Tóm tắt Luận án Nghiên cứu chọn tạo và biện pháp nâng cao năng suất, phẩm chất dõng dưa hấu (citrullus vulgaris l.) tam bội in vitro

Dưa hấu (Citrullus vulgaris L.) là loại cây trồng phổ biến nhất trên thế giới. Việt Nam có truyền thống trồng dưa hấu từ thời vua Hùng Vương thứ 18; đến nay, việc sản xuất dưa hấu ngày càng phát triển, đứng thứ 5 về xuất khẩu (FAOStat, 2012). Dưa hấu ăn rất ngon, nhất là trong những ngày hè nóng bức; tuy nhiên có điều bất tiện khi dùng dưa hấu nhị bội vì chứa nhiều hạt (Donald and Maynard, 1992). Do đó, giống dưa hấu không hạt (3X-tam bội) được nhiều người ưa chuộng, vì không phải bỏ hạt khi ăn, đồng thời dưa còn có chất lượng tốt do ngon ngọt. Người tiêu dùng có thể vui lòng mua và thưởng thức loại dưa không hạt dù giá tiền cao hơn so với dưa hấu thông thường nhị bội có hạt (Marr and Gast, 1991; Maynard et al., 2002). Dưa hấu tam bội được tạo thành bằng phương pháp lai tạo giữa thể tự tứ bội với nhị bội (Andrus et al., 1971; Kihara, 1951; Guo et al., 2011). Trong đó, dưa hấu tứ bội được tạo thành công bằng cách xử lý cây con nhị bội với colchicine hay oryzalin, nơi vườn ươm hay trong môi trường in vitro (Kihara, 1951; Raza et al., 2003; Noh et al., 2012; Lâm Ngọc Phương và Nguyễn Kim Hằng, 2010). Tuy nhiên, cây dưa hấu tứ bội rất ít hạt (giảm 10 lần so với hạt nhị bội), tỷ lệ nảy mầm của hạt thấp, muốn duy trì dòng tứ bội rất đắt tiền (Trần Khắc Thi et al., 2008). Theo Compton and Gray (1992); Compton et al. (1993), ứng dụng kỹ thuật nuôi cấy mô trong tạo dòng tứ bội và tam bội là một phương pháp đã làm giảm được thời gian nhân dòng (1-2 năm) và thuận lợi cho việc bảo quản các dòng dưa hấu này thay cho phương pháp truyền thống. Ở đồng bằng sông Cửu Long, sản xuất dưa hấu không hạt ngày càng tăng nhưng chi phí sản xuất cao do chủ yếu sử dụng giống nhập nội, giá thành hạt giống cao vì hạt khó tồn trữ dễ mất sức nảy mầm (Marr and Gast, 1991). Công tác chọn tạo ra giống dưa hấu không hạt mới có xuất xứ ở Việt Nam là rất cấp thiết. Vì thế, đề tài “Nghiên cứu chọn tạo và biện pháp nâng cao năng suất, phẩm chất dòng dƣa hấu (Citrullus vulgaris L.) tam bội in vitro” được thực hiện.

pdf28 trang | Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 334 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Nghiên cứu chọn tạo và biện pháp nâng cao năng suất, phẩm chất dõng dưa hấu (citrullus vulgaris l.) tam bội in vitro, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Chuyên ngành: Khoa học cây trồng Mã ngành: 62 62 01 10 TRẦN THANH TRUYỀN NGHIÊN CỨU CHỌN TẠO VÀ BIỆN PHÁP NÂNG CAO NĂNG SUẤT, PHẨM CHẤT DÕNG DƢA HẤU (Citrullus vulgaris L.) TAM BỘI IN VITRO Cần Thơ, 2019 CÔNG TRÌNH ĐƢỢC HOÀN THÀNH TẠI TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ Người hướng dẫn chính: PGS.TS. Lâm Ngọc Phương Luận án được bảo vệ trước hội đồng chấm luận án tiến sĩ cấp trường Họp tại: Hội trường .; Khoa... ; Trường Đại học Cần Thơ. Vào lúc .. giờ .. ngày .. tháng .. năm .. Phản biện 1: Phản biện 2: Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: Trung tâm Học liệu, Trường Đại học Cần Thơ. Thư viện Quốc gia Việt Nam. 1 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ 1. Trần Thanh Truyền, Lâm Ngọc Phương và Ngô Phương Ngọc. 2014. Hiệu quả của Benzyl adenin (BA), Indole butyric acid (IBA) và than hoạt tính trên sự tạo chồi và ra rễ của cây dưa hấu tam bội (Citrullus vulgaris Schrad.) in vitro. Tạp chí Khoa học trường Đại học Cần Thơ, pp: 168-172. 2. Trần Thanh Truyền và Lâm Ngọc Phương. 2017. Kết quả trồng thử nghiệm các dòng dưa hấu tam bội (3x) tại Đồng Bằng Sông Cửu Long. Tạp chí Nông nghiệp Phát triển Nông thôn chuyên đề Giống cây trồng, vật nuôi, tập 1, pp: 108-114. 2 CHƢƠNG 1: GIỚI THIỆU Dưa hấu (Citrullus vulgaris L.) là loại cây trồng phổ biến nhất trên thế giới. Việt Nam có truyền thống trồng dưa hấu từ thời vua Hùng Vương thứ 18; đến nay, việc sản xuất dưa hấu ngày càng phát triển, đứng thứ 5 về xuất khẩu (FAOStat, 2012). Dưa hấu ăn rất ngon, nhất là trong những ngày hè nóng bức; tuy nhiên có điều bất tiện khi dùng dưa hấu nhị bội vì chứa nhiều hạt (Donald and Maynard, 1992). Do đó, giống dưa hấu không hạt (3X-tam bội) được nhiều người ưa chuộng, vì không phải bỏ hạt khi ăn, đồng thời dưa còn có chất lượng tốt do ngon ngọt. Người tiêu dùng có thể vui lòng mua và thưởng thức loại dưa không hạt dù giá tiền cao hơn so với dưa hấu thông thường nhị bội có hạt (Marr and Gast, 1991; Maynard et al., 2002). Dưa hấu tam bội được tạo thành bằng phương pháp lai tạo giữa thể tự tứ bội với nhị bội (Andrus et al., 1971; Kihara, 1951; Guo et al., 2011). Trong đó, dưa hấu tứ bội được tạo thành công bằng cách xử lý cây con nhị bội với colchicine hay oryzalin, nơi vườn ươm hay trong môi trường in vitro (Kihara, 1951; Raza et al., 2003; Noh et al., 2012; Lâm Ngọc Phương và Nguyễn Kim Hằng, 2010). Tuy nhiên, cây dưa hấu tứ bội rất ít hạt (giảm 10 lần so với hạt nhị bội), tỷ lệ nảy mầm của hạt thấp, muốn duy trì dòng tứ bội rất đắt tiền (Trần Khắc Thi et al., 2008). Theo Compton and Gray (1992); Compton et al. (1993), ứng dụng kỹ thuật nuôi cấy mô trong tạo dòng tứ bội và tam bội là một phương pháp đã làm giảm được thời gian nhân dòng (1-2 năm) và thuận lợi cho việc bảo quản các dòng dưa hấu này thay cho phương pháp truyền thống. Ở đồng bằng sông Cửu Long, sản xuất dưa hấu không hạt ngày càng tăng nhưng chi phí sản xuất cao do chủ yếu sử dụng giống nhập nội, giá thành hạt giống cao vì hạt khó tồn trữ dễ mất sức nảy mầm (Marr and Gast, 1991). Công tác chọn tạo ra giống dưa hấu không hạt mới có xuất xứ ở Việt Nam là rất cấp thiết. Vì thế, đề tài “Nghiên cứu chọn tạo và biện pháp nâng cao năng suất, phẩm chất dòng dƣa hấu (Citrullus vulgaris L.) tam bội in vitro” được thực hiện. 1.1 Mục tiêu của luận án Mục tiêu chính: tạo được cây dưa hấu tam bội. Mục tiêu cụ thể: i) Tạo được các dòng dưa hấu tứ bội, tam bội. ii) Xác định môi trường thích hợp nhân nhanh các dòng dưa hấu tứ bội, tam bội. iii) Đánh giá sinh trưởng, năng suất và chất lượng trái của các dòng dưa hấu tam bội tạo ra trong điều kiện ngoài đồng. 1.2 Ý nghĩa của luận án: i) Tạo được dòng dưa hấu tam bội có nguồn gốc từ Việt Nam. ii) Ứng dụng kỹ thuật nuôi cấy mô, tế bào để rút ngắn thời gian chọn tạo, nhân dòng và giúp giảm giá thành cây giống tứ bội và tam bội. iii) Xác định được môi trường thích hợp để nhân giống các dòng dưa hấu tứ bội và tam bội. iv) Khảo sát và đánh giá khả năng sinh trưởng, phẩm chất trái của 2 dòng dưa hấu tam bội tạo thành cấy mô trồng ngoài đồng. v) Đánh giá bước đầu về liều lượng phân đạm và mật độ trồng trên dòng dưa hấu tam bội tạo thành trồng ngoài đồng. 3 1.3 Điểm mới của luận án: i) Tạo cây con tứ bội bằng phương pháp nuôi cấy mô và xử lý đa bội hóa; trồng cây ra đồng. ii) Lai tạo thành công hạt tam bội từ hoa cái cây tứ bội với phấn hoa cây nhị bội. iii) Tìm được môi trường nuôi cấy in vitro thích hợp cho việc nhân chồi, tạo rễ các dòng dưa hấu tứ bội, tam bội, nhân nhanh giống; góp phần giảm bớt chi phí đầu tư ban đầu trong sản xuất dưa hấu không hạt. iv) Khảo sát và đánh giá khả năng sinh trưởng, phẩm chất trái của 2 dòng dưa hấu tam bội tạo thành cấy mô trồng ngoài đồng tại Cần Thơ và Hậu Giang. v) Bước đầu đánh giá được liều lượng phân đạm cùng mật độ trồng phù hợp cho sự sinh trưởng phát triển, năng suất và phẩm chất trái của dòng tam bội lai cấy mô trồng ngoài đồng. CHƢƠNG 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1 Cơ sở khoa học tạo thể đa bội bằng colchicine và oryzalin Colchicine có công thức hóa học là C22H25O6N được chiết xuất từ cây Colchicum autumnale L. mọc nhiều ở bờ biển Địa Trung Hải. Bột colchicine tinh khiết có màu trắng ngà, dễ hòa tan trong nước, cồn, cloroform. Colchicine có tính bền vững cao, dung dịch bảo quản được lâu và có thể khử trùng trong nồi hấp, tuy nhiên nó dễ phân giải ngoài ánh sáng nên cần bảo quản trong tối. Colchicine là chất độc có tác dụng làm tê liệt nên cần hết sức thận trọng khi làm việc với nó (Trần Thượng Tuấn, 1992). Oryzalin có công thức hóa học C12H18N4O6S là một loại thuốc cỏ Dinitroaniline, là một tinh thể rắn màu vàng cam với điểm nóng chảy 141-142˚C, trọng lượng phân tử là 346,35; hòa tan trong nước ở mức 2,5 ppm trong điều kiện nhiệt độ 25˚C. Dễ dàng hòa tan trong các dung môi hữu cơ như acetone, ethanol, methanol và acetonitrile, ít tan trong benzen và xylene, không hòa tan trong hexane. Oryzalin được dùng để kích thích sự đa bội hóa ở nhiều loại cây trồng (Morejohn et al., 1987). Theo EPA (Environmental Protection Agency) (1994) oryzalin có hoạt động ức chế sự phân bào ở các loài cây trồng và được đăng ký đầu tiên ở Mỹ năm 1974. Tác động của oryzalin đến sự phân bào cũng giống như colchicine tức chúng tác động lên liên kết disulphite của prôtêin và phân tử ribôse của acid ribônuclêic. Trong quá trình phân bào, hóa chất này làm thoi vô sắc ngừng hoạt động do chúng hình thành phức hợp vi ống - hóa chất, ngăn cản sự phân chia tế bào và tâm động phân chia muộn hơn, trong khi sự tái bản của nhiễm sắc thể và hình thành cromatit vẫn diễn ra bình thường. Ở kỳ giữa của nguyên phân, các nhiễm sắc thể không phân bố trên mặt phẳng xích đạo của thoi vô sắc, nhiễm sắc thể rút ngắn lại và dày lên. Sự phân ly các nhiễm sắc thể về hai cực đối diện ở giai đoạn hậu kỳ không xảy ra, tế bào không phân chia, mặc dù số lượng nhiễm sắc thể đã tăng gấp đôi. Kích thước của các tế bào này lớn hơn các tế bào thường. Khi ngưng sự tác động của hóa chất thì tế bào lại có khả năng phân chia bình thường và tạo nên các tế bào tứ bội (Trần Thượng Tuấn, 1992; Dolezel et al., 2004). Tuy nhiên, hoạt động gắn kết với vi ống của oryzalin chặt chẽ hơn so với colchicine. Những cây trồng được xử lý oryzalin ở nồng độ micromolar (µM) cho kết quả tương đương với những cây trồng được xử lý bằng colchicine ở nồng độ milimolar (mM) (Dolezel et al., 2004). 4 Mặt khác oryzalin chủ yếu xâm nhập thông qua bề mặt vết cắt và đi vào qua lớp tế bào biểu bì và qua cả lớp cutin trên bề mặt tế bào lá (Allum et al., 2007). 2.2 Phƣơng pháp xác định cây đa bội Hình thái và đặc điểm sinh trưởng, phát triển: hình thái lá là một tiêu chí hữu ích cho việc xác định các dòng tứ bội cùng nguồn trước khi tuyển chọn chúng ra bên ngoài. Lá cây dưa hấu tứ bội lớn, dày và xanh đậm hơn so với cây lưỡng bội (Kihara, 1951). Bên cạnh đó, tỷ lệ chiều dài/chiều rộng của lá tứ bội (1,00±0,02 và 1,02±0,02) đều thấp hơn lá nhị bội (1,28±0,02 và 1,30±0,02) trên cả hai giống dưa hấu Giza 1 và Giza 21 trong điều kiện in vivo (Nasr et al., 2004), diện tích lá tứ bội lại lớn hơn lá nhị bội ở tất cả các giống quan sát. Ngoài hình dạng và kích thước lá thì dưa hấu tứ bội TPS có hoa lớn hơn, trọng lượng trái cũng lớn, trung bình 4 kg và có khoảng 70 hạt/quả, thịt quả màu đỏ đậm, cứng và tỷ lệ đường khoảng 12,5% (Karchi et al., 1981). Thêm vào đó, độ dày vỏ và số hạt lép/trái của các cây tứ bội cao hơn nhị bội (Ahmad et al., 2013), nhưng tốc độ tăng trưởng lúc đầu chậm hơn và thời gian ra hoa cũng muộn hơn so với cây nhị bội (Pradeepkumar, 2011). Mật số khí khẩu/đơn vị diện tích lá và chiều dài khí khẩu: sự khác biệt về mật số khí khẩu là tiêu chuẩn để phân biệt thể lưỡng bội (2n) và thể tứ bội (4n) của tế bào thực vật, cũng như để xác định các dạng đa bội (Hamill et al., 1992). Kích thước của tế bào khí khẩu trên dưa hấu Sugar Baby tứ bội (được xác định bằng phương pháp phân tích hàm lượng ADN nhân) lớn hơn so với các cây nhị bội (Thayyil et al., 2016). Phương pháp này nhanh chóng, không tốn kém, không đòi hỏi thiết bị tinh vi và có tỷ lệ chính xác khá cao (một số trường hợp lên đến 90%; Cohen and Yao, 1996). Tuy nhiên, đây chỉ là phương pháp gián tiếp để đánh giá mức độ đa bội. Nếu cây trồng ở trạng thái tạp bội thì phương pháp này không đáng tin cậy cần kết hợp thêm các phương pháp khác (Chen et al., 2006). Đếm số lượng nhiễm sắc thể là một trong những phương pháp trực tiếp và chính xác nhất để xác định mức độ đa bội nhưng nếu sàn lọc sớm và sơ bộ sẽ gây mất thời gian. Bên cạnh đó, việc đếm nhiễm sắc thể sẽ tốn nhiều thời gian, công sức và khó thực hiện trên những loại cây trồng có số lượng nhiễm sắc thể lớn và kích thước tế bào nhỏ. Đặc biệt, đối với dưa hấu phương pháp này lại khó thực hiện bởi kích thước nhiễm sắc thể nhỏ (Jaskani and Khan, 2000). Phân tích flow cytometry (dòng chảy tế bào) bằng máy đo đa bội thể (Partec Ploidy Analyser): phương pháp phân tích dòng chảy tế bào có nhiều thuận lợi hơn so với phương pháp đếm nhiễm sắc thể (Leus, 2005; Loureiro et al., 2005): thuận tiện trong công tác chuẩn bị mẫu và nhanh chóng vì chỉ cần một lượng mẫu nhỏ. Qui trình phân tích đơn giản, thực hiện nhiều mẫu trong cùng thời gian. Có thể lấy nhiều loại mô khác nhau để phân tích như: lá, rễ, thân, cánh hoa, hạt, trái, mà không cần xác định giai đoạn phân chia tế bào. Chi phí phân tích mẫu bằng phương pháp này là chấp nhận được. Chỉ cần chi phí lúc ban đầu cho máy phân tích, còn các vật liệu, hóa chất liên quan thì giá thành thấp. Hiện nay trên thế giới, phương pháp phân tích dòng chảy tế bào là một trong những công cụ quan trọng trong việc đánh giá mức bội thể các mẫu giống được tạo và rất nhiều nghiên cứu sử dụng phương pháp này (Faten et al., 2012; Jaskani et al., 2005). Tuy nhiên, phương pháp này đòi hỏi phải mua thiết bị đắt tiền và đặc điểm của nhiễm sắc thể không thể quan sát được. 5 2.3 Dƣa hấu tam bội (không hạt) Dưa hấu tam bội lần đầu tiên được sản xuất bởi Kihara và Nishiyama vào năm 1939 bằng cách sử dụng colchicine tạo ra thể 4x và cho lai với hạt phấn cây nhị bội. Hiện nay, đa số các dưa hấu không hạt được sản xuất theo phương pháp này và được xem là phương pháp hữu hiệu nhất (Guo et al., 2011; Wang et al., 2013). Để dưa hấu không hạt sinh trưởng đạt kích thước bình thường, thịt quả không có hiện tượng rỗng ruột hình trái tim thì nhất thiết phải có quá trình thụ phấn giả (Mark Arena, 2012; Johnson, 2014). Chính vì thế, khi trồng dưa tam bội nhất thiết phải trồng xen thêm 25% đến 33% các cây dưa nhị bội để đảm bảo quá trình thụ phấn thành công, nhằm tăng tỷ lệ đậu trái (Olson et al, 2012; Fiachino and Walters, 2003). Kỹ thuật lai tạo dòng dưa hấu tam bội gồm 4 bước: (1) chọn lọc các dòng nhị bội, (2) sản xuất các cây tứ bội, (3) phát triển các dòng tứ bội và nhị bội thuần, (4) lai tạo hạt lai tam bội (cây mẹ tứ bội x phấn hoa nhị bội) và trồng tạo trái tam bội (thụ phấn bổ khuyết hạt phấn nhị bội) (Wehner, 2008). 2.4 Vai trò của vi nhân giống đối với cây trồng Vi nhân giống là một công cụ đắc lực để nhân đa số cây thân thảo (cây dược liệu, cây ăn quả, cây lương thực, cây cảnh), làm giảm giá thành các cây lai F1, đặc biệt đối với các cây lai tam bội như dưa hấu không hạt, mang lại hiệu quả kinh tế cao so với việc sử dụng các phương pháp truyền thống khác, góp phần bảo vệ an ninh lương thực và chống biến đổi khí hậu toàn cầu. Do phương pháp này đã khắc phục được những hạn chế về việc sản xuất hạt giống hàng năm như: năng suất hạt kém, giá thành cao, hạt nẩy mầm kém, cây con yếu (Nguyễn Bảo Toàn, 2005; Lâm Ngọc Phương, 2012). 2.5 Ảnh hƣởng của mật độ trồng và lƣợng phân đạm đến năng suất, phẩm chất trái dƣa hấu Mật độ trồng dưa hấu khác nhau ở mỗi vùng miền và mỗi loại giống, khoảng cách càng ngắn tức mật độ cây trồng tăng sẽ làm tăng năng suất dưa hấu không hạt so với mật độ thấp (Motsenbocker and Arancibia, 2002; Walters, 2009; Strang et al., 2005). Phân bón có ý nghĩa trong việc tăng năng suất và phẩm chất dưa. Việc cung cấp đầy đủ đạm làm hoạt động quang hợp cao, sinh trưởng mạnh và cho bộ lá màu xanh đậm. Khi tăng nồng độ đạm sẽ làm tăng năng suất trái, độ Brix và hàm lượng lycopene trên dưa hấu... Nhưng khi tăng lượng đạm quá cao dưa phát triển thân lá mạnh, cây xum xuê nhưng có thể ảnh hưởng đến độ cứng cây vì thế cây trở nên mọng nước, do đó chống chịu sâu bệnh yếu, khó đậu trái, trái chín chậm, tích nhiều nước, vị lạt và không giữ được lâu sau thu hoạch. Thiếu đạm cây tăng trưởng kém, lóng ngắn, lá nhỏ và trái cũng nhỏ (Phạm Hồng Cúc, 2007). 6 CHƢƠNG 3: VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP Phương pháp thí nghiệm gồm 4 giai đoạn chính (Hình 3.1) với mỗi giai đoạn có các thí nghiệm cụ thể như sau: 3.1 Cảm ứng tạo thành cây dƣa hấu tứ bội in vitro bằng colchicine và oryzalin trên các dòng dƣa hấu nhị bội 3.1.1 Thí nghiệm 1: Ảnh hƣởng của thời gian xử lý colchicine lên sự sinh trƣởng của 2 dòng dƣa hấu nhị bội TPS và TPT in vitro Vật liệu: hạt dưa hấu của 2 dòng nhị bội thuần gồm TPS, TPT. Trong đó: dòng TPS có nguồn gốc từ giống Sugar Baby với dạng trái tròn hay oval, vỏ quả xanh đen, ruột đỏ. Dòng TPT có nguồn gốc lai tạo từ giống Thành Long với dạng trái oval, vỏ quả xanh lá có sọc xanh đậm, ruột đỏ. Các dòng này được phòng thí nghiệm bộ môn Sinh lý-Sinh hóa cung cấp. Hạt dưa hấu của 2 dòng nhị bội này được khử trùng và nuôi cấy trong môi trường MS in vitro. Bố trí thí nghiệm: thí nghiệm được bố trí theo thể thức 1 nhân tố kiểu hoàn toàn ngẫu nhiên gồm 3 mức độ thời gian xử lý colchicine (4, 6, 8 ngày) và 1 đối chứng (không xử lý) với 5 lần lặp, mỗi lần lặp 2 keo, mỗi keo 10 mẫu chồi đỉnh in vitro. Các chỉ tiêu theo dõi: số lượng khí khẩu/mm2, tỷ lệ cây có kiểu hình đa bội, tỷ lệ cây tứ bội được kiểm tra bằng phân tích dòng chảy tế bào. 3.1.2 Thí nghiệm 2: Ảnh hƣởng của thời gian xử lý oryzalin lên sự sinh trƣởng của 4 dòng dƣa hấu nhị bội in vitro Vật liệu: hạt dưa hấu của 4 dòng nhị bội thuần gồm TPS, TPB, TPT, TPX. Trong đó:dòng TPS và dòng TPT như thí nghiệm 1. Dòng TPB có nguồn gốc từ giống Bảo Long với dạng trái oval, vỏ màu xanh đen có sọc, ruột đỏ. Dòng TPX có nguồn gốc lai tạo từ giống Xuân Lan với dạng trái oval, vỏ màu xanh lá nhạt có sọc xanh đậm, ruột vàng. Các dòng này được phòng thí nghiệm bộ môn Sinh lý-Sinh hóa cung cấp. Hạt dưa hấu của 4 dòng nhị bội thuần được khử trùng và nuôi cấy trong môi trường MS in vitro. Bố trí thí nghiệm: thí nghiệm được bố trí theo thể thức thừa số 2 nhân tố kiểu hoàn toàn ngẫu nhiên gồm 4 dòng dưa hấu nhị bội TPS, TPB, TPT, TPX và 2 mức thời gian xử lý oryzalin (48 và 54 giờ) và 1 đối chứng (không xử lý) với 5 lần lặp, mỗi lần lặp 2 keo, mỗi keo 10 mẫu chồi đỉnh. Chỉ tiêu theo dõi: tương tự thí nghiệm 1. 3.2 Thí nghiệm 3: Đánh giá khả năng tạo chồi và sinh trƣởng của hai dòng tứ bội TPT và TPS trong môi trƣờng có bổ sung BA Vật liệu: các chồi đơn cấy mô của 2 dòng dưa hấu tứ bội TPT và TPS được chọn lọc bằng phương pháp phân tích dòng chảy tế bào, nuôi cấy trên môi trường MS 3 tuần trước khi làm vật liệu thí nghiệm. Chọn các chồi có chiều cao, số lá tương đối đồng nhất giữa các nghiệm thức. Bố trí thí nghiệm: thí nghiệm được bố trí theo thể thức thừa số 2 nhân tố kiểu hoàn toàn ngẫu nhiên với 6 nghiệm thức gồm 2 dòng dưa hấu tứ bội TPT, TPS và 3 mức nồng độ BA (0; 0,5; 1 mg/L) với 3 lần lặp lại, mỗi lần lặp lại 2 keo, mỗi keo cấy 4 mẫu. Các chỉ tiêu theo dõi: số chồi/mẫu, chiều cao chồi, số lá/mẫu gia tăng. 3.3 Thí nghiệm 4: Đánh giá khả năng tạo chồi và sinh trƣởng của hai dòng tứ bội TPB và TPX trong môi trƣờng có bổ sung BA Vật liệu: chồi đơn dưa hấu của hai dòng tứ bội TPB và TPX cấy mô (tương tự thí nghiệm 3). 7 Bố trí thí nghiệm: thí nghiệm được bố trí theo thể thức thừa số 2 nhân tố kiểu hoàn toàn ngẫu nhiên với 4 nghiệm thức gồm 2 dòng dưa hấu tứ bội TPB, TPX và 2 mức nồng độ BA (0,5; 1 mg/L) với 3 lần lặp lại, mỗi lần lặp lại 2 keo, mỗi keo cấy 4 mẫu. Các chỉ tiêu theo dõi: tương tự thí nghiệm 3. 3.4 Thí nghiệm 5: Đánh giá khả năng tạo rễ, sinh trƣởng của dòng tứ bội TPT trên môi trƣờng có bổ sung IBA và NAA Vật liệu: chồi đơn dưa hấu tứ bội TPT cấy mô trên môi trường MS sau 3 tuần nuôi cấy với chiều cao và số lá tương đối đồng nhất. Bố trí thí nghiệm: thí nghiệm được bố trí theo thể thức thừa số 2 nhân tố kiểu hoàn toàn ngẫu nhiên, với 6 nghiệm thức, gồm 2 nồng độ IBA (0 và 1 mg/L) và 3 nồng độ NAA (0; 0,2; 0,5 mg/L) mỗi nghiệm thức 3 lần lặp lại, mỗi lần lặp lại 2 keo, mỗi keo cấy 4 mẫu. Các chỉ tiêu theo dõi: số rễ (rễ), chiều dài rễ (cm). 3.5 Thí nghiệm 6: Đánh giá khả năng tạo rễ, sinh trƣởng của dòng tứ bội TPS trên môi trƣờng có bổ sung IBA và NAA. Vật liệu: chồi đơn dưa hấu tứ bội TPS cấy mô trên môi trường MS sau 3 tuần nuôi cấy có chiều cao và số lá tương đối đồng nhất. Bố trí thí nghiệm: thí nghiệm được bố trí theo thể thức thừa số 2 nhân tố kiểu hoàn toàn ngẫu nhiên, với 6 nghiệm thức, gồm 2 nồng độ IBA (0 và 1 mg/L) và 3 nồng độ NAA (0; 0,2; 0,5 mg/L) mỗi nghiệm thức 3 lần lặp lại, mỗi lần lặp lại 2 keo, mỗi keo cấy 4 mẫu. Các chỉ tiêu theo dõi: tương tự thí nghiệm 5. 3.6 Thí nghiệm 7: Đánh giá khả năng tạo rễ, sinh trƣởng của bốn dòng tứ bội trên môi trƣờng có bổ sung IBA Vật liệu: chồi đơn của bốn dòng dưa hấu tứ bội cấy mô trên môi trường MS sau 3 tuần nuôi cấy với chiều cao và số lá tương đối đồng nhất. Bố trí thí nghiệm: thí nghiệm được bố trí theo thể thức 1 nhân tố kiểu hoàn toàn ngẫu nhiên gồm 4 dòng dưa hấu tứ bội với 3 lần lặp lại, mỗi lần lặp lại 2 keo, mỗi keo cấy 4 mẫu. Các chỉ tiêu theo dõi: tương tự thí nghiệm 5. 3.7 Thí nghiệm 8: Đánh giá, chọn lọc các dòng tứ bội cấy mô và lai tạo hạt tam bội ngoài đồng Vật liệu: cây con của bốn dòng dưa hấu tứ bội cấy mô được thuần dưỡng tại trại thực nghiệm Đại Học Cần Thơ. Bố trí thí nghiệm: thí nghiệm bố trí theo thể thức 1 nhân tố kiểu khối hình vuông la tinh gồm 4 dòng dưa hấu tứ bội cấy mô với 4 lần lặp lại sao cho mỗi lần lặp có đủ 4 dòng dưa hấu tứ bội cấy mô tương ứng với 10 cây/dòng/lần lặp lại. Địa điểm bố trí: tỉnh Hậu Giang. Các chỉ tiêu theo dõi: chỉ tiêu sinh trưởng (chiều dài dây dưa, số lá/dây), chỉ tiêu trái (số trái lai thành công, khối lượng trái, năng suất) và phẩm chất trái (độ dày vỏ, độ Brix, số hạt tam bội chắc/trái/dòng). 3.8 Thí nghiệm 9: Đánh giá khả năng tạo chồi và sinh trƣởng của các dòng tam bội cấy mô trên môi trƣờng có bổ sung BA Vật liệu: chồi đơn từ hạt dưa hấu tam bội thu từ thí nghiệm 8 được khử trùng và chuyển vào môi trường MS in vitro. Trong đó, các dòng TriP1, TriP2, TriP3, TriP4 là hạt lai tương ứng từ các dòng mẹ tứ bội TPX, TPT, TPB và TPS. Bố trí thí nghiệm: thí nghiệm được bố trí theo
Luận văn liên quan