Hơn 88 năm, từ khi Đảng ra đời cho đến nay chưa có thời kỳ nào lại đề cập nhiều đến tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý như giai đoạn hiện nay. Tình trạng này lan rộng ở các cấp, các ngành, các lĩnh vực. Thực chất, đây là tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý. Đề cập đến vấn đề này Đảng liên tục đưa ra các chỉ thị, nghị quyết nhằm khắc phục tình trạng này, cụ thể là: Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VII) về “Một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng”; Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2 - khoá VIII) về “Một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”; Kết luận Hội nghị Trung ương 4 (khoá IX) về “Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn và đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng phí”; Nghị quyết Trung ương 3 (khoá X): “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí”; Tiếp theo là Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XI) với nội dung cốt lõi là 3 vấn đề cấp bách và 4 nhóm giải pháp nhằm hạn chế tối đa tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý; Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã đưa ra 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, Đảng viên trong đó có cán bộ lãnh đạo, quản lý. Các Nghị quyết trên đều đã đi vào cuộc sống và có tác dụng không nhỏ.
Tuy nhiên, việc khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức cán bộ vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định. Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” thẳng thắn đánh giá về công tác khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ chưa đạt yêu cầu như mong muốn. “Bên cạnh kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém, khuyết điểm kéo dài nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc”[34, tr. 21-22]; việc khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa đạt kết quả như mong đợi. “Tình trạng suy thoái về chính trị đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn biến phức tạp hơn” [37, tr. 44], thậm chí có mặt nghiêm trọng, có khuyết điểm, yếu kém phải sửa chữa cấp bách nhưng vẫn chưa được khắc phục, có mặt còn gây băn khoăn, lo lắng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý nếu không được khắc phục sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy, có thể làm suy yếu Đảng, suy yếu chính quyền, làm mất niềm tin của nhân dân, thậm chí có thể liên quan đến sự tồn vong của đất nước.
Nhận thấy vấn đề khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý là vấn đề cấp bách cần phải quyết liệt thực hiện, tôi chọn vấn đề “Khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ triết học của mình.
166 trang |
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 388 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
ĐẶNG THÁI BÌNH
KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG THA HÓA VỀ ĐẠO ĐỨC
CỦA MỘT BỘ PHẬN CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 92 29 001
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS.Trần Phúc Thăng
HÀ NỘI – 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Luận án này được GS.TS. Trần Phúc Thăng hướng dẫn. Các số liệu, kết quả sử dụng trong luận án là trung thực. Các kết luận của luận án chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả
Đặng Thái Bình
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn thầy GS.TS Trần Phúc Thăng đã tận tâm, tận lực hướng dẫn tôi trong suốt quá trình làm luận án; cảm ơn các nhà khoa học cùng thầy cô giáo Khoa Triết học của Học viện Báo chí và Tuyên truyền đã tham gia đóng góp ý kiến giúp cho luận án của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Ban Quản lý đào tạo sau Đại học cùng các phòng ban đã tạo điều kiện giúp tôi hoàn thiện giấy tờ thủ tục trong suốt 3 năm qua.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả
Đặng Thái Bình
CHỮ VIẾT TẮT
NCS : Nghiên cứu sinh
ĐCSVN : Đảng Cộng sản Việt Nam
SL : Sắc lệnh
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hơn 88 năm, từ khi Đảng ra đời cho đến nay chưa có thời kỳ nào lại đề cập nhiều đến tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý như giai đoạn hiện nay. Tình trạng này lan rộng ở các cấp, các ngành, các lĩnh vực. Thực chất, đây là tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý. Đề cập đến vấn đề này Đảng liên tục đưa ra các chỉ thị, nghị quyết nhằm khắc phục tình trạng này, cụ thể là: Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VII) về “Một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng”; Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2 - khoá VIII) về “Một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”; Kết luận Hội nghị Trung ương 4 (khoá IX) về “Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn và đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng phí”; Nghị quyết Trung ương 3 (khoá X): “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí”; Tiếp theo là Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XI) với nội dung cốt lõi là 3 vấn đề cấp bách và 4 nhóm giải pháp nhằm hạn chế tối đa tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý; Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã đưa ra 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, Đảng viên trong đó có cán bộ lãnh đạo, quản lý. Các Nghị quyết trên đều đã đi vào cuộc sống và có tác dụng không nhỏ.
Tuy nhiên, việc khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức cán bộ vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định. Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” thẳng thắn đánh giá về công tác khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ chưa đạt yêu cầu như mong muốn. “Bên cạnh kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém, khuyết điểm kéo dài nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ... Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc”[34, tr. 21-22]; việc khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa đạt kết quả như mong đợi. “Tình trạng suy thoái về chính trị đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn biến phức tạp hơn” [37, tr. 44], thậm chí có mặt nghiêm trọng, có khuyết điểm, yếu kém phải sửa chữa cấp bách nhưng vẫn chưa được khắc phục, có mặt còn gây băn khoăn, lo lắng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý nếu không được khắc phục sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy, có thể làm suy yếu Đảng, suy yếu chính quyền, làm mất niềm tin của nhân dân, thậm chí có thể liên quan đến sự tồn vong của đất nước.
Nhận thấy vấn đề khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý là vấn đề cấp bách cần phải quyết liệt thực hiện, tôi chọn vấn đề “Khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ triết học của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận về khắc phục tình trạng tha hóa đạo đức và thực trạng việc khắc phục tình trạng này, luận án luận giải một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, làm rõ một số vấn đề lý luận tha hóa về đạo đức và khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, khái quát về thực trạng, nguyên nhân của thực trạng khắc phục tình. trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và nêu một số vấn đề đặt ra từ thực trạng này.
Thứ ba, luận giải một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu việc khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt từ những năm 90 của thế kỷ XX đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước về đạo đức con người, đạo đức cán bộ, về xây dựng đạo đức đội ngũ cán bộ, đảng viên. Ngoài ra, luận án có tham khảo các kết quả của những công trình nghiên cứu đã được công bố có liên quan đến nội dung của luận án.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp “duy vật biện chứng” và phương pháp duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác –Lênin.
Luận án cũng sử dụng một số phương pháp cụ thể, trong đó chủ yếu là phương pháp lịch sử - lôgíc, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp hệ thống, phương pháp so sánh.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Góp phần làm rõ quan niệm tha hóa về đạo đức và khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam.
- Góp phần làm rõ yêu cầu cấp thiết của việc khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức ở một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý, đồng thời chỉ ra thực trạng, nguyên nhân của thực trạng việc khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam giai đoạn hiện nay.
- Luận giải một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả việc khắc phục tình trạng tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam giai đoạn hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Về lý luận, luận án góp phần làm rõ những biểu hiện của tình trạng tha hóa đạo đức và quan niệm khắc phục tha hóa đạo đức của một bộ phận cán bộ ở Việt Nam hiện nay.
Về thực tiễn: Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng và vấn đề chống tiêu cực ở Việt Nam giai đoạn hiện nay và cho việc nghiên cứu, giảng dạy môn: Triết học; Đạo đức học và các môn liên quan đến giáo dục đạo đức cán bộ, đảng viên trong các trường Chính trị, học viện, trường Đại học và các trường Cao đẳng.
7. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, tổng quan, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 3 chương, 7 tiết.
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LUẬN ÁN
Trong những năm gần đây xuất hiện nhiều công trình khoa học nghiên cứu tình trạng tha hóa cả về lý luận và thực tiễn. Các công trình nghiên cứu đặc biệt tập trung vào vấn đề tha hóa đạo đức. Cụ thể:
1.1. Những công trình liên quan đến vấn đề lý luận về khắc phục tình trạng tha hóa và tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay
1.1.1. Lý luận về đạo đức
Đạo đức là một phạm trù được hình thành từ rất sớm trong lịch sử nhân loại. Từ xưa đến nay, có nhiều nhà triết học, nhà tư tưởng bàn về đạo đức. Ở mỗi thời kỳ lịch sử, mỗi dân tộc khác nhau người ta có những quan niệm về đạo đức khác nhau. Ở nước ta, vấn đề đạo đức luôn được coi trọng. Đặc biệt từ khi bước vào thời kỳ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề lý luận về đạo đức càng được đề cập nhiều hơn. Đi sâu về vấn đề này có một số công trình nghiên cứu sau:
Bàn về giá trị đạo đức ở Việt Nam trong thời kỳ kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, tác giả Phạm Văn Đức (2002) có bài viết: “Mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và đạo đức xã hội trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”.
Tác giả đánh giá thành tựu của 15 năm đổi mới. Tuy nhiên bên cạnh những thành công về mặt kinh tế là sự xuống cấp về đạo đức. Điều đó có liên quan đến mặt trái của cơ chế thị trường. Theo tác giả, mặt trái của cơ chế thị trường tác động tiêu cực tới các lĩnh vực của đời sống xã hội trong đó có đạo đức.
Tác giả chỉ ra hai khuynh hướng với hai quan niệm khác nhau về đạo đức:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: nguyên nhân dẫn đến “sự xuống cấp về đạo đức xã hội bắt nguồn từ việc khuyến khích lợi ích cá nhân của người lao động, rằng lợi ích cá nhân và đạo đức xã hội là hai yếu tố hoàn toàn không dung hợp với nhau” [40]. Phê phán quan niệm này, tác giả khẳng định: “Vì, sự sống còn của bản thân mình, con người có nhu cầu chung phải liên kết với nhau. Bản thân những nhu cầu chung này là cơ sở nảy sinh những lợi ích chung giữa họ. Song, ngoài những lợi ích chung đó, mỗi con người lại có những lợi ích riêng nảy sinh trên cơ sở của các nhu cầu được hình thành từ những hoàn cảnh lịch sử - cụ thể” [40]. Điều này cho thấy giữa lợi ích chung và lợi ích riêng có sự thống nhất với nhau, từ đó dẫn đến xem xét đạo đức cũng dựa trên mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng.
Quan điểm thứ hai cho rằng: “cơ chế thị trường là môi trường thuận lợi để phát huy vai trò chủ thể cá nhân, là cơ chế tốt cho nhân cách phát triển trong điều kiện hiện nay”[40]. Điều này cũng chỉ đúng ở khía cạnh nhất định. Tuy nhiên, chấp nhận cơ chế thị trường là chấp nhận cạnh tranh, từ chỗ cạnh tranh đánh vào lợi ích của con người mà lợi ích của con người cũng có hai mặt, lợi ích chính đáng và lợi ích không chính đáng. Khi nào con người biết điều chỉnh hài hòa giữa lợi ích cá nhân với lợi ích cộng đồng thì con người sẽ điều chỉnh được lợi ích chính đáng. Khi điều chỉnh được lợi ích chính đáng thì “không những tạo ra những sản phẩm thoả mãn các nhu cầu cá nhân của mình, góp phần làm giàu cho bản thân, mà còn góp phần xoá đói, giảm nghèo, làm giàu cho xã hội” và “đến lượt nó, sự giàu có chính đáng của cá nhân đã làm nảy sinh ở con người những tấm lòng hào phóng, từ thiện, sự thân ái, lòng vị tha” [40], khi ấy hành vi đạo đức của con người được xã hội đồng tình. Ngược lại khi con người tuyệt đối hóa lợi ích cá nhân thì con người dễ bị tha hóa về đạo đức và khi ấy xã hội sẽ lên án.
Trên cơ sở phân tích mối quan hệ lợi ích cá nhân, lợi ích cộng đồng, tác giả chỉ ra mặt trái của cơ chế thị trường ở Việt Nam hiện nay có tác động tiêu cực tới đạo đức truyền thống:
Một là, xem nhẹ đạo đức truyền thống, không đề cao đạo lý, chạy theo lối sống gấp, sống vội và sa vào lối sống trụy lạc.
Hai là, sự phản ứng của xã hội đối với các hành vi vô đạo đức, phi đạo đức cũng giảm đi; sự lên án những thói hư, tật xấu và những hành vi vô đạo đức, phi đạo đức không được đề cao. Tình trạng số người có quan điểm thờ ơ với những tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng.
Ba là, thói đạo đức giả ngày càng có chiều hướng gia tăng.
Tất cả những biểu hiện trên là do lối sống thực dụng, chạy theo danh lợi cá nhân, coi thường lợi ích cộng đồng. Có thể nói vấn đề tuyệt đối hóa lợi ích cá nhân trong nền kinh tế thị trường là nguyên nhân dẫn đến tình trạng tha hóa về đạo đức. Muốn điều chỉnh vấn đề này thì phải xem xét về mặt lợi ích, lợi ích đó có phù hợp với lợi ích chung của xã hội hay không. Đồng thời, không nên phán xét một cách tầm thường, sự xuống cấp về đạo đức bắt nguồn từ khuyến khích lợi ích cá nhân.
Tác giả Lê Duy Chương (2007) “Thấm nhuần tư tưởng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư của Hồ Chí Minh” [13]. Bài viết đã lý giải sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về cốt lõi của đạo đức cách mạng là “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”.
Tác giả bài viết chỉ ra: Hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược đã sản sinh ra những cán bộ, đảng viên không tiếc tuổi xuân, dũng cảm, tiên phong trong cuộc đấu tranh một mất, một còn vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. “Nhiều người trong số họ đã không được hưởng niềm vui của ngày độc lập, thống nhất đất nước”[13], nhưng họ xứng đáng là những tấm gương tiêu biểu nhất về sự “chí công, vô tư”, đặt lợi ích tối cao của đất nước lên trên lợi ích cá nhân. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay vẫn còn không ít cán bộ, lãnh đạo, quản lý suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống; thiếu tinh thần trách nhiệm trước nhiệm vụ được giao; không chịu học tập, lười rèn luyện, không dám đương đầu với khó khăn, gian khổ; quan liêu, tham nhũng, lãng phí”Chính họ là một lực cản của tiến bộ xã hội; là một trong những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, làm giảm hiệu lực quản lý của Nhà nước, làm vẩn đục đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, điều mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang dày công vun đắp”[13]. Những tệ nạn này đã gây bức xúc cho toàn xã hội.
Từ phân tích thực trạng, tác giả đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Theo tác giả, người cán bộ muốn tu dưỡng được đạo đức cách mạng thì cần phải thực hiện những quan điểm sau:
Thứ nhất, mọi cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần tư tưởng của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” sâu sắc hơn nữa .
Thứ hai, muốn việc giáo dục đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” tốt hơn thì phải khôi phục và đẩy mạnh phong trào thi đua “Người tốt, việc tốt”, thực hiện nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức trong cán bộ, đảng viên.
Thứ ba, phương pháp giáo dục đạo đức cách mạng là phải kết hợp chặt chẽ giữa “xây và chống”. “Xây dựng ý thức và thói quen hành vi đạo đức cho cán bộ, đảng viên không đơn thuần chỉ là quá trình tuyên truyền, giáo dục về các giá trị, chuẩn mực đạo đức cách mạng, mà còn là quá trình đấu tranh, khắc phục, loại bỏ dần thói hư, tật xấu của con người” [13].
Từ những phân tích trên tác giả đi đến kết luận: mỗi cán bộ, đảng viên, cho đến người dân, ai cũng phải có ý thức tự tu dưỡng đạo đức cách mạng. Việc tu dưỡng đạo đức cách mạng là việc làm thường xuyên, suốt đời. Trên cơ sở bài viết, tác giả luận án nhận thấy đây là bài viết có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn sâu sắc, đặc biệt tác giả bài viết chỉ ra không nhất thiết khó khăn, gian khổ mà con người bị tha hóa về đạo đức và thậm chí ngược lại họ còn hy sinh vì nhau, hy sinh cho nhau. Tuy nhiên giai đọan hiện nay điều kiện kinh tế tốt hơn con người dễ nảy sinh tình trạng tha hóa về đạo đức. Rõ ràng việc giáo dục đạo đức có vấn đề, chính điều này tác giả luận án kế thừa trong phần giải pháp của mình.
Cùng chủ đề này, tác giả Đoàn Quốc Thái (2010) có bài viết “Bàn thêm về khái niệm “giá trị đạo đức”[132]. Trong bài viết này, tác giả đã khái quát những quan điểm về đạo đức trong lịch sử triết học và những quan điểm của các nhà khoa học về đạo đức và giá trị đạo đức; tác giả đi sâu vào phân tích, làm rõ khái niệm “đạo đức”, khái niệm “giá trị đạo đức”. Từ những phân tích trên, tác giả xác định những chuẩn mực giá trị đạo đức phải căn cứ vào không gian và thời gian của nó, nghĩa là giá trị đạo đức có tính lịch sử. Tác giả cũng chỉ ra tính chất chung, tính đặc thù, tính đơn nhất của đạo đức. Ngoài ra tác giả còn cho thấy tính tương đối ổn định của chuẩn mực, giá trị đạo đức ở từng giai đoạn lịch sử nhất định. Ở mỗi một thời đại khác nhau, người ta đưa ra những chuẩn mực đạo đức khác nhau, giá trị của nó cũng khác nhau. Không chỉ khác nhau về thời gian mà chuẩn mực giá trị đạo đức cũng khác nhau về không gian. Ở mỗi quốc gia, dân tộc, tôn giáo đều có những quy định đặc thù về chuẩn mực giá trị của đạo đức. Không chỉ vậy, tác giả bài viết còn cho thấy: ở mỗi mối liên hệ xã hội khác nhau thì chuẩn mực giá trị đạo đức cũng khác nhau, thậm chí còn đối lập nhau.
Từ những quan điểm trên tác giả khẳng định: “giá trị đạo đức là sự bộc lộ thái độ của cá nhân, nhóm xã hội, tập đoàn xã hội về lợi ích”[132] và “giá trị đạo đức gắn với hoạt động thực tiễn của con người, định hướng cho hành động của con người”[132]. Theo tác giả: “giá trị đạo đức là toàn bộ những quan niệm về thiện, ác, tốt, xấu, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng và các chuẩn mực, quy tắc ứng xử được con người đánh giá, lựa chọn, cũng như ý nghĩa tích cực của những quan niệm, chuẩn mực, quy tắc ứng xử đó đối với con người và đời sống xã hội”[132]. Trên cơ cơ bài viết, tác giả luận án nhận thấy đây là bài viết rất sâu sắc, đặc biệt việc phân tích giá trị đạo đức có tính lịch sử và sự phân biệt giá trị đạo đức ở thiện ác, tốt xấu, lương tâm, trách nhiệm, đây cũng là cơ sở tác giả luận án kế thừa để triển khai phần lý luận của mình.
Viết về lĩnh vực đạo đức, tác giả Mai Xuân Hợi (2014) có bài: “Giá trị đạo đức và sự biểu hiện của nó trong đời sống xã hội” [55]. Trong bài viết, tác giả bàn về đạo đức và giá trị của nó trong đời sống xã hội ở những phương diện sau:.
Thứ nhất, tác giả bàn về giá trị đạo đức: theo tác giả, giá trị đạo đức là cái mà do nó đã làm cho một khách thể nào đó có ích, có nghĩa, đáng quý đối với chủ thể, được mọi người thừa nhận. Từ khái niệm tác giả chỉ ra “lợi ích xã hội là tiêu chuẩn khách quan của các giá trị đạo đức” [55]. Giá trị đạo đức được xác định bởi “lương tâm đồng tình và dư luận biểu dương” [55].
Như vậy, để xác định hành vi có đạo đức phải dựa vào niềm tin cá nhân và dư luận xã hội đồng tình. ủng hộ. Để chứng minh cho vấn đề này tác giả trích câu của Ăngghen: "trong một xã hội mà mọi động cơ đẩy tới trộm cắp đều bị loại trừ, do đó dần dần hầu như chỉ có những người mắc bệnh tinh thần mới phạm tội trộm cắp, thì một nhà truyền bá đạo đức nào muốn trịnh trọng tuyên bố cái chân lý vĩnh cửu: không được trộm cắp, sẽ bị người ta chê cười"[55]
Thứ hai, bàn về tính chất của đạo đức: theo tác giả đạo đức vừa có tính chất riêng vừa có tính chất chung, tùy vào mối quan hệ để xác định tính chất của đạo đức.
Thứ ba, bàn về chức năng của đạo đức.Tác giả chỉ ra ba chức năng bao gồm: chức năng điều chỉnh hành vi, chức năng giáo dục, chức năng nhận thức, ba chức năng này có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại với nhau tạo thành chỉnh thể của đạo đức của xã hội nhất định.
Từ ba phương diện tiếp cận tác giả đi đến kết luận: “giá trị đạo đức được hình thành ở mỗi cá nhân luôn phụ thuộc vào việc các cá nhân ấy được giáo dục và tiếp nhận những tư tưởng và các chuẩn mực đạo đức đúng đắn của xã hội”[55]. Như vậy, vấn đề giáo dục và sự tiếp nhận vấn đề giáo dục là một trong những cơ sở quan trọng hình thành giá trị đạo đức. Tiếp thu quan điểm nói trên tác giả luận án kế thừa để bổ sung vào phần lý luận, thực trạng và giải pháp trong luận án của mình.
Ngô Thành Can (2017): “Đạo đức công chức trong thực thi nhi