Giải tích biến phân là một bộ phận toán học được hình thành và phát
triển nhằm trang bị các công cụ để nghiên cứu các bài toán tối ưu và những vấn
đề có liên quan. Một mặt, các bài toán tối ưu thường xuyên xuất hiện trong các
khoa học ứng dụng. Mặt khác, giải quyết vấn đề dựa vào tối ưu là một phương
pháp hiệu quả trong toán học. Điều này làm cho giải tích biến phân trở thành
một lĩnh vực đáng quan tâm xét theo cả góc độ lý thuyết lẫn góc độ ứng dụng.
Lĩnh vực này hiện đang được nhiều nhà toán học quan tâm nghiên cứu
26 trang |
Chia sẻ: lecuong1825 | Lượt xem: 2054 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Một số quy tắc tính toán trong giải tích biến phân và ứng dụng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bộ giáo dục và đào tạo
Trường Đại học Vinh
----------------------
nguyễn thị quỳnh trang
Một số quy tắc tính toán
trong giải tích biến phân và ứng dụng
Chuyên ngành: Toán giải tích
Mã số: 62 46 01 02
Tóm tắt luận án tiến sĩ toán học
Nghệ An - 2015
Công trình được hoàn thành tại Trường Đại học Vinh
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS. Nguyễn Quang Huy
2. PGS. TS. Trần Văn Ân
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường
vào hồi .... giờ .... ngày .....tháng ..... năm......
Có thể tìm hiểu luận án tại:
1. Thư viện Nguyễn Thúc Hào, Trường Đại học Vinh
2. Thư Viện Quốc gia Việt Nam
1Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Giải tích biến phân là một bộ phận toán học được hình thành và phát
triển nhằm trang bị các công cụ để nghiên cứu các bài toán tối ưu và những vấn
đề có liên quan. Một mặt, các bài toán tối ưu thường xuyên xuất hiện trong các
khoa học ứng dụng. Mặt khác, giải quyết vấn đề dựa vào tối ưu là một phương
pháp hiệu quả trong toán học. Điều này làm cho giải tích biến phân trở thành
một lĩnh vực đáng quan tâm xét theo cả góc độ lý thuyết lẫn góc độ ứng dụng.
Lĩnh vực này hiện đang được nhiều nhà toán học quan tâm nghiên cứu
1.2 Hệ thống các quy tắc tính toán đóng vai trò quan trọng trong giải tích
biến phân. Nó là cầu nối giữa những kết quả tổng quát với những ứng dụng cụ
thể. Theo B. S. Mordukhovich, "bất kỳ cấu trúc hay tính chất nào được đưa ra
là có tiềm năng sử dụng chỉ khi nó có các quy tắc tính toán thỏa đáng". Chính
vì vậy, ngay khi giới thiệu các cấu trúc vi phân suy rộng người ta đã chú trọng
đến việc thiết lập quy tắc tính toán cho chúng. Hệ thống các quy tắc tính toán
bậc nhất của vi phân suy rộng trong giải tích biến phân về cơ bản đã đầy đủ.
Hiện nay, phát triển quy tắc tính toán bậc hai đang là một chủ đề nghiên cứu
có tính thời sự trong giải tích biến phân. Cùng với việc tìm kiếm quy tắc tính
toán mới, sử dụng các quy tắc tính toán đã được thiết lập để khảo sát các tính
chất của ánh xạ, hàm số hoặc tập hợp cũng là một vấn đề rất được quan tâm.
1.3 Tính đơn điệu và tính Lipschitz là những tính chất cơ bản trong giải tích
biến phân và ứng dụng. Mặc dù các tính chất này đã được nghiên cứu mạnh
mẽ trong những thập kỷ qua, một số vấn đề thú vị liên quan đến chúng, chẳng
hạn như, đặc trưng đối đạo hàm của ánh xạ đơn điệu, đặc trưng dưới vi phân
bậc hai của hàm lồi, tính ổn định kiểu Lipschitz (Lipschitz-like) của bất đẳng
thức biến phân trên tập lồi đa diện bị nhiễu,..., đến nay mới chỉ được giải quyết
thỏa đáng cho một số trường hợp dưới những giả thiết nhất định. Các trường
hợp còn lại vẫn đang cần được khảo sát thêm. Sự phát triển gần đây của giải
tích biến phân, đặc biệt là hệ thống các quy tắc tính toán, đưa đến cho chúng
ta hy vọng có thể đạt được những bước tiến mới theo hướng nghiên cứu này.
Với các lý do như thế, chúng tôi chọn đề tài là "Một số quy tắc tính toán
trong giải tích biến phân và ứng dụng".
22. Mục đích nghiên cứu
Luận án này nghiên cứu một số khía cạnh ứng dụng của các quy tắc tính
toán trong giải tích biến phân với các mục đích như sau:
- Tìmmối quan hệ giữa công thức tính nón pháp tuyến của tập nghịch ảnh qua
ánh xạ khả vi, các quy tắc tổng và điều kiện tối ưu dạng Karush-Kuhn-Tucker;
- Trả lời câu hỏi "Định lý giá trị trung bình xấp xỉ cho dưới vi phân Fréchet
có đúng trong không gian Banach bất kỳ hay không?"
- Làm rõ khả năng của đối đạo hàm trong việc nhận biết tính đơn điệu của
các ánh xạ liên tục và khả năng của dưới vi phân bậc hai trong việc nhận biết
tính lồi của các hàm số khả vi liên tục;
- Khảo sát tính ổn định kiểu Lipschitz của bất đẳng thức biến phân trên tập
lồi đa diện bị nhiễu.
3. Đối tượng nghiên cứu
Các quy tắc tính toán, định lý giá trị trung bình xấp xỉ, tính đơn điệu của
ánh xạ, tính lồi của hàm số, tính ổn định kiểu Lipschitz của bất đẳng thức biến
phân trên tập lồi đa diện.
4. Phạm vi nghiên cứu
Mối quan hệ giữa công thức tính nón pháp tuyến của tập nghịch ảnh qua ánh
xạ khả vi, các quy tắc tổng dạng đẳng thức và điều kiện tối ưu dạng Karush-
Kuhn-Tucker; tính hiệu lực của định lý giá trị trung bình xấp xỉ cho dưới vi
phân Fréchet; các điều kiện theo đối đạo hàm để một ánh xạ liên tục là đơn
điệu và các điều kiện theo dưới vi phân bậc hai để một hàm số khả vi liên tục
là lồi; các điều kiện cần và điều kiện đủ để bất đẳng thức biến phân trên tập
lồi đa diện bị nhiễu là ổn định kiểu Lipschitz.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận án này, chúng tôi sử dụng phương pháp tiếp cận biến phân và
các kỹ thuật của giải tích hàm, giải tích biến phân, lý thuyết tối ưu,...
6. ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Luận án góp phần làm phong phú thêm các kết quả về hệ thống các quy
tắc tính toán trong giải tích biến phân và ứng dụng. Vì nhiều bài toán thực tế
dẫn đến mô hình bất đẳng thức biến phân trên tập lồi đa diện, nên kết quả về
tính ổn định được thiết lập trong luận án này có thể hữu ích cho việc phân tích
những bài toán đó.
37. Tổng quan và cấu trúc luận án
7.1. Tổng quan luận án
Năm 1963, để khảo sát các bài toán tối ưu lồi không khả vi, R. T. Rockafellar
đã giới thiệu khái niệm dưới vi phân cho các hàm lồi. Lúc đầu ông gọi nó là
vi phân của hàm lồi, nhưng về sau đổi thành dưới vi phân của hàm lồi. Đây là
khái niệm dưới vi phân đầu tiên trong giải tích biến phân. Những nghiên cứu
về vi phân suy rộng của hàm lồi và các vấn đề liên quan ở đầu thập niên 1960
dẫn đến sự ra đời của Giải tích lồi. Từ đó đến nay, lĩnh vực này tiếp tục được
phát triển và đã trở thành một bộ phận quan trọng của giải tích biến phân.
Năm 1973, F. H. Clarke đã đưa ra khái niệm đạo hàm theo hướng Clarke và
dưới vi phân Clarke của hàm Lipschitz địa phương. Những khái niệm này sau
đó đã được mở rộng cho các hàm số bất kỳ, không cần Lipschitz địa phương.
Bên cạnh các quy tắc tính toán dạng bao hàm thức, F. H. Clarke cũng đã thiết
lập một hệ thống quy tắc tính toán dạng đẳng thức cho lớp hàm chính quy
Clarke. Lý thuyết vi phân suy rộng Clarke có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát
triển của giải tích không trơn, đặc biệt trong nửa cuối thập niên 1970 và trong
thập niên 1980. Các kết quả cơ bản của lý thuyết vi phân suy rộng này đã
được trình bày trong cuốn sách chuyên khảo "Optimization and Nonsmooth
Analysis" của F. H. Clarke (1983).
Năm 1976, để nghiên cứu điều kiện cần cực trị cho một bài toán điều khiển
tối ưu, B. S. Mordukhovich đã giới thiệu khái niệm nón pháp tuyến và dưới
vi phân qua giới hạn. Năm 1980, B. S. Mordukhovich đưa ra khái niệm đối
đạo hàm của ánh xạ đa trị, dưới tên gọi là ánh xạ liên hợp (adjoint mapping).
Thuật ngữ "đối đạo hàm" được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1984 bởi A. D.
Ioffe. Dưới vi phân bậc hai được B. S. Mordukhovich đưa ra năm 1992. Đây
là những khái niệm cơ bản của lý thuyết vi phân suy rộng Mordukhovich. Các
quy tắc tính toán quan trọng của lý thuyết vi phân suy rộng này, bao gồm quy
tắc tổng (sum rule), quy tắc chuỗi (chain rule), quy tắc giao (intersection rule),
đã được nghiên cứu trong nhiều công trình, chẳng hạn, các công trình của
A. D. Ioffe (1984, 2000), B. S. Mordukhovich (1994), B. S. Mordukhovich và
N. M. Nam (2005), B. S. Mordukhovich và Y. Shao (1996), B. S. Mordukhovich
và J. V. Outrata (2001). Lý thuyết vi phân suy rộngMordukhovich đã được trình
bày trong cuốn sách chuyên khảo 2 tập "Variational Analysis and Generalized
Differentiation" của B. S. Mordukhovich (2006).
Ngoài những khái niệm vi phân suy rộng kể trên, còn có nhiều khái niệm vi
phân suy rộng khác đã được giới thiệu nhằm mục đích nghiên cứu các bài toán
4tối ưu và các vấn đề liên quan, chẳng hạn như các loại đạo hàm theo hướng,
đạo hàm của ánh xạ đa trị do J.-P. Aubin đề xuất, dưới vi phân xấp xỉ của
A. D. Ioffe. Trong luận án này, chúng tôi giới hạn việc nghiên cứu trong khuôn
khổ lý thuyết vi phân suy rộng Mordukhovich.
Chương 1 bắt đầu bằng việc nhắc lại một số khái niệm và tính chất cơ bản
cần dùng trong luận án này. Dựa trên ý tưởng "sử dụng quy tắc chuỗi để chứng
minh quy tắc tổng" của R. T. Rockafellar và R. J.-B. Wets (1998), Mục 1.2 cho
thấy một số quy tắc tổng đã biết là những hệ quả trực tiếp của các công thức
tính nón pháp tuyến của tập nghịch ảnh dạng đẳng thức do B. S. Mordukhovich
và B. Wang thiết lập năm 2004. Trong Mục 1.3, chúng tôi thu được một kết
quả về mối quan hệ giữa công thức tính nón pháp tuyến Fréchet của tập nghịch
ảnh và điều kiện tối ưu dạng Karush-Kuhn-Tucker (Định lý 1.3.4). Kết quả
này mở rộng kết quả tương ứng của F. J. Gould và J. W. Tolle (1971) từ không
gian hữu hạn chiều lên không gian Banach bất kỳ. Công thức tính nón pháp
tuyến của tập nghịch ảnh và quy tắc tổng dạng đẳng thức trong Chương 1 được
sử dụng để nghiên cứu một số vấn đề trong những chương tiếp theo.
Các định lý giá trị trung bình là những kết quả quan trọng trong giải tích
biến phân. G. Lebourg (1975) là người đầu tiên đưa ra định lý giá trị trung bình
cho hàm Lipschitz không trơn. Năm 1988, D. Zagrodny đã cho thấy định lý giá
trị trung bình Lebourg không đúng cho hàm liên tục và vì vậy ông đã giới thiệu
định lý giá trị trung bình xấp xỉ. Định lý giá trị trung bình xấp xỉ sau đó tiếp
tục được nghiên cứu bởi nhiều nhà toán học khác như P. D. Loewen (1994),
L. Thibault (1995), J. -P. Penot (1997),... Năm 1996, B. S. Mordukhovich và
Y. Shao đã thiết lập định lý giá trị trung bình xấp xỉ cho dưới vi phân Fréchet
trong không gian Asplund, đó là không gian Banach mà mỗi không gian con
đóng khả ly có đối ngẫu khả ly. Định lý giá trị trung bình xấp xỉ của B. S.
Mordukhovich và Y. Shao là một công cụ để nghiên cứu vấn đề nhận biết các
tính chất của hàm số qua dưới vi phân. Trong phép chứng minh một số kết quả
theo hướng này, chẳng hạn định lý đặc trưng dưới vi phân của hàm Lipschitz
địa phương và định lý đặc trưng dưới gradient của hàm đơn điệu theo nón,
ngoại trừ việc sử dụng định lý giá trung bình xấp xỉ cho dưới vi phân Fréchet,
các lập luận khác vẫn đúng trong không gian Banach tùy ý. Vì vậy, câu hỏi
được đặt ra một cách tự nhiên là: Định lý giá trị trung bình xấp xỉ cho dưới
vi phân Fréchet có đúng trong không gian Banach bất kỳ hay không? Trong
Chương 2, chúng tôi chứng minh được lớp không gian Asplund là lớp không
gian Banach rộng nhất mà định lý giá trị trung bình xấp xỉ cho dưới vi phân
Fréchet đúng trong mỗi không gian thuộc nó.
5Khái niệm ánh xạ đơn điệu cực đại xuất hiện từ đầu thập niên 1960. Dưới vi
phân của các hàm lồi chính thường nửa liên tục dưới và phép chiếu trực giao
lên tập lồi đóng khác rỗng trong không gian Hilbert là những ví dụ về ánh xạ
đơn điệu cực đại. Đối với ánh xạ đơn trị liên tục, tính đơn điệu và đơn điệu
cực đại là trùng nhau. Tính đơn điệu cực đại của ánh xạ đã được sử dụng để
nghiên cứu một số khía cạnh quan trọng của các bài toán tối ưu và cân bằng,
chẳng hạn như, sự tồn tại nghiệm, tính ổn định nghiệm và sự hội tụ của các
phương pháp số. Theo kết quả cổ điển về đặc trưng tính đơn điệu, một ánh xạ
đơn trị khả vi là đơn điệu nếu và chỉ nếu đạo hàm của nó là nửa xác định dương
tại mọi điểm. Năm 1962, sử dụng đạo hàm theo hướng, G. J. Minty đã thiết
lập một điều kiện đủ để một ánh xạ đơn trị không trơn là đơn điệu. H. Jiang
và L. Qi (1995), D. T. Luc và S. Schaible (1996) đã cho thấy rằng một ánh xạ
đơn trị Lipschitz địa phương trong không gian hữu hạn chiều là đơn điệu nếu
và chỉ nếu mọi ma trận Jacobi suy rộng Clarke của nó là nửa xác định dương.
Sau đó, thay các ma trận Jacobi suy rộng Clarke bằng các ma trận Jacobi xấp
xỉ, V. Jeyakumar và các cộng sự (1998) đã thu được một điều kiện đủ để một
ánh xạ đơn trị liên tục là đơn điệu. R. A. Poliquin và R. T. Rockafellar (1998)
đã chứng minh được rằng đối đạo hàm của một ánh xạ đa trị đơn điệu cực đại
trong không gian hữu hạn chiều có tính nửa xác định dương. N. H. Chieu và
N. Q. Huy (2012), B. S. Mordukhovich và T. T. A. Nghia (2013) đã mở rộng
kết quả của này cho trường hợp không gian Hilbert. Gần đây, N. H. Chieu và
các cộng sự (2015) đã thu được một số đặc trưng đối đạo hàm cho tính đơn điệu
cực đại cho lớp ánh xạ đa trị hypo-đơn điệu (hypomonotone). Trong Chương 2,
sử dụng định lý giá trị trung bình xấp xỉ cho dưới vi phân Fréchet, các quy tắc
tổng dạng đẳng thức và định lý Weierstrass về sự tồn tại nghiệm tối ưu, chúng
tôi đã thiết lập một điều kiện đủ theo đối đạo hàm để một ánh xạ đơn trị liên
tục f xác định trên không gian Asplund X là đơn điệu (Định lý 2.3.5). Điều
kiện đủ của chúng tôi là điều kiện đủ cho tính đơn điệu theo đối đạo hàm đầu
tiên trong giải tích biến phân. Hơn thế, nó cũng là một điều kiện cần nếu f
là Lipschitz địa phương hoặc X là Hilbert. Chúng tôi cũng thu được một số
điều kiện đủ theo đối đạo hàm để một ánh xạ là đơn điệu trên một tập con của
X (Định lý 2.3.17). Bằng cách áp dụng các kết quả trên cho ánh xạ đạo hàm,
chúng tôi thu được một số điều kiện cần và điều kiện đủ theo dưới vi phân bậc
hai để một hàm số khả vi liên tục là lồi (Định lý 2.3.21). Kết quả này cải tiến
kết quả của N. H. Chieu và N. Q. Huy (2011).
Tính chất kiểu Lipschitz (Lipschitz-like) của các ánh xạ đa trị được giới thiệu
bởi J.-P. Aubin (1984) dưới tên gọi là tính giả Lipschitz (pseudo-Lipschitz).
A. L. Dontchev và R. T. Rockafellar gọi nó là tính chất Aubin, trong khi
6B. S. Mordukhovich gọi nó là tính chất kiểu Lipschitz. Năm 1993, B. S. Mor-
dukhovich đã thiết lập một đặc trưng đối đạo hàm cho tính chất kiểu Lipschitz
của ánh xạ đa trị, nó được gọi là tiêu chuẩn Mordukhovich. Năm 1996, sử dụng
tiêu chuẩn Mordukhovich, A. L. Dontchev và R. T. Rockafellar đã thu được
một đặc trưng của tính ổn định kiểu Lipschitz của bất đẳng thức biến phân trên
tập lồi đa diện không bị nhiễu trong không gian hữu hạn chiều. Năm 2010,
R. Henrion và các cộng sự đã mở rộng kết quả này lên không gian Banach
phản xạ. Đối với bất đẳng thức biến phân trên tập lồi đa diện bị nhiễu, tính ổn
định Lipschitz đã được nghiên cứu bởi N. D. Yen (1995) cho trường hợp bất
đẳng thức biến phân đơn điệu mạnh và S. Lu và S. M. Robinson (2008) cho
trường hợp bất đẳng thức affine. Năm 2009, trong không gian hữu hạn chiều,
N. D. Yen và J.-C. Yao đã thu được một số điều kiện đủ để bài toán là ổn định
kiểu Lipschitz. Trong không gian hữu hạn chiều, gần đây, N. T. Qui đã giới
thiệu một số cải tiến của những kết quả của N. D. Yen và J.-C. Yao. Một kết
quả khác rất đáng chú ý theo hướng nghiên cứu này là kết quả của N. M. Nam
(2010), ở đó tác giả lần đầu tiên đặc trưng được tính ổn định kiểu Lipschitz
của bất đẳng thức biến phân chứa tham số trên tập lồi đa diện bị nhiễu. Tuy
nhiên, đặc trưng này chỉ được thiết lập tại những điểm mà các véctơ hoạt xác
định miền ràng buộc là độc lập tuyến tính. Tại những điểm còn lại, thâm chí
người ta còn không biết liệu bài toán có thể ổn định kiểu Lipschitz được hay
không. Kết quả chính trong Chương 3 là như sau: tại những điểm mà véctơ
hoạt xác định miền ràng buộc là phụ thuộc tuyến tính dương, chúng tôi chứng
minh được bài toán không ổn định kiểu Lipschitz, còn tại những điểm mà véctơ
hoạt xác định miền ràng buộc là độc lập tuyến tính dương nhưng phụ thuộc
tuyến tính, chúng tôi chỉ ra các ví dụ cho thấy bài toán vẫn có thể ổn định
kiểu Lipschitz, đồng thời giới thiệu một điều kiện cần cho tính ổn định kiểu
Lipschitz. Ngoài ra, trong Chương 3 của luận án chúng tôi cũng đã thu được
các ước lượng đối đạo hàm của ánh xạ nghiệm của bài toán bất đẳng thức biến
phân trên tập lồi đa diện bị nhiễu.
7.2. Cấu trúc luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các công trình của tác giả có liên
quan đến luận án và Danh sách tài liệu tham khảo, nội dung của luận án gồm
ba chương. Chương 1 trình bày các kiến thức chuẩn bị và các kết quả liên quan
đến nón pháp tuyến của tập nghịch ảnh qua ánh xạ khả vi. Mục 1.1 được dành
để nhắc lại các khái niệm cơ bản của giải tích biến phân cần dùng trong luận
án này. Mục 1.2 cho thấy một số qui tắc tổng dạng đẳng thức là những hệ quả
của các công thức tính chính xác nón pháp tuyến của tập nghịch ảnh qua ánh
7xạ khả vi. Mục 1.3 được dành để thiết lập một kết quả về mối quan hệ giữa
công thức tính chính xác nón pháp tuyến của tập nghịch ảnh và điều kiện dạng
Karush-Kuhn-Tucker. Chương 2 nghiên cứu định lý giá trị trung bình xấp xỉ
cho dưới vi phân Fréchet, tính đơn điệu của các ánh xạ và tính lồi của các hàm
số. Mục 2.1 được dành để trình bày các kiến thức chuẩn bị của chương này.
Mục 2.2 đưa ra một đặc trưng của không gian Asplund theo định lý giá trị
trung bình xấp xỉ cho dưới vi phân Fréchet. Sử dụng định lý giá trị trung bình
xấp xỉ cho dưới vi phân Fréchet và các quy tắc tổng, Mục 2.3 thiết lập một số
kết quả về khả năng nhận biết tính đơn điệu của ánh xạ qua đối đạo hàm và
nhận biết tính lồi của hàm số qua dưới vi phân bậc hai. Chương 3 nghiên cứu
tính ổn định kiểu Lipschitz của bất đẳng thức biến phân chứa tham số trên tập
lồi đa diện bị nhiễu. Mục 3.1 được dành để phát biểu bài toán bất đẳng thức
biến phân trên tập lồi đa diện bị nhiễu. Mục 3.2 được dành để thiết lập các ước
lượng đối đạo hàm của ánh xạ nghiệm của bài toán này. Mục 3.3 thu được các
kết quả về tính ổn định kiểu Lipschitz của bất đẳng thức biến phân trên tập lồi
đa diện bị nhiễu.
Chương 1
Nón pháp tuyến của tập nghịch ảnh
qua ánh xạ khả vi
Chương này được dành để khảo sát mối quan hệ giữa công thức tính nón
pháp tuyến của tập nghịch ảnh qua ánh xạ khả vi, quy tắc tổng dạng đẳng thức
và điều kiện tối ưu dạng Karush-Kuhn-Tucker. Kết quả chính là Định lý 1.3.4,
nó là một mở rộng của kết quả tương ứng của F. J. Gould và J. W. Tolle (1971)
từ không gian hữu hạn chiều lên không gian Banach.
1.1. Các khái niệm cơ bản
Trong mục này, chúng ta nhắc lại một số khái niệm và ký hiệu đã được
biết trong giải tích biến phân. Nếu không giải thích gì thêm, X và Y là các
không gian Banach trên trường số thực, có các không gian đối ngẫu tôpô tương
ứng là X∗ và Y ∗. Với (x∗, x) ∈ X∗ ì X , đặt 〈x∗, x〉 := x∗(x). Tôpô sinh
bởi chuẩn được ký hiệu là τ‖ã‖, còn tôpô yếu∗ của không gian X∗ sẽ được ký
hiệu σ
(
X∗, X
)
. Chuẩn trên không gian tích là ‖(x, y)‖ := ‖x‖+ ‖y‖ với mọi
(x, y) ∈ X ì Y.
81.1.1 Định nghĩa. Cho Ω là tập con khác rỗng của X.
(i) Với mỗi ε ≥ 0, tập hợp các ε-pháp tuyến của Ω tại x¯ ∈ Ω, ký hiệu
N̂ε(x¯; Ω), là tập con của X
∗
được xác định bởi
N̂ε(x¯; Ω) :=
{
x∗ ∈ X∗
∣∣∣ lim sup
x
Ω−→x¯
〈x∗, x− x¯〉
‖x− x¯‖ ≤ ε
}
,
ở đây x
Ω−→ x¯ có nghĩa là x→ x¯ với x ∈ Ω. Nếu x¯ 6∈ Ω, thì đặt N̂ε(x¯; Ω) := ∅.
Khi ε = 0, tập hợp N̂(x¯; Ω) := N̂0(x¯; Ω) là một nón và nó được gọi là nón
pháp tuyến Fréchet của Ω tại x¯.
(ii) Nón pháp tuyến qua giới hạn của Ω tại x¯ ∈ Ω, ký hiệu N(x¯; Ω), là tập
con của X∗ được xác định bởi
N(x¯; Ω) := Lim sup
x→ x¯
ε↓0
N̂ε(x; Ω),
ở đây “ Lim sup ” là giới hạn trên Painlevé-Kuratowski theo dãy, nghĩa là
x∗ ∈ N(x¯; Ω) khi và chỉ khi tồn tại εk ↓ 0, xk → x¯, và x∗k ∈ N̂εk(xk; Ω) sao
cho x∗k
w∗−→ x∗. Ký hiệu x∗k w
∗−→ x∗ có nghĩa là x∗k → x∗ theo σ
(
X∗, X
)
. Qui
ước N(x¯; Ω) := ∅ nếu x¯ 6∈ Ω.
1.1.2 Định nghĩa. Cho U là một tập con mở của X, f : U → Y và x¯ ∈ U.
(i) Ta gọi f là khả vi chặt tại x¯ nếu tồn tại một ánh xạ tuyến tính liên tục
∇f(x¯) : X → Y sao cho
lim
x,u→x¯
x 6=u
f(x)− f(u)− 〈∇f(x¯), x− u〉
‖x− u‖ = 0. (0.1)
Trong trường hợp này, ∇f(x¯) được gọi là đạo hàm chặt của f tại x¯.
(ii) Nếu tồn tại một ánh xạ tuyến tính liên tục ∇f(x¯) : X → Y sao cho
(0.1) đúng với u = x¯, thì f được gọi là khả vi tại x¯ và ánh xạ ∇f(x¯) : X → Y
được gọi là đạo hàm của f tại x¯.
(iii) Ta nói f là khả vi liên tục tại x¯ nếu tồn tại δ > 0 sao cho f khả vi tại
mọi x ∈ Bδ(x¯) và ánh xạ ∇f : Bδ(x¯)→ L(X;Y ), x 7→ ∇f(x) là liên tục tại
x¯, ở đây Bδ(x¯) là hình cầu đóng tâm x¯ bán kính δ và L(X;Y ) là không gian
các ánh xạ tuyến tính liên tục từ X vào Y.
(iv) Ta nói f khả vi (tương ứng, khả vi chặt, khả vi liên tục) trên U nếu nó
khả vi (tương ứng, khả vi chặt, khả vi liên tục) tại mọi điểm thuộc U.
Với mỗi x ∈ X , ánh xạ ϕx : X∗ → R, x∗ 7→ ϕx(x∗) := 〈x∗, x〉 là một
phiếm hàm