính họ; Hội đồng quản trị tìm cách kiểm soát nhà quản lý và do đó, cần phải thu hẹp
khoảng cách giữa hai đối trọng này, thì lý thuyết về nhà quản lý lại chỉ ra rằng nhà quản
lý còn tìm kiếm các lợi ích khác ngoài lợi ích về kinh tế như: vị trí xã hội, lòng trắc ẩn,
danh tiếng tốt, việc hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, cảm giác hài lòng về công việc
và ý thức được làm việc vì mục đích tốt đẹp.“Lý thuyết về nhà quản lý” cũng chỉ ra rằng
các nhà quản lý tự họ muốn làm tốt công việc, tối đa hóa lợi nhuận của công ty và đem lại
lợi nhuận tốt cho các cổ đông. Họ không nhất thiết làm việc này vì lợi ích tài chính của
họ, mà họ cảm thấy có một trách nhiệm cao cả đối với công ty. Khi một công ty thực hiện
quản trị theo trường phái này thì một số chính sách sẽ tự nhiên được thiết lập.
2.3.4. Lý thuyết các bên có liên quan
Quản trị công ty chia các nhóm liên quan thành hai nhóm chính: bên trong và
bên ngoài công ty. Nhóm bên ngoài công ty gồm: cổ đông, chủ nợ, nhà cung cấp, nhà
cung cấp cho trả chậm, khách hàng và cơ quan quản lý. Nhóm bên trong hay còn gọi
là nhóm nội bộ công ty gồm: ban điều hành, nhân viên và Hội đồng quản trị của công
ty. Tất cả các bên tham gia đều nằm trong quá trình giám sát hiệu quả hoạt động của
công ty hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp nhưng ở các cấp độ khác nhau và với các mục
tiêu khác nhau. Theo Barger (2004), bên liên quan trực tiếp và đóng vai trò chủ đạo
trong việc quản lý công ty để đảm bảo tất cả các mục tiêu của công ty được hoàn thành
và tài sản của cổ đông đạt được mức tối đa là: các cổ đông, Hội đồng quản trị và nhân
sự quản lý cao cấp tham gia điều hành công ty hàng ngày thường được gọi là Giám
đốc điều hành hoặc Ban điều hành.
9
2.3.5. Khái quát các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh vốn nhà nước tại
doanh nghiệp
Dựa vào lý thuyết quản trị Công ty và lý thuyết người đại diện, dựa vào các nghiên
cứu thực nghiệm trước đây có liên quan, theo kết quả nghiên cứu đi trước cho thấy, có
nhiều yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, đối với hiệu quả kinh doanh vốn Nhà nước tại doanh nghiệp có những yếu tố
đặc thù ảnh hưởng so doanh nghiệp thông thường khác, kết quả hoạt kinh doanh của
doanh nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh vốn Nhà nước tại doanh
nghiệp ngoài các yếu tố về quản trị tác giả sẽ trình bày chi tiết tại phần nghiên cứu định
lượng tại chương 04, tại nghiên cứu này tác giả đưa ra 04 nhân tố có khả năng tác động
đến hiệu quả kinh doanh vốn Nhà nước tại doanh nghiệp cụ thể:
- Thời gian hoạt động của doanh nghiệp: Theo Arrow (1962), Jovanovic (1982),
Ericson và Pakes (1995) trong nghiên cứu của mình đã phát hiện mối quan hệ dương
giữa tuổi của một công ty và hiệu quả hoạt động của nó, tương tự Majumdar (1997)
cho rằng, doanh nghiệp hoạt động lâu năm có vị thế cao hơn trong hiệu quả so với
doanh nghiệp mới thành lập, Stinchcome (1965) cũng cho rằng, những doanh nghiệp
hoạt động lâu năm hơn có nhiều kinh nghiệm hơn do vậy có thể đạt hiệu quả cao hơn
trong khi nghiên cứu của Leonard-Barton (1992), Agarwal và Gort (1996 và 2002) lại
có kết quả ngược lại. Sự khác biệt này, theo nhóm nghiên cứu là do xuất phát từ những
ưu điểm và nhược điểm của một công ty lâu năm. Ưu điểm của các công ty hoạt động
lâu năm là có thương hiệu, trình độ của Ban điều hành đội ngũ nhân viên giàu kinh
nghiệm, nhờ đó làm tăng hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp có vốn Nhà nước,
nhược điểm là kỹ năng và nguồn nhân lực lỗi thời so với các công ty mới thành lập và
cấu trúc hoạt động các công ty này cũng cứng nhắc hơn và khó thay đổi khi cần thiết.
- Tỷ lệ sở hữu vốn Nhà nước sở hữu tại doanh nghiệp: Theo Li, Yue và Zhao
(2009) cho rằng tỷ lệ sở hữu Nhà nước lớn tại doanh nghiệp công ty dễ dàng hơn trong