Bệnh lý co giật nửa mặt là bệnh lý thần kinh mãn tính, biểu hiện
lâm sàng đặc trưng bởi những cơn co giật một bên mặt, ngắt quãng,
không tự ý. Bệnh không gây đau hay đe dọa tính mạng nhưng bệnh cần
được điều trị vì những ảnh hưởng không nhỏ của nó về mặt thẩm mỹ và
tâm lí xã hội. Hiện nay bệnh nhân có thể lựa chọn giữa hai cách điều trị
là tiêm độc tố Botulinum và phẫu thuật giải ép vi mạch dây thần kinh
mặt. Tuy nhiên, phương pháp điều trị triệt để là phẫu thuật giải ép vi
mạch, đây là phương pháp điều trị hết bệnh trong 85%-90% trường hợp
và nếu được thực hiện bởi các chuyên gia thì tỉ lệ tai biến và biến chứng
rất thấp dưới 1%. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu trên thế giới về
phẫu thuật giải ép vi mạch trong điều trị co giật nửa mặt. Tại Việt Nam
phẫu thuật giải ép vi mạch được thực hiện từ năm 1998 sau đó cũng
phát triển đến các trung tâm Ngoại Thần Kinh cả nước, tuy nhiên
phương pháp này chủ yếu được nghiên cứu trên bệnh lý đau thần kin V
nguyên phát và cho đến nay cũng chưa có một nghiên cứu đầy đủ về
phương pháp phẫu thuật giải ép vi mạch trong điều trị bệnh lý co giật
nửa mặt. Với nhu cầu từ thực tế cần phải có một nghiên cứu sâu về
phương pháp điều trị để từ đó có thể góp thêm một số dữ liệu về hiệu
quả của phẫu thuật giải ép vi mạch trong điều trị bệnh lý co giật nửa
mặt với mục tiêu nghiên cứu:
1. Đánh giá hiệu quả của phẫu thuật giải ép vi mạch trên bệnh
nhân co giật nửa mặt.
2. Khảo sát mối tương quan giữa thời gian khởi phát bệnh, mức
độ nặng của bệnh với kết quả phẫu thuật.
3. Khảo sát mối tương quan giữa số lượng mạch máu, vị trí chèn
ép mạch máu trên thần kinh VII với biến chứng liệt mặt sau
phẫu thuật.
24 trang |
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 390 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Một số dữ liệu về hiệu quả của phẫu thuật giải ép vi mạch trong điều trị bệnh lý co giật nửa mặt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
GIỚI THIỆU LUẬN ÁN
1. Đặt vấn đề
Bệnh lý co giật nửa mặt là bệnh lý thần kinh mãn tính, biểu hiện
lâm sàng đặc trưng bởi những cơn co giật một bên mặt, ngắt quãng,
không tự ý. Bệnh không gây đau hay đe dọa tính mạng nhưng bệnh cần
được điều trị vì những ảnh hưởng không nhỏ của nó về mặt thẩm mỹ và
tâm lí xã hội. Hiện nay bệnh nhân có thể lựa chọn giữa hai cách điều trị
là tiêm độc tố Botulinum và phẫu thuật giải ép vi mạch dây thần kinh
mặt. Tuy nhiên, phương pháp điều trị triệt để là phẫu thuật giải ép vi
mạch, đây là phương pháp điều trị hết bệnh trong 85%-90% trường hợp
và nếu được thực hiện bởi các chuyên gia thì tỉ lệ tai biến và biến chứng
rất thấp dưới 1%. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu trên thế giới về
phẫu thuật giải ép vi mạch trong điều trị co giật nửa mặt. Tại Việt Nam
phẫu thuật giải ép vi mạch được thực hiện từ năm 1998 sau đó cũng
phát triển đến các trung tâm Ngoại Thần Kinh cả nước, tuy nhiên
phương pháp này chủ yếu được nghiên cứu trên bệnh lý đau thần kin V
nguyên phát và cho đến nay cũng chưa có một nghiên cứu đầy đủ về
phương pháp phẫu thuật giải ép vi mạch trong điều trị bệnh lý co giật
nửa mặt. Với nhu cầu từ thực tế cần phải có một nghiên cứu sâu về
phương pháp điều trị để từ đó có thể góp thêm một số dữ liệu về hiệu
quả của phẫu thuật giải ép vi mạch trong điều trị bệnh lý co giật nửa
mặt với mục tiêu nghiên cứu:
1. Đánh giá hiệu quả của phẫu thuật giải ép vi mạch trên bệnh
nhân co giật nửa mặt.
2. Khảo sát mối tương quan giữa thời gian khởi phát bệnh, mức
độ nặng của bệnh với kết quả phẫu thuật.
3. Khảo sát mối tương quan giữa số lượng mạch máu, vị trí chèn
ép mạch máu trên thần kinh VII với biến chứng liệt mặt sau
phẫu thuật.
2. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong chuyên ngành phẫu thuật thần kinh, co giật nửa mặt được
phân vào nhóm rối loạn chức năng kiểu tăng động của các dây thần kinh
sọ có nguyên nhân là do sự chèn ép của mạch máu ở vị trí đi ra của dây
2
thần kinh tại thân não. Phẫu thuật giải ép vi mạch thông qua đường dưới
chẩm sau xoang sigma ngày nay được sử dụng rộng rãi trong điều trị
bệnh lý co giật nửa mặt, mục đích điều trị bệnh nhân là đảm bảo chất
lượng cuộc sống và hạn chế tối đa các biến chứng có thể xảy ra khi điều
trị. Do đó để đánh giá hiệu quả, biến chứng và chỉ định điều trị đúng đối
với rối loạn chức năng này ở nước ta là hết sức cần thiết đối với chuyên
ngành phẫu thuật thần kinh, mở ra thêm một phương pháp mới để điều
trị bệnh lý co giật nửa mặt.
3. Những đóng góp mới của luận án
Đây là một nghiên cứu khá chi tiết và đầy đủ về phương pháp vi
phẫu thuật giải ép vi mạch trong điều tri co giật nửa mặt ở Việt Nam.
Nghiên cứu này đã cho thấy đây là một phương pháp điều trị an toàn và
hiệu quả. So với kết quả điều trị bằng phẫu thuật với các công trình
khác trên thế giới cho thấy nghiên cứu có kết quả điều trị hết bệnh
tương đương với các biến chứng rất thấp. Kết quả này giúp cho các bác
sĩ phẫu thuật thần kinh cũng như nội thần kinh có cơ sở tư vấn cho bệnh
nhân lựa chọn phương pháp điều trị này. Mặt khác nghiên cứu này cũng
đã chia sẽ nhiều kinh nghiệm trong quá trình phẫu thuật và theo dõi
bệnh cũng như các yếu tố ảnh hưởng đấn kết quả cũng như biến chứng
liệt mặt sau phẫu thuật giúp cho sự phát triển chuyên ngành ngoại thần
kinh trong tương lai.
4. Bố cục của luận án
Luận án gồm 108 trang, Mở đầu 3 trang, Tổng quan tài liệu 36
trang, Đối tượng và phương pháp nghiên cứu 17 trang, Kết quả 20
trang, Bàn luận 29 trang, Kết luận và Kiến nghị 3 trang. Có 19 bảng, 2
biểu đồ sơ đồ, 24 hình, 62 tài liệu tham khảo.
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Lịch sử nghiên cứu vi phẫu thuật giải ép vi mạch trong điều trị
co giật nửa mặt
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Năm 1962, Gardner và Sava báo cáo điều trị 19 trường hợp bệnh
nhân co giật nửa mặt, trong đó 7 trường hợp ghi nhận có sự liên quan
3
mật thiết giữa động mạch tiểu não trước dưới và dây thần kinh số VII.
Với báo cáo của tác giả Jannetta (1998) kinh nghiệm trên 4400 trường
hợp phẫu thuật giải ép vi mạch trong điều trị đau dây V, co giật nửa mặt
và đau dây thần kinh hạ thiệt với tỉ lệ biến chứng 1-2% đã khẳng định
được tính hiệu quả và sự an toàn của phẫu thuật. Từ báo cáo này kỹ
thuật giải ép vi mạch được ứng dụng rộng rãi ở nhiều trung tâm lớn trên
thế giới với tỷ lệ thành công cao.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Phẫu thuật giải ép vi mạch điều trị đau thần kinh V và co giật nửa
mặt được áp dụng lần đầu tiên tại bệnh viện Chợ Rẫy vào tháng 7 năm
1998, năm 2006, Võ Văn Nho tổng kết 32 ca phẫu thuật giải ép vi mạch
điều trị co giật nửa mặt tại bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 11 năm 1998
đến tháng 2 năm 2006 với kết quả rất khả quan trên tạp chí y học TP
HCM. Năm 2012, 2013 Trần Hoàng Ngọc Anh báo cáo kết quả phẫu
thuật giải ép vi mặt trên 45 bệnh nhân co giật nửa mặt tại bệnh viện
Nhân Dân Gia Định đăng trên tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh.
1.2. Giải phẫu thần kinh VII và mối tương quan giữa mạch máu và
thần kinh trong góc cầu tiểu não
1.2.1. Dây thần kinh VII
1.2.2. Tương quan mạch máu với thần kinh VII trong góc cầu tiểu
não
Động mạch tiểu não trước dưới (ĐMTNTD) là động mạch chèn ép
thường gặp nhất bởi vì thần kinh mặt nằm trong phức hợp mạch máu
thần kinh giữa. Tuy nhiên, nếu động mạch tiểu não sau dưới
(ĐMTNSD) dài ngoằn ngoèo cũng là nguyên nhân của co giật nửa mặt,
đoạn gần của ĐMTNSD thường đi quanh thân não bên dưới thần kinh
mặt và tiền đình, tuy nhiên trong một vài trường hợp góc cầu tiểu não
đoạn gần của ĐMTNSD sau khi đi ra sau, ngang rễ thần kinh hạ thiệt sẽ
tạo thành một vòng lên trên hướng đến thần kinh mặt và thần kinh tiền
đình trước khi đi xuống xuyên qua giữa thần kinh thiệt hầu, thần kinh
mơ hồ và thần kinh phụ; quai động mạch này có thể nằm cả mặt trên và
mặt dưới của thần kinh mặt nơi thoát ra ở thân não.
Chèn ép do tĩnh mạch thường ít gặp hơn, tĩnh mạch chèn ép thường
gặp nhất là tĩnh mạch của rãnh hành cầu, tĩnh mạch sau trám hành, hoặc
tĩnh mạch của cuống não giữa.
4
1.3. Chẩn đoán và điều trị co giật nửa mặt
1.3.1. Sinh bệnh học co giật nửa mặt
Năm 1970, Jannetta mô tả triệu chứng co giật nửa mặt gây ra do
chèn ép mạch máu thần kinh tại vùng đi ra của rễ của dây thần kinh VII.
Vùng đi ra của rễ dây thần kinh mặt là nơi myelin ngoại biên (tế bào
Schwann) gặp gỡ và chuyển tiếp với myelin trung ương (tế bào thần
kinh đệm ít nhánh) hay còn gọi là vùng chuyển tiếp. Vùng này có chiều
dài khoảng vài milimet tính từ điểm dây VII vừa đi ra khỏi rãnh hành
cầu.
Năm 2009 tác giả Sindou đã giải thích rõ hơn về cơ chế sinh lý
bệnh, ông cho thấy rằng sự chèn ép mãn tính của động mạch có thể tạo
ra sự co thắt thông qua một chuỗi các cơ chế khác nhau nhưng bổ sung
cho nhau. (1) Những xung động cơ học trong thì tâm thu ngay vùng đi
ra của rễ có thể tạo ra những kích thích gây co thắt cơ, hơn nửa vùng đi
ra của rễ là vùng chuyển tiếp giữa vùng myelin ngoại vi và trung ương
rất dễ bị kích thích. (2) Cộng với những xung động liên tục này có thể
làm biến đổi bao sợi thần kinh, các sợi này có thể được xem như nơi
tiếp hợp thần kinh mới và kéo theo hiện tượng được gọi là hiện tượng
xung truyền âm và hiện tượng này được xem là nguồn gốc cuả sự đồng
vận và hiện tượng đáp ứng vận động lan rộng ra ngoài. (3) những hiện
tượng điện sinh lý lạc chỗ này có thể kích thích ngược chiều đến nhân
thần kinh mặt, và dẫn đến hậu quả làm hoạt động nội sinh của chính
nhân này.
1.3.2. Triệu chứng lâm sàng và chẩn đoán
1.3.2.1. Triệu chứng lâm sàng co giật nửa mặt
Co giật nửa mặt là một bệnh khởi phát âm thầm, tiến triển chậm và
diễn tiến mãn tính. Tuy nhiên một số trường hợp bệnh nhân than phiền
bệnh khởi phát khá nhanh.
Triệu chứng điển hình khi cơn co giật khởi phát từ mi mắt dưới rồi
giật toàn bộ cơ vòng mắt, sau đó lan dần đến các nhóm cơ vùng má và
giật các cơ vòng miệng. Cơn co giật không gây đau, khởi phát không tự
chủ, thường xuyên, lan rộng dần và xảy ra cả khi ngủ. Một số trường
hợp nặng các nhóm cơ bám da cổ, các cơ vùng trán cũng co giật. Cơn
co giật có thể làm nhắm khít một mắt do hiện tượng co cứng cơ vòng
mắt trong vài giây đến vài phút. Gần 30% bệnh nhân than phiền nghe
5
thấy âm thanh trầm, lách cách trong tai cùng bên khi co giật mặt, triệu
chứng này gây ra do hoạt động bất thường của cơ bàn đạp do thần kinh
mặt bị kích thích. Tuy nhiên không có sự thay đổi về vị giác, không có
những triệu chứng thần kinh tự chủ như chảy nước mắt hay nước mũi
như trong đau đầu cụm. Trong một sồ trường hợp khác ngoài co giật
nửa mặt bệnh nhân có những cơn chóng mặt kèm theo khi co giật.
Bảng 1.1: Phân loại mức độ nặng co giật nửa mặt của Jankovic
Điểm Triệu chứng co giật nửa mặt
0 Bình thường
1 Co giật nửa mặt mức độ nhẹ
2 Co giật nửa mặt mức độ trung bình, không ảnh hưởng đến
chức năng
3 Co giật nửa mặt mức độ trung bình, có ảnh hưởng đến chức
năng
4 Co giật nửa mặt nặng, ảnh hưởng đến chức năng nghiêm
trọng
- Các chức năng được xem là do co thắt nửa mặt gây ra bao gồm:
gây khó khăn trong khi lái xe, khi đọc sách, khi xem tivi hoặc phim,
cũng như gây cho bệnh nhân cảm thấy ức chế và trầm cảm, cảm giác
khó chịu cũng như thấy xấu hổ về tình trạng bệnh, lo lắng về các phản
ứng của người khác về tình trạng co thắt mặt của mình.
1.3.2.2. Chẩn đoán co giật nửa mặt
a. Chẩn đoán xác định
Được chẩn đoán là co giật nửa mặt nguyên phát khi đáp ứng đủ 3
tiêu chuẩn sau (1) Không phải là hậu quả của liệt mặt cùng bên (2) Diễn
tiến mạn tính và tự giới hạn (3) Các khảo sát hình ảnh học bình thường
ngoại trừ có sự hiện diện của chèn ép mạch máu trên nơi xuất phát của
dây thần kinh VII.
b. Chẩn đoán phân biệt
Chứng co giật mi mắt (blepharospasm), Co thắt mặt do thói quen
(habit facial tic), Chứng co cứng cơ mặt (facial myokymia), Một số
6
bệnh nhân sau liệt Bell với biểu hiện một ít rối loạn vận động và yếu
nhẹ cơ mặt cũng có thể nhầm lẫn với co giật nửa mặt, Động kinh cục bộ
vùng mặt.
1.3.3. Vai trò của hình ảnh học
Một số sang thương nơi góc cầu tiểu não cũng có thể gây co giật
nửa mặt. Chụp CLVT có cản quang họăc CHT để loại trừ các nguyên
nhân này. CHT có thể ghi nhận động mạch đốt sống dãn, phì đại chèn
vào phức hợp VII,VIII.
1.3.4. Điều trị co giật nửa mặt
Thời điểm quyết định can thiệp khi tình trạng co giật nửa mặt gây
khó chịu cho bệnh nhân. Hiện nay có hai phương pháp điều trị bệnh
được chấp nhận tại các trung tâm thần kinh trên thế giới: 1). Điều trị nội
khoa với botulinum toxin A. 2). Phẫu thuật giải ép vi mạch.
1.3.4.1. Điều trị nội khoa với độc tố botulinum
Độc tố Botulinum ứng dụng trong điều trị co giật nửa mặt năm
1980 đầu tiên ở Hoa Kì, Cơ quan thuốc và thực phẩm Hoa Kì (FDA)
chứng nhận năm 1989. Botulinum toxin ức chế tiết acetylcholin tiền
synap tại điểm nối thần kinh cơ, từ đó ức chế co cơ làm thuyên giảm
tạm thời triệu chứng trong khoảng 2-4 tháng, phải tiêm 3-4 lần mỗi năm
suốt đời. Phương pháp này chỉ điều trị tạm thời triệu chứng.
1.3.4.2. Phẫu thuật giải ép vi mạch trong điều trị co giật nửa mặt
a. Kết quả phẫu thuật
- Trong lô nghiên cứu trên 147 bệnh nhân của tác giả Sindou, kết
quả thỏa mãn ngay tức thì trong 2/3 trường hợp và muộn trong 1/3
trường hợp còn lại. Các trường hợp bệnh hết muộn trong 6 tháng đầu
chiếm 51%, khoảng từ 6 tháng đến 1 năm trong 38%, và sau hơn một
năm trong 11% còn lại (lên đến 3 năm và 6 tháng trong 2 bệnh nhân).
b. Biến chứng sau phẫu thuật
Mất chức năng nghe trong khoảng 2.2- 3.3%; Liệt mặt vĩnh viễn từ
3.4-4.8%. Các biến chứng khác bao gồm dò DNT trong khoảng 2-2.7%
bệnh nhân.
7
1.4. Kỹ thuật phẫu thuật giải ép vi mạch trong điều trị co giật nửa
mặt
1.4.1. Bước 1: Tư thế bệnh nhân
“Vị trí đỉnh đầu quyết định sự bộc lộ dây thần kinh sọ”
Bệnh nhân được đặt trên bàn mổ với đầu nằm sát rìa bàn để tạo
cảm giác thoải mái tối đa cho phẫu thuật viên trong quá trình thao tác vi
phẫu. Sau khi tiến hành gây mê đặt nội khí quản, cố định đầu bệnh bằng
dụng cụ cố định đầu 3 điểm, bệnh nhân được đặt tư thế nằm nghiêng
với các giá đỡ trên các điểm tì đè và đặt một gối cuộn nhỏ dưới nách.
Đầu gập nhẹ sao cho cằm cách xương ức hai khoát ngón tay. Đầu xoay
khoảng 100 sang phía đối diện và đỉnh đầu nên được hạ thấp xuống dưới
khoảng 150 so với nền nhà để bộc lộ mặt gần của dây thần kinh VII và
xoay phức hợp tiền đình-ốc tai hơi lên phía đầu.
1.4.2. Bước 2: Đường rạch da
“Đường rạch da sẽ tùy thuộc vào kích cỡ và bề dày của cổ bệnh nhân”
Thường thực hiện một đường rạch da dài khoảng 3-5 cm, ra sau
vào trong khoảng 0.5 cm song song với đường chân tóc. Việc bộc lộ sọ
nên tiến hành về phía trước (ra ngoài) trước, sau đó mới bóc tách ra sau
(vào trong), điều này sẽ làm việc cố định được tốt hơn bằng banh tự
động, nên bóc tách rõ phía trước (phía ngoài) và mặt dưới của mỏm
chũm.
1.4.3. Bước 3: Mở sọ dưới chẩm sau xoang Sigma
“Góc hợp bởi xoang ngang và xoang xích ma phải được kiểm soát
trước khi mở màng cứng”
Tiến hành mở sọ nhỏ đối với dây VII hay các dây sọ thấp, đỉnh của
tam giác nên đặt ngay bờ của hành cảnh. Trát sáp xương thật kỹ vùng
xoang chũm, có thể mở màng cứng hình vòng cung hay hình T. Đường
cắt này phải mở tới phần trên và ngoài nhất sát góc hợp bởi 2 xoang tạo
ra một hướng tiếp cận trực tiếp dọc theo phần đá xương thái dương.
Phải mở sọ ra trước (ngoài) vừa đủ (thường phải tới được các khí bào
xương chủm) để có thể cắt và lật màng cứng lên.
8
1.5.4. Bước 4: Bộc lộ góc cầu tiểu não
“Mở góc cầu tiểu não là giai đoạn nguy hiểm nhất của phẫu thuật,
phải hết sức cẩn thận và kiên nhẫn”
Trong phẫu thuật giải ép dây VII cần phải tiếp cận từ phía dưới.
Lưỡi banh đặt lên trên dãi cao su và gòn, đặt vào mặt dưới ngoài của
tiểu não và hạnh nhân tiểu não sau đó nâng nhẹ lên. Xác định và mở bể
lớn bằng kim 25 cong hay bằng kéo vi phẫu. Sau khi đã rút đủ DNT sẽ
xác định được dây IX, X, XI khi chúng đi vào lỗ cảnh, sau đó di chuyển
phẫu trường hướng lên trên một chút sẽ thấy được phức hợp VII, VIII.
1.4.5 Bước 5: Giải ép dây thần kinh
“Nguyên nhân gây bệnh nằm ở đoạn thần kinh gần thân não nhưng
cũng có thể hơi ra ngoài”
Sau khi bóc tách màng nhện và mạch máu, quai mạch máu sẽ được
di chuyển ra ngoài dây thần kinh, phẫu thuật viên sẽ tiến hành đặt một
mẫu nhỏ Teflon vào giữa dây thần kinh và mạch máu, nên tách Teflon
thành những miếng mỏng khi đặt vào để tránh biến chứng tái phát bệnh
do u hạt viêm từ miếng Teflon gây ra.
1.4.6. Bước 6: Đóng vết mổ
“Trát sáp vào bờ xương khi mở cũng nhưng khi đóng sọ”
Vào lúc kết thúc cuộc mổ nên làm nghiệm pháp Valsava để đảm
bảo đã cầm máu tốt, tháo bỏ bộ vén não và quan sát kỹ tiểu não, lập lại
nghiệm pháp Valsava nhằm kiểm soát việc cầm máu. Đóng lớp dưới da
bằng khâu mũi rời với chỉ tan 3.0, đóng lớp dưới da tốt cũng giúp tránh
được dò dịch não tủy. Đóng da bằng chỉ nylon 4.0 và với mũi khâu
khóa liên tục, và phải cẩn thận không xiết chỉ quá căng làm thiếu máu
nuôi vết mổ.
1.4.7. Chăm sóc hậu phẫu
Chăm sóc hậu phẫu bao gồm theo dõi qua đêm tại hồi sức, cần phải
theo dõi huyết áp cẩn thận nhằm điều trị các trường hợp tăng huyết áp
cấp tính nếu có (Huyết Áp tâm thu > 160 mmHg). Nên cho bệnh nhân
vận động sớm sau mổ, bắt đầu từ ngày hậu phẫu thứ nhất. Bệnh nhân
xuất viện sau 72 giờ, thông thường là sau 48 giờ, một vài bệnh nhân sẽ
đau đầu vùng trán hay vết mổ.
9
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu can thiệp trên một nhóm, so sánh trước và sau điều trị
(Before-and-after study design)
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Quần thể:
Quần thể mục tiêu:
Tất cả bệnh nhân co giật nửa mặt có ảnh hưởng đến chức năng
đồng ý phẫu thuật.
Quần thể nghiên cứu:
Bệnh nhân được chẩn đoán co giật nửa mặt được phẫu thuật giải ép
vi mạch tại khoa ngoại thần kinh bệnh viện Nhân Dân Gia Định.
Cở mẫu:
Mục tiêu chính của nghiên cứu là đánh giá kết quả phẫu thuật trên
bệnh nhân co giật nửa mặt. Sử dụng thang điểm Jankovic về mức độ
nặng của co giật nửa mặt để đánh giá kết quả phẫu thuật trước và sau
can thiệp, do đó cở mẫu được tính theo công thức:
2
1 r
N 2C
ES
Trong đó:
C = (Zα/2 + Zb)
2
: với sai sót α=0.05, β=0.20 thì C= 7.85.
ES: hệ số ảnh hưởng, dựa theo y văn trong hai nghiên cứu của tác
giả Bastola và Samii, mức độ trung bình của thang điểm Jankovic trước
mổ là 3.21, độ lệch chuẩn 0.63, thang điểm này sau khi phẫu thuật ở
thời điểm xuất viện là 1. Vậy hệ số ảnh hưởng:
0.63
ES 0.285
3.21 1
r: là hệ số tương quan giữa hai lần đánh giá, chọn hệ số này là 0.8
10
Vậy cỡ mẫu:
2
1 0.8
N 2 7.85 39
0.285
Với tỉ lệ mất dấu ước tính là 10%, vậy phải chọn tối thiểu là
39/0.9= 43 bệnh nhân.
Phương pháp chọn mẫu
Để chọn các bệnh nhân tham gia nghiên cứu, phương pháp lấy mẫu
liên tiếp được sử dụng đến khi đủ số lượng cỡ mẫu đã tính. Các bệnh
nhân thõa tiêu chuẩn chọn mẫu, không có tiêu chuẩn loại trừ và đồng ý
tham gia nghiên cứu đều được đưa vào mẫu nghiên cứu.
2.3. Tiêu chuẩn nhận và loại trừ
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Các bệnh nhân từ 18 đến 70 tuổi, thỏa mãn các điều kiện:
1. Bệnh nhân được chẩn đoán co giật nửa mặt với các dấu hiệu lâm
sàng và bệnh sử bệnh điển hình.
2. Thời gian kéo dài triệu chứng bệnh > 6 tháng
3. Thang điểm mức độ nặng của bệnh theo phân loại Jankovic 2.
Tiêu chuẩn loại trừ
1. Bệnh nhân có co giật nửa mặt sau liệt thần kinh mặt ngoại biên.
2. Bệnh nhân bị co giật mặt hai bên.
3. Bệnh nhân có các thương tổn ở góc cầu tiểu não như U, túi phình
hoặc dị dạng mạch máu não.
4. Bệnh nhân có các bệnh nội khoa nặng như các bệnh về gan, thận
và tim mạch có nguy cơ cao với gây mê hồi sức, cũng như có tình trạng
rối loạn đông máu nặng.
2.4. Biến số nghiên cứu
2.4.1. Định nghĩa biến số nghiên cứu
Kết quả sau điều trị: dựa theo đánh giá của tác giả SINDOU chia
làm 4 mức độ: Hết, giảm, không đổi và tái phát, công việc đánh giá này
là từ bệnh nhân, thân nhân bệnh nhân cũng như nhóm phẫu thuật so
sánh trước và sau can thiệp.
Hết: Không còn cơn co giật, độ nặng = 0
11
Giảm: Triệu chứng co giật giảm từ 20-80%, độ năng co giật giảm
hơn so với trước mổ.
Không đổi: Khi tình trạng co giật giảm < 20%, độ nặng co giật
không đổi so với trước mổ.
Tái phát: Độ năng co giật giảm hơn so với trước mổ nhưng sau đó
tăng trở lại.
2.4.2. Các biến số
2.5. Phương pháp tiến hành
Chọn mẫu liên tiếp các đối tượng tự nguyện tham gia nghiên cứu,
bệnh nhân được chọn cho đến khi đủ số lượng mẫu.
Các bước tiến hành cụ thể:
Khám bệnh nhân trước phẫu thuật:
Bệnh nhân được thu thập các dữ liệu lâm sàng.
Thu thập các dữ liệu cận lâm sàng trên hình ảnh CHT sọ não:với
chuỗi xung TOF 3D, True FISP trên máy Siemens 1.5 Tesla hoặc chổi
xung B-FFE 3D trên máy Philips 1.5 Tesla
Trong mổ xác định: Loại mạch máu chèn, định danh nhánh mạch
máu chèn vào dây thần kinh VII thuộc động mạch nào, số lượng mạch
máu chèn, vị trí chèn so với gốc đi ra của dây VII tại rãnh hành cầu.
Kỹ thuật phẫu thuật:
Hình 2.6: Chèn miếng Teflon giữa ĐM TNTD và dây VII
Đánh giá kết quả sau mổ:
Dựa vào thang điểm Jankovic của bệnh nhân co giật nửa mặt so
sánh với trước mổ.
Đánh giá mức độ thành công theo tác giả SINDOU gồm 4 mức.
Ghi nhận các biến chứng:
12
Khám bệnh nhân sau phẫu thuật 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 1
năm và 2 năm.
Phân tích thống kê: Các kết quả về đặc điểm dịch tể học, tần suất
các triệu chứng được trình bày dưới dạng tỉ lệ. Các triệu chứng được
đánh giá với điểm số từ 0 đến 4, từ 1đến 5 là biến thứ tự không có phân
phối chuẩn nên dùng phép kiểm t so sánh hai trung bình có dữ liệu bắt
cặp để so sánh sự khác nhau về mức độ nặng của co giật cũng như mức
độ rối loạn chức nặng theo thời gian trên cùng một cá thể. Để tìm mối
liên quan