Bướu tuyến mang tai chiếm tỉ lệ 3% trong tất cả bướu vùng đầu
cổ, có 80% là bướu hỗn hợp lành tính. Thùy nông tuyến mang tai chiếm
80% nhu mô tuyến mang tai. Khoảng 90% bướu hỗn hợp lành ở thùy
nông tuyến mang tai.
Phẫu thuật là phương pháp điều trị chính yếu cho bướu hỗn hợp
tuyến mang tai. Trước đây, việc điều trị bằng phẫu thuật thường không
đạt hiệu quả an toàn bởi vì để đạt được tỉ lệ tái phát thấp thì thường phải
hy sinh dây thần kinh mặt khi cắt trọn tuyến mang tai. Ngược lại nếu
chỉ lấy bướu để bảo tồn dây thần kinh mặt thì tỉ lệ tái phát rất cao. Năm
1934, Henri Redon và Podovani đã đề xuất và thực hiện cắt bỏ tuyến
mang tai toàn phần có bảo tồn thần kinh mặt bằng cách bóc tách tỉ mỉ
và giữ lại tất cả các nhánh của dây thần kinh này. Để hạn chế những
biến chứng sau mổ của phẫu thuật cắt tuyến mang tai toàn phần có bảo
tồn thần kinh mặt mà không làm tăng tỉ lệ tái phát, phẫu thuật cắt thùy
nông tuyến mang tai đã mang lại hiệu quả nhất định và đã được chấp
nhận rộng rãi trong điều trị bướu hỗn hợp ở thùy nông tuyến mang tai.
Trong những năm gần đây, nhằm hạn chế đến mức tối đa các biến
chứng, phẫu thuật cắt một phần thùy nông tuyến mang tai được lựa
chọn cho tất cả các bệnh nhân bướu lành tuyến mang tai có kích thước
nhỏ hơn 4cm, ở thùy nông nhằm làm giảm tối đa biến chứng liệt thần
kinh mặt tạm thời sau mổ và hội chứng Frey nhưng tỉ lệ tái phát không
cao hơn so với các phẫu thuật kinh điển để nâng cao chất lượng cuộc
sống cho bệnh nhân.
27 trang |
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 388 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Kết quả cắt một phần thùy nông tuyến mang tai trong điều trị bướu hỗn hợp lành, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC Y DƢỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN HỮU PHÚC
KẾT QUẢ CẮT MỘT PHẦN
THÙY NÔNG TUYẾN MANG TAI
TRONG ĐIỀU TRỊ BƢỚU HỖN HỢP LÀNH
Chuyên ngành: Ung thư
Mã số: 62720149
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2017
Công trình được hoàn thành tại:
ĐẠI HỌC Y DƢỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Người hướng dẫn khoa học:
GS.TS. NGUYỄN SÀO TRUNG
Phản biện 1: PGS.TS. NGÔ THU THOA
Bệnh viện K Hà Nội
Phản biện 2: PGS.TS. HUỲNH QUYẾT THẮNG
Bệnh viện Ung bướu Cần Thơ
Phản biện 3: TS. PHẠM XUÂN DŨNG
Bệnh viện Ung bướu Thành Phố Hồ Chí Minh
Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Trường họp tại:
Đại Học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh
Vào lúc. giờ. ngày.. tháng năm
Có thể tìm hiểu thêm về luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Khoa học Tổng hợp TP.HCM
- Thư viện Đại học Y Dược TP.HCM
1
GIỚI THIỆU LUẬN ÁN
1. Đặt vấn đề
Bướu tuyến mang tai chiếm tỉ lệ 3% trong tất cả bướu vùng đầu
cổ, có 80% là bướu hỗn hợp lành tính. Thùy nông tuyến mang tai chiếm
80% nhu mô tuyến mang tai. Khoảng 90% bướu hỗn hợp lành ở thùy
nông tuyến mang tai.
Phẫu thuật là phương pháp điều trị chính yếu cho bướu hỗn hợp
tuyến mang tai. Trước đây, việc điều trị bằng phẫu thuật thường không
đạt hiệu quả an toàn bởi vì để đạt được tỉ lệ tái phát thấp thì thường phải
hy sinh dây thần kinh mặt khi cắt trọn tuyến mang tai. Ngược lại nếu
chỉ lấy bướu để bảo tồn dây thần kinh mặt thì tỉ lệ tái phát rất cao. Năm
1934, Henri Redon và Podovani đã đề xuất và thực hiện cắt bỏ tuyến
mang tai toàn phần có bảo tồn thần kinh mặt bằng cách bóc tách tỉ mỉ
và giữ lại tất cả các nhánh của dây thần kinh này. Để hạn chế những
biến chứng sau mổ của phẫu thuật cắt tuyến mang tai toàn phần có bảo
tồn thần kinh mặt mà không làm tăng tỉ lệ tái phát, phẫu thuật cắt thùy
nông tuyến mang tai đã mang lại hiệu quả nhất định và đã được chấp
nhận rộng rãi trong điều trị bướu hỗn hợp ở thùy nông tuyến mang tai.
Trong những năm gần đây, nhằm hạn chế đến mức tối đa các biến
chứng, phẫu thuật cắt một phần thùy nông tuyến mang tai được lựa
chọn cho tất cả các bệnh nhân bướu lành tuyến mang tai có kích thước
nhỏ hơn 4cm, ở thùy nông nhằm làm giảm tối đa biến chứng liệt thần
kinh mặt tạm thời sau mổ và hội chứng Frey nhưng tỉ lệ tái phát không
cao hơn so với các phẫu thuật kinh điển để nâng cao chất lượng cuộc
sống cho bệnh nhân.
Câu hỏi đặt ra trong nghiên cứu là khi thực hiện phẫu thuật cắt
một phần thùy nông tuyến mang tai tại Bệnh viện Ung Bướu thì tỉ lệ tái
phát sau phẫu thuật có tương đương với các phẫu thuật kinh điển trước
2
đây hay không? Phẫu thuật này có mang lại những lợi ích đáng kể cho
bệnh nhân và chúng tôi có thể áp dụng phẫu thuật này như một phẫu
thuật tiêu chuẩn để điều trị cho những bệnh nhân có bướu tuyến mang
tai có kích thước nhỏ hơn 4cm nằm ở thùy nông hay không?
Thực hiện đề tài này chúng tôi có các mục tiêu nghiên cứu sau:
1. Xác định tỉ lệ tái phát sau phẫu thuật cắt một phần thùy nông
tuyến mang tai trong điều trị bướu hỗn hợp lành.
2. Xác định các yếu tố liên quan đến biến chứng liệt thần kinh
mặt tạm thời, hội chứng Frey.
3. Đánh giá kết quả thẩm mỹ của các phương pháp tạo hình
khuyết hổng sau phẫu thuật cắt một phần thùy nông tuyến mang tai.
2. Tính cấp thiết của đề tài
Phẫu thuật bướu lành tuyến mang tai đã trải qua một lịch sử lâu
dài với nhiểu cải tiến kỹ thuật, mục đích nhằm hạn chế tái phát và sau
đó làm giảm thiểu các biến chứng nghiêm trọng như liệt dây thần kinh
mặt tạm thời, hội chứng Frey và thêm vào đó là lấy đầy khuyết hổng
sau phẫu thuật. Bệnh viện Ung Bướu là nơi có bề dày kinh nghiệm phẫu
thuật các loại bướu tuyến nước bọt hỗn hợp.
Trong các thập niên vừa qua khuynh hướng trên thế giới là phẫu
thuật tối thiểu cho các bướu lành tuyến mang tai có kích thước nhỏ ở
thùy nông tuyến mang tai Lợi điểm chủ yếu của phẫu thuật này là hạn
chế tỉ lệ liệt thần kinh mặt sau mổ, tần xuất hội chứng Frey so với các
phẫu thuật kính điển trước đây như cắt thùy nông tuyến mang tai, cắt
tuyến mang tai toàn phần có bảo tồn thần kinh mặt nhưng vẫn đảm bảo
về mặt ung bướu với một tỉ lệ tái sau sau mổ thấp tương đương với các
phẫu thuật kinh điển trước đây. Do đó nghiên cứu “Kết quà cắt một
phần thùy nông tuyến mang trong điều trị bướu hỗn hợp lành” sẽ đóng
3
thêm những kinh nghiệm và dữ liệu cho điều trị loại bệnh lý này ở Việt
Nam.
3. Những đóng góp mới của luận án
Nghiên cứu đánh giá kết quả điều trị của một loại kỹ thuật mới so
với các kỹ thuật mổ trinh điển trước dây cho thấy tỉ lệ kiểm soát bướu
của loại phẫu thuật này tương tư, nhưng đả làm giảm đáng kê tỉ lệ liệt
thần kinh mặt cũng như hội chứng Frey sau mổ. Nghiên cứu cũng phân
tích các yếu tố liên quan dến tình trạng liệt thần kinh mặt tạm thời sau
mổ.
Tạo hình khuyết hổng sau phẫu thuật cắt một phần thùy nông
tuyến mang tai được thực hiện một cách thường qui cho bệnh nhân sau
phẫu thuật nhằm che lấp khuyết hổng sau phẫu thuật mang lại kết quả
thẫm mỹ cao sau phẫu thuật. Đây cũng là điểm mới trong nghiên cứu.
4. Bố cục của luận án
Luận án dày 120 trang gồm: Đặt vấn đề: 2 trang; Tổng quan tài
liệu: 40 trang; Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 11 trang; Kết
quả: 22 trang; Bàn luận: 43 trang; Kết luận và kiến nghị: 2 trang. Có 33
bảng, 33 hình, 5 biểu đồ và 2 sơ đồ, 182 tài liệu tham khảo, trong đó có
19 tài liệu tiếng Việt.
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.5 Điều trị bƣớu tuyến mang tai
1.5.1. Ý nghĩa diện cắt trong phẫu thuật tuyến mang tai
Vào những năm của nửa đầu của thế kỷ 20, phẫu thuật bướu hỗn
hợp chủ yếu là bóc bướu trong vỏ bao. Thời gian này, phẫu thuật viên
quan tâm nhiều đến tổn thương thần kinh mặt hơn là sự tái phát. Chấn
thương thần kinh mặt tương đối ít gặp nhưng tỉ lệ tái phát tại chỗ lên
đến 35%, cao đến mức không thể chấp nhận được.
4
Theo Henri Redon và Jacques Delarue, đa số các trường hợp
bướu hỗn hợp không có vỏ bao. Vỏ bao của bướu chỉ là một vỏ bao giả
do chèn ép cơ học. Do đó phẫu thuật bóc bướu có thể để sót lại những
chồi bướu ngoài vỏ bao và đây là nguyên nhân dẫn đến tái phát. Tác giả
cũng ghi nhận bướu nguyên phát thường có nhiều ổ, ở vị trí cách xa
bướu chính, có khi ở thùy còn lại. Những ổ bướu ở xa thường là những
ổ vi thể và rất khó được phát hiện. Tính đa ổ trong bướu hỗn hợp chiếm
tỉ lệ cao và đặc biệt trong các trường hợp bướu tái phát. Năm 1934,
Henri Redon đề xuất một loại phẫu thuật mang tên ông: “Cắt tuyến
mang tai toàn phần bảo tồn thần kinh mặt” với mục đích phẫu tích lấy
toàn bộ mô tuyến mang tai ở lần phẫu thuật đầu tiên. Những tranh luận
về việc xử trí đúng mức bướu hỗn hợp tuyến mang tai phát xuất từ
những ghi nhận có tính trái ngược nhau trên y văn về tính đa ổ của bướu
nguyên phát.. Ngày nay các nghiên cứu đều nhận định tỉ lệ bướu đa ổ
rất thấp dưới 2% và nhận thấy khoảng 90% các trường hợp bướu hỗn
hợp tuyến mang tai xuất phát từ thùy nông tuyến mang tai. Do vậy, việc
coi tính đa ổ là nguyên nhân của sự tái phát bướu đã không còn được
ủng hộ nhiều.
Năm 1957, Martin và sau đó là Patey và Thackray, đã đề nghị cắt
thùy nông tuyến mang tai đối với bướu hỗn hợp ở thùy nông dựa trên
những ghi nhận kết hợp giữa phẫu thuật và mô bệnh học, với lý do là
tránh bỏ sót những sang thương vệ tinh trong quá trình bóc bướu. Các
tác giả chứng minh được vỏ bao của bướu có nhiều nơi bị thiếu và có
nhiều ổ bướu vi thể bên ngoài bướu chính. Vì vậy, tái phát hoặc mổ còn
sót đều do những ổ bướu này được để lại sau phẫu thuật, nhất là mổ
“bóc nhân” có tỉ lệ tái phát rất cao. Phương pháp cắt thùy nông là một
kỹ thuật được chấp nhận rộng rãi nhất trong điều trị bướu hỗn hợp ở
thùy nông. Ngày nay, phẫu thuật cắt thùy nông vẫn được xem là phẫu
5
thuật tiêu chuẩn trong điều trị bướu hỗn hợp tuyến mang tai với tỉ lệ tái
phát 0-5%. Đây là một tỉ lệ chấp nhận được. Tuy nhiên việc bóc tách
toàn bộ các nhánh của thần kinh mặt, lấy đi phần lớn mô tuyến mang tai
có thể gây ra nhiều biến chứng hậu phẫu như liệt thần kinh mặt tạm thời
kéo dài, tần suất hội chứng Frey cao. Tỉ lệ liệt thần kinh mặt vĩnh viễn
sau cắt tuyến mang tai toàn phần 5-10%, tỉ lệ liệt thần kinh mặt tạm thời
có thể lên đến 20-50%. Tỉ lệ này trong cắt thùy nông tuyến mang tai
chiếm lần lượt là 5-8% và 15-25%. Tần suất của hội chứng Frey theo
nhiều tác giả sau cắt thùy nông trên 10% và sau cắt tuyến mang tai toàn
phần trên 30%. Vì những biến chứng hậu phẫu này chiếm một tỉ lệ khá
cao khi điều trị một bệnh lý lành nên trong suốt 20 năm qua, một số kỹ
thuật cắt một phần tuyến mang tai đã được giới thiệu với mục đích là
chỉ bóc tách một phần thần kinh mặt và chỉ lấy đi một phần tuyến mang
tai. Những tiến bộ của kỹ thuật này làm giảm đáng kể tỉ lệ liệt thần kinh
mặt tạm thời và hội chứng Frey. Theo dõi trong thời gian dài cho thấy
những kỹ thuật này không làm gia tăng tỉ lệ tái phát của bướu hỗn hợp.
Với mong muốn có được hiệu quả tốt hơn, tỉ lệ biến chứng thấp hơn,
bảo tồn được chức năng tuyến mang tai, trong những năm gần đây có
nhiều cải tiến về mặt kỹ thuật mổ như cắt một phần tuyến mang tai hoặc
cắt bướu ngoài vỏ bao. Y văn cũng ghi nhận sau phẫu thuật cắt một
phần thùy nông tuyến mang tai hay cắt bướu ngoài vỏ bao, tỉ lệ biến
chứng giảm đi rõ rệt so với các phẫu thuật tiêu chuẩn trước đây. Các kết
quả này cũng nhận định rằng lượng mô tuyến mang tai cắt bỏ đi dường
như là một trong những yếu tố nguy cơ chính cho sự phát triển các biến
chứng.Những phẫu thuật này dựa trên nguyên lý cơ bản là lấy đi vài
milimét mô tuyến bình thường bao quanh bướu cũng đủ để ngăn ngừa
tái phát. Nhìn chung đây là những phẫu
6
1.6. Biến chứng sau phẩu thuật cắt tuyến mang tai
1.6.1. Liệt thần kinh mặt
Biến chứng liệt dây thần kinh mặt có nhiều mức độ khác nhau,
liệt mặt chiếm tỷ lệ khoảng 10-30%, liệt mặt kéo dài < 3%. Tỷ lệ liệt
mặt trong phẫu thuật cắt tuyến mang tai toàn phần bảo tồn thần kinh
mặt cao hơn trong cắt thùy nông. Thời gian hồi phục liệt mặt tạm thời
sau phẫu thuật cắt thùy nông nhanh hơn do ít bóc tách nâng mạng thần
kinh mặt, ít sang chấn hơn so với phẫu thuật cắt tuyến mang tai toàn
phần. Theo tác giả Witt, tỉ lệ liệt thần kinh mặt tạm thời là 80% sau
phẫu thuật cắt tuyến mang tai toàn phần bảo tồn thần kinh mặt, 20% sau
cắt thuỳ nông tuyến mang tai và không có trường hợp nào liệt thần kinh
mặt vĩnh viễn.
1.6.2. Hội chứng Frey
Tần suất mắc hội chứng Frey thay đổi theo mức độ để ý trong
chẩn đoán và thời gian sau phẫu thuật cắt tuyến mang tai, khoảng 10%,
có thể đến 30-40% nếu đánh giá chính xác. Nếu dùng test Minor, tỉ lệ
dương tính có thể lên đến 95% trên tất cả các bệnh nhân trải qua phẫu
thuật cắt tuyến mang tai. Tỉ lệ hội chứng Frey sau mổ cắt tuyến mang
tai là 10-30%. Việc bóc tách tất cả các nhánh của thần kinh mặt trong
phẫu thuật cắt tuyến mang tai dẫn đến gia tăng nhiều hơn tỷ lệ tổn
thương thần kinh mặt và hội chứng Frey. Khi thực hiện phẫu thuật cắt
một phần thùy nông tuyến mang tai chỉ bóc tách những nhánh thần kinh
mặt gần khối bướu giúp giảm đáng kể nguy cơ tổn thương thần kinh
mặt. Thêm vào đó, mô tuyến mang tai được cắt đi ít hơn làm giảm đi tỷ
lệ hội chứng Frey.
1.6.3. Khuyết hổng sau phẫu thuật cắt tuyến mang tai
Phẫu thuật cắt tuyến mang tai làm loại bỏ nhiều hoặc hầu hết tế
bào tuyến. Mức độ không cân xứng hai bên mặt phụ thuộc vào thể tích
7
mô được loại bỏ sau phẫu thuật cắt tuyến mang tai, để lại khuyết hổng
sau xương hàm dưới gây lõm đường cong khuôn mặt. Để tránh sự biến
dạng khuôn mặt, một số kỹ thuật đã phát triển giúp ngăn ngừa các biến
chứng này. Tỉ lệ khuyết hổng sau mổ là 9-34%.
Vạt cơ ức đòn chũm thường được dùng để tạo hình sau phẫu
thuật. Vạt này có thể dùng đơn độc hay kết hợp với các vạt khác nhằm
làm tăng hiệu quả che lấp khuyết hổng. Đường mổ cổ điển hay đường
mổ căng da mặt trong phẫu thuật tuyến mang tai giúp đánh giá đầy đủ
toàn bộ cơ ức đòn chũm cho phép lấy vạt dựa vào cuống trên hay cuống
dưới hoặc vạt cả hai cuống.
Phẫu thuật cắt một phần thùy nông tuyến mang tai cho thấy tỷ lệ
tái phát và hội chứng Frey thấp, tổn thương thần kinh mặt cũng thấp khi
so sánh với các kỹ thuật khác. Hơn thế nữa, việc bảo tồn tuyến mang tai
được sử dụng để đạt được sự phục hồi khuyết hổng tốt hơn do đó cắt
một phần tuyến mang tai là điểm mấu chốt trong việc cải thiện thẩm mỹ
trong phẫu thuật bướu hỗn hợp tuyến mang tai.
1.6.4. Tụ dịch sau phẫu thuật cắt tuyến mang tai
Tụ dịch nước bọt là một biến chứng thường xảy ra sau phẫu thuật
cắt tuyến mang tai. Dù đây là biến chứng khá phổ biến nhưng có rất ít
thông tin trong y văn liên quan đến nguyên nhân của hiện tượng này. Tụ
dịch nước bọt là tình trạng dịch nước bọt tích tụ sau mổ ở vết thương
trong những ngày đầu hậu phẫu. Hầu hết các trường hợp tự ít dần, có
thể tự khỏi sau vài tuần mà không cần điều trị. Biến chứng này có thể
làm cho bệnh nhân lo ngại, đôi khi dẫn đến tình trạng nhiễm trùng.
8
Chƣơng 2
ĐỐI TƢƠNG PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn mẫu
Các trường hợp bướu tuyến mang tai được điều trị tại khoa Ngoại
3 Bệnh viện Ung Bướu TP. Hồ Chí Minh từ tháng 3/2010 đến tháng
12/2013 thỏa tiêu chuẩn
Bướu ở thùy nông có kích thước nhỏ hơn 4cm được xác định trên
siêu âm.
Có kết quả FNA và giải phẫu bệnh sau mổ phù hợp là bướu hỗn
hợp.
Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
Bướu tuyến mang tai tái phát.
Diện cắt phẫu thuật còn bướu.
Bướu vỡ vỏ bao trong lúc phẫu thuật.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi lựa chọn được 145 bệnh nhân
vào lô nghiên cứu, trong quá trình phẫu tích cắt một phần thùy nông
tuyến mang tai, 5 trường hợp chúng tôi làm vỡ vỏ bao bướu trong lúc
phẫu thuật. Các trường hợp này chúng tôi chuyển sang phẫu thuật cắt
thùy nông tuyến mang tai. Có 5 trường hợp kết quả FNA trước mổ là
bướu hỗn hợp, nhưng kết quả giải phẫu bệnh sau mổ là bướu tuyến đơn
dạng 3 trường hợp, 2 trường hợp là bướu tuyến tế bào đáy. Các trường
hợp này chúng tôi loại khỏi mẫu nghiên cứu. Như vậy, chúng tôi chọn
được 135 bệnh nhân đưa vào phân tích.
2.2. Thiết kế nghiên cứu
Mô tả loạt ca, có theo dõi dọc
9
Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong thời gian từ tháng 32010 đến tháng 12/2013 chúng tôi ghi
nhận 135 trường hợp được thực hiện phẫu thuật cắt một phần thùy nông
tuyến mang tai tại Khoa Ngoại 3 Bệnh Viện Ung Bướu đủ tiêu chuẩn
chọn bệnh vào mẫu nghiên cứu.
3.1. Đặc điểm nhóm bệnh nhân nghiên cứu
3.1.1. Tuổi, giới
Độ tuổi thường gặp trong nghiên cứu là 40-60, tuối trung bình:
40,7 ± 12,3 tuổi. Giới tính: Nữ giới thường gặp hơn nam giới, tỉ lệ nữ:
nam là 3:1.
3.1.3. Thời gian khởi bệnh
Thời gian khởi bệnh trung bình: 33,4 tháng, thời gian khởi bệnh
trung vị: 24 tháng (1 -120 tháng).
3.1.5. Kích thƣớc bƣớu
Kích thước bướu trung bình: 22,8 mm (10-39mm).
3.2. Các phƣơng tiện chẩn đoán
3.2.1. Kết quả FNA
Tất cả 135 trường hợp bướu tuyến mang tai được chọn lựa vào
mẫu nghiên cứu đều có kết quả là bướu hỗn hợp.
3.2.2. Kết quả siêu âm
Kết quả siêu âm được các bác sĩ chẩn đoán hình ảnh ghi nhận là
bướu hỗn hợp chiếm tỉ lệ cao: 120 trường hợp chiếm tỉ lệ 88,9%.
3.3. Điều trị
3.3.2. Vị trí bƣớu so với thần kinh mặt
Phần lớn các trường hợp bướu tuyến mang tai nằm ở cực dưới
của tuyến mang tai, dưới nhánh cổ mặt chiếm tỉ lệ cao: 85 trường hợp
chiếm tỉ lệ 63%.
10
3.3.3. Thời gian phẫu thuật
Thời gian phẫu thuật trung bình: 78,9 phút (40-140 phút).
3.3.4. Số nhánh thần kinh mặt bóc tách
Tỉ lệ bóc tách từ 3 đến 4 nhánh thần kinh mặt chiếm tỉ lệ cao
khoảng 63,7% các trường hợp bướu tuyến mang tai.
3.3.5. Tái tạo khuyết hổng sau phẫu thuật
Trong nghiên cứu chúng tôi ghi nhận có 131 trường hợp có tái
tạo, 4 trường hợp còn lại do phẫu thuật viên đánh giá sau phẫu thuật có
khuyết hổng nhỏ, mô tuyến mang tai phì đại, thể tích tuyến mang tai bị
mất đi không nhiều nên các trường hợp này không có tạo hình sau phẫu
thuật.
Kích thước khuyết hổng: Kích thước khuyết hổng trung bình:
42,8 mm (30- 59 mm).
Các trường hợp sau phẫu thuật đánh giá khuyết hổng có kích
thước nhỏ, phẫu thuật viên có thể tạo hình khuyết hổng bằng vạt SMAS
đơn thuần. Các trường hợp bệnh nhân không có mô mỡ dưới da nhiều,
đánh giá khó khăn trong việc lấy vạt SMAS được chúng tôi tạo hình
bằng vạt cơ ức đòn chũm. Tất cả các trường hợp còn lại đều được tạo
hình bằng cách phối hợp vạt cơ ức đòn chũm và SMAS chiếm tỉ lệ
85,2%.
3.4. Biến chứng sau phẫu thuật
3.4.1. Liệt thần kinh mặt tạm thời sau phẫu thuật
Chúng tôi ghi nhận có 50 trường hợp liệt thần kinh mặt tạm thời
sau phẫu thuật chiếm tỉ lệ 37%.
3.4.1.1. Phân độ liệt mặt theo tiêu chuẩn House Brackmann
Theo phân độ liệt mặt của tiêu chuẩn House Brackmann, độ I
chiếm tỉ lệ cao 63%, độ II chiếm tỉ lệ 25,2%, độ III chiếm tỉ lệ 7,4%, độ
IV chiếm tỉ lệ 4,4%.
11
3.4.1.2. Triệu chứng lâm sàng của liệt thần kinh mặt tạm thời
50 trường hợp bị liệt thần kinh mặt tạm thời. Các triệu chứng
được ghi nhận có méo miệng một bên thường gặp nhất (46/50 trường
hợp, chiếm 92%), các triệu chứng khác chiếm tỷ lệ thấp, như mất nếp
nhăn trán (12%), mắt nhắm không kín (12%), mất nếp mũi má (10%)
3.4.1.3. Mối tƣơng quan giữa liệt thần kinh mặt tạm thời và các yếu
tố liên quan
3.4.1.3.1. Tuổi
Bảng 3.11: Mối tương quan giữa tuổi và liệt thần kinh mặt tạm thời
Tuổi
Liệt mặt tạm thời
p
Có n (%) Không n (%)
< 60 tuổi 48 (37,5) 80 (62,5) 0,634
OR=0,7
(KTC 95%: 0,1-3,5)
≥ 60 tuổi 2 (28,6) 5 (71,4)
Tổng 50 85
3.4.1.3.2. Giới tính
Bảng 3.12: Mối tương quan giữa giới tính và liệt thần kinh mặt tạm thời
Giới
Liệt mặt tạm thời
p
Có (%) Không (%)
Nam 14 (41,2) 20 (58,8) 0,563
OR=0,7
(KTC 95%: 0,3-1,7)
Nữ 36 (35,6) 65 (64,4)
Tổng 50 85
12
3.4.1.3.3. Thời gian khởi bệnh
Bảng 3.13: Mối tương quan giữa thời gian khởi bệnh và liệt thần kinh
mặt tạm thời
Thời gian
khởi bệnh
Liệt mặt tạm thời
p
Có (%) Không (%)
< 2 năm 24 (30) 56 (70) 0,041
OR=2
(KTC 95%: 1,0-4,2)
≥ 2 năm 26 (47,3) 29 (52,7)
Tổng 50 85
3.4.1.3.4. Kích thước bướu
Bảng 3.14: Mối tương quan giữa kích thước bướu và liệt thần kinh mặt
tạm thời
Kích thƣớc
bƣớu
Liệt mặt tạm thời
p
Có n (%) Không n (%)
< 2 cm 8 (17,8) 37 (82,2) 0,001
OR=4
(KTC95%:1,6-9,6)
≥ 2 cm 42 (46,7) 48 (53,3)
Tổng 50 85
3.4.1.3.5. Thời gian phẫu thuật
Bảng 3.15: Mối tương quan giữa thời gian phẫu thuật và liệt mặt tạm thời
Thời gian
phẫu thuật
Liệt mặt tạm thời
p
Có n (%) Không n (%)
< 90 phút 28 (33,7) 55 (66,3) 0,315
OR=1,4
(KTC 95%: 0,7-2,9)
≥ 90 phút 22 (42,3) 30 (57,7)
Tổng 50 85
13
3.4.1.3.6. Số nhánh thần kinh mặt bóc tách trong lúc phẫu thuật
Bảng 3.16: Mối tương quan giữa liệt mặt tạm thời và số nhánh
thần kinh mặt được bóc tách trong lúc phẫu thuật
Số nhánh thần
kinh mặt
Liệt mặt tạm thời
p
Có n (%) Không n (%)
2 nhánh 11 (22,4) 38 (77,6)
0,0001
3 nhánh 15 (30,0) 35 (70)
4 nhánh 24 (66,7) 12 (33,3)
Tổng 50 85
3.4.1.3.7. Phân tích đa biến các yếu tố có liên quan đến liệt thần kinh
mặt tạm thời sau phẫu thuật.
Bảng 3.17: Các yếu tố liên quan đến liệt thần kinh mặt tạm thời sau
phẫu thuật
Các yếu tố liên quan Giá trị p OR
Số nhánh thần kinh mặt
bóc tách khi phẫu thuật
0,002 3,1
Kích thước bướu 0,047 2,0
Thời gian khởi bệnh 0,182 1,3
Số nhánh thần kinh mặt bóc tách trong lúc phẫu thuật, kích thước
bướu là 2 yếu tố có tiên lượng độc lập đến liệt thần kinh mặt tạm thời
sau phẫu thuật với p lần lượt là 0,002 và 0,047.
3.4.1.3.8. Thời gian hồi phục liệt thần kinh tạm thời sau mổ
Thời gian hồi phục liệt thần kinh mặt tạm thời là 11 tuần (5 24
tuần). 82% bệnh nhân có thời gian hồi phục liệt mặt tạm thời sau mổ
trong thời gian 3 tháng sau mổ.
3.4.2. Hội chứng Frey sau phẫ