Tóm tăt Luận án Nghiên cứu lâm sản ngoài gỗ ở khu vực vườn quốc gia Pù Mát nhằm đề xuất các giải pháp khai thác và phát triển bền vững

Hiện nay, việc thống kê các loài Lâm sản ngoài gỗ (LSNG) chưa được thực hiện đầy đủ, việc khai thác và buôn bán LSNG chưa được quản lý chặt chẽ, các loại LSNG bị khai thác tự do trong thiên nhiên, thị trường buôn bán tự phát, lượng lớn LSNG xuất khẩu tiểu ngạch sang Trung Quốc ở dạng nguyên liệu thô, các địa phương ít quan tâm đến việc bảo tồn và phát triển những loài LSNG giá trị. Tất cả những vấn đề trên đã làm nguồn tài nguyên LSNG ở nhiều vùng miền núi ngày càng cạn kiệt, làm mức độ phụ thuộc vào rừng của người dân địa phương sống trong các Vườn Quốc gia (VQG) và các Khu bảo tồn (KBT) ngày càng lớn, tài nguyên rừng ngày càng cạn kiệt, cơ hội cải thiện đời sống, phát triển kinh tế ở các vùng miền núi càng hiếm hoi và khó khăn hơn.

pdf27 trang | Chia sẻ: lecuong1825 | Lượt xem: 5532 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tăt Luận án Nghiên cứu lâm sản ngoài gỗ ở khu vực vườn quốc gia Pù Mát nhằm đề xuất các giải pháp khai thác và phát triển bền vững, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM VIỆN SINH THÁI VÀ TÀI NGUYÊN SINH VẬT ĐÀO THỊ MINH CHÂU TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ SINH HỌC NGHIÊN CỨU LÂM SẢN NGOÀI GỖ Ở KHU VỰC VƯỜN QUỐC GIA PÙ MÁT NHẰM ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP KHAI THÁC VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Chuyên ngành: Thực vật học Mã số: 62 42 01 11 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Minh Hợi PGS.TS. Trần Huy Thái Hà Nội – 2016 b Luận án được hoàn thành tại Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật – Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS. Trần Minh Hợi 2. PGS. TS. Trần Huy Thái Người phản biện 1: PGS. TS. Trần Thế Bách Người phản biện 2: PGS.TS. Trần Đình Thắng Người phản biện 3: PGS. TS. Nguyễn Trung Thành Luận án được bảo vệ trước hội đồng chấm luận án tiến sĩ cấp Viện; họp tại Hội trường tầng 6 - Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam; Vào hồi 8 giờ 30 phút, ngày 2 tháng 3 năm 2016. Có thể tìm hiểu luận án tại Thư viện Quốc gia Việt Nam, Thư viện Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận án Hiện nay, việc thống kê các loài Lâm sản ngoài gỗ (LSNG) chưa được thực hiện đầy đủ, việc khai thác và buôn bán LSNG chưa được quản lý chặt chẽ, các loại LSNG bị khai thác tự do trong thiên nhiên, thị trường buôn bán tự phát, lượng lớn LSNG xuất khẩu tiểu ngạch sang Trung Quốc ở dạng nguyên liệu thô, các địa phương ít quan tâm đến việc bảo tồn và phát triển những loài LSNG giá trị... Tất cả những vấn đề trên đã làm nguồn tài nguyên LSNG ở nhiều vùng miền núi ngày càng cạn kiệt, làm mức độ phụ thuộc vào rừng của người dân địa phương sống trong các Vườn Quốc gia (VQG) và các Khu bảo tồn (KBT) ngày càng lớn, tài nguyên rừng ngày càng cạn kiệt, cơ hội cải thiện đời sống, phát triển kinh tế ở các vùng miền núi càng hiếm hoi và khó khăn hơn. Ngoài giá trị kinh tế, LSNG còn một giá trị khác cũng rất quan trọng, đó là giá trị về mặt sinh thái. Khai thác gỗ sẽ gây tổn hại lớn đến cấu trúc của rừng, trong khi đó, sự thu hái LSNG sẽ không hoặc ít làm ảnh hưởng đến hệ sinh thái rừng, mà còn mang lại thu nhập thường xuyên hơn cho người dân sống gần rừng. Từ khi VQG Pù Mát được thành lập, gỗ và động vật hoang dã được quản lý chặt chẽ hơn nên người dân địa phương tập trung vào khai thác LSNG, các loại cây thuốc, song mây, mật ong, hương liệu,... bị khai thác ngày càng nhiều để bán cho thương lái đưa sang Trung Quốc. Khai thác liên tục nhiều năm khiến LSNG trong rừng ngày càng cạn kiệt. Đề tài “Nghiên cứu lâm sản ngoài gỗ ở khu vực VQG Pù Mát nhằm đề xuất các giải pháp khai thác và phát triển bền vững” được thực hiện nhằm đánh giá tài nguyên LSNG và đề xuất các biện pháp bảo tồn, phát triển LSNG ở vùng miền Tây Nghệ An. 2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài luận án Nghiên cứu thành phần loài và giá trị của LSNG; hiện trạng khai thác, quản lý LSNG ở VQG Pù Mát nhằm đề xuất các giải pháp phù hợp cho bảo tồn, khai thác và phát triển bền vững tài nguyên LSNG. 3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài luận án Ở vùng miền núi Tây Nghệ An nói chung và VQG Pù Mát nói riêng chưa có nghiên cứu thống kê các loài LSNG theo 6 nhóm như tài liệu Lâm sản ngoài gỗ Việt Nam; chưa có đánh giá các tác động của hoạt động khai thác, buôn bán và quản lý lên tài nguyên LSNG; chưa thống kê các loài có giá trị, các loài nguy cấp, các loài có khả năng phát triển,... để có kế hoạch bảo tồn và phát triển trong vùng nghiên cứu. Nghiên cứu này sẽ thực hiện các nhiệm vụ trên để góp phần thực hiện “Đề án phát triển kinh tế xã hội miền Tây Nghệ An” đã được Chính phủ phê duyệt tháng 12/2013 và "Đề án quốc gia về Bảo tồn và phát triển LSNG, giai đoạn 2006 - 2020". 2 Từ danh lục các loài LSNG, 3 loài trong họ Gừng (Zingiberacae) của VQG Pù Mát được lựa chọn và lần đầu được nghiên cứu về thành phần hóa học của tinh dầu. 4. Những điểm mới của đề tài luận án  Lần đầu tiên các loài thực vật bậc cao có mạch ở khu vực VQG Pù Mát được thống kê, lập danh lục theo các nhóm Lâm sản ngoài gỗ, gồm 1508 loài, thuộc 741 chi, 182 họ trong 6 ngành thực vật bậc cao có mạch; bổ sung 245 loài vào danh lục thực vật làm thuốc và 216 loài cây có ích khác vào danh lục các nhóm LSNG của VQG Pù Mát.  Thành phần hóa học của tinh dầu ba loài trong họ Gừng ở VQG Pù Mát: Etlingera yunnanensis (T.L. Wu & S.J. Chen) R.M. Sm.; Hornstedtia sanhan M. Newman và Siliquamomum tonkinense Baill. lần đầu được nghiên cứu.  Đánh giá về các yếu tố tác động lên tài nguyên LSNG như hiện trạng khai thác, quản lý, buôn bán LSNG, từ đó xác định các vấn đề cần khắc phục để đề xuất các biện pháp bảo tồn và phát triển bền vững LSNG ở Miền tây Nghệ An. 5. Bố cục của luận án Toàn bộ báo cáo luận án gồm 113 trang, trong đó: Mở đầu 3 trang Chương 1. Tổng quan tài liệu 28 trang Chương 2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu 5 trang Chương 3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận 75 trang Kết luận và kiến nghị 2 trang Phần đính kèm báo cáo luận án gồm 98 trang Tài liệu tham khảo 6 trang Danh lục các công trình nghiên cứu liên quan 2 trang Phụ lục 1: Danh lục các loài LSNG ở VQG Pù Mát 64 trang Phụ lục 2: Ảnh các loài LSNG quí, hiếm ở VQG Pù Mát 10 trang Phụ lục 3: Sắc ký đồ của tinh dầu các loài nghiên cứu 8 trang Phụ lục 4: Bảng câu hỏi phỏng vấn hộ gia đình 3 trang Phụ lục 5: Bảng gợi ý phỏng vấn bán cấu trúc 5 trang 3 Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1. 1. Khái niệm và phân loại Lâm sản ngoài gỗ 1.1.1. Khái niệm Lâm sản ngoài gỗ Hiện nay, trên thế giới có nhiều khái niệm khác nhau về Lâm sản ngoài gỗ, khái niệm này không chỉ thay đổi theo tác giả, tổ chức mà còn thay đổi theo thời gian. Theo nhiều nhà khoa học và quản lý lâm nghiệp ở Việt Nam thì dù có nhiều định nghĩa về LSNG, nhưng để phù hợp với các nước trong khu vực, Việt Nam nên sử dụng định nghĩa LSNG đã được thống nhất trong hội nghị các chuyên gia về LSNG của các nước vùng Châu Á-Thái Bình Dương. Trong hội nghị này, khái niệm LSNG như sau: LSNG bao gồm tất cả các sản phẩm cụ thể, có thể tái tạo, ngoài gỗ củi và than, được khai thác từ rừng, đất rừng hoặc từ các cây thân gỗ. Vì vậy, các sản phẩm như cát, đá, nước, du lịch sinh thái không phải là các LSNG. Từ hội nghị này, nhiều tác giả cũng thống nhất: những lợi ích gián tiếp mà rừng mang lại như củi, than gỗ, và những dịch vụ trong rừng như săn bắn, giải trí, du lịch sinh thái, hấp thụ khí nhà kính, bảo tồn đa dạng sinh học, cải tạo đất,... gọi là dịch vụ môi trường rừng. Cho đến nay vẫn chưa có hệ thống phân loại LSNG thật sự hợp lý và thống nhất, trên thế giới hiện đang tồn tại nhiều cách phân loại LSNG khác nhau. Ở Việt Nam, trong một thời gian dài, lâm sản được chia thành hai loại: lâm sản chính (gỗ), và “lâm sản phụ” (sản phẩm ngoài gỗ). Từ năm 1961, lâm sản phụ được thay bằng thuật ngữ “đặc sản rừng” và từ cuối thế kỷ XX, cả hai thuật ngữ trên được thay thế bằng một thuật ngữ mới “Lâm sản ngoài gỗ”. 1.1.2. Phân loại Lâm sản ngoài gỗ Có rất nhiều loại LSNG khác nhau đã được điều tra, phát hiện và khai thác sử dụng, chính vì vậy việc phân loại chúng là rất cần thiết. Có nhiều quan điểm khác nhau để phân loại LSNG, như: Phân loại theo hệ thống tài nguyên thực vật, phân loại theo hình dạng thân cây, phân loại theo giá trị sử dụng,... Phân loại LSNG theo nhóm giá trị sử dụng là phân chia các loại LSNG khác nhau không kể về nguồn gốc trong hệ thống sinh, dạng thân, nơi phân bố,... mà những loài có cùng giá trị sử dụng được xếp vào cùng một nhóm. Ưu điểm của phương pháp này là đơn giản, dễ áp dụng và dễ nhớ, có thể xác định nhanh trữ lượng từng loại sản phẩm trong một lâm phần; tìm loài thay thế sản phẩm hoặc lựa chọn loài kinh doanh phù hợp cho từng địa phương. Nhưng nhược điểm là chưa chú trọng tới đặc điểm sinh học của các loài nên kỹ năng nhận biết các loài gặp nhiều khó khăn. Một số loài có nhiều công dụng khi phân loại sẽ bị trùng vào nhiều nhóm. 4 Trong cuốn LSNG Việt Nam xuất bản năm 2007, các tác giả đã chia các LSNG thành 6 nhóm: Nhóm cây có sợi; Nhóm cây làm thực phẩm: Gồm rau, củ và quả; Nhóm cây thuốc; Nhóm cây cho dầu và nhựa: bao gồm tinh dầu, dầu béo, nhựa dầu và nhựa; Nhóm cây cho tanin, thuốc nhuộm; Nhóm cây cảnh, cây hoa và cây bóng mát... Cách phân loại này chỉ mang tính tương đối vì công dụng của lâm sản luôn có sự thay đổi, một số sản phẩm có thể phân vào nhiều nhóm khác nhau tuỳ nơi, tuỳ lúc, không cố định, và biến đổi theo địa phương. 1.2. Tình hình nghiên cứu về LSNG 1.2.1. Tình hình nghiên cứu LSNG trên thế giới LSNG trên thế giới rất đa dạng và phong phú, đặc biệt là ở các nước nhiệt đới, nơi tập trung sự giàu có của hệ sinh thái, trong đó các nước Đông Nam Á đã nắm giữ một phần năm diện tích rừng nhiệt đới của thế giới. Việc nghiên cứu về LSNG đã và đang là vấn đề được quan tâm chú ý ở nhiều nước trên thế giới, nhất là ở những nước có rừng nhiệt đới. Có khá nhiều công trình khoa học nghiên cứu về LSNG từ rất sớm, như các công trình nghiên cứu của Chopra, R. N. và cộng sự (1956) về thực vật làm thuốc ở Ấn Độ. Nghiên cứu của W. L. Ackerman về Crataegus sp. hay của Akhtar Husain và các cộng sự về các cây có chứa tinh dầu ở Ấn Độ. Giai đoạn1990s cũng đã có nhiều nghiên cứu về tinh dầu như của D. J. Charles, J. E.Simon, M. P.Widrlechner, N. K Singl. Ở khu vực Đông Nam Á cũng đã có rất nhiều công trình của các tác giả về LSNG từ thập kỷ 1990 đăng trong “Tài nguyên thực vật Đông Nam Á”, như các tác giả: R. C. K. Chung & Purwaningsh, C. C. De Guzman & R. A. Reglos, Diah Sulistiarini, M. Flach & F. Rumawas, M. Flash & J. S. Siemonsma, ... Những nghiên cứu này đã quan tâm nhiều đến các loài cây cho tinh dầu, dầu béo, cây làm thuốc, các loài phong lan và các loài cây cho sợi như song, mây, tre, nứa. Ngoài ra còn có nhiều công trình lớn nghiên cứu về LSNG của các nhóm tác giả như: H. de Beer Jenne và cộng sự (1989), Virgilio de La Cruz và cộng sự (1989), Nepstad và cộng sự (1992), French và cộng sự (1996), Brockhoven (1996), Leakey và cộng sự (1996), Taylor (1996), Vorhies (1997), Wollenberg và cộng sự (1998), Agarwal (1999)... và FAO đã tổ chức rất nhiều hoạt động thúc đẩy nghiên cứu và chia sẻ thông tin về LSNG liên tục từ năm 1991 đến nay. 1.2.2. Tình hình nghiên cứu về LSNG ở Việt Nam Nguồn tài nguyên lâm sản ngoài gỗ ở nước ta rất phong phú và đa dạng, có nhiều loài có giá trị cao, số loài cây làm thuốc chiếm tới 22% tổng số loài thực vật Việt Nam, có khoảng trên 600 loài cây cho tinh dầu, gần 600 loài cho tanin, nhiều loài khác cho dầu béo, nhựa, cây cảnh, hoa cảnh,.... Bên cạnh đó, còn có khoảng 0,789 triệu ha rừng tre nứa tự nhiên, 0,702 triệu ha rừng tre xen gỗ và 73.516ha rừng 5 tre nứa trồng với trên 4 tỷ cây, Thông nhựa có 194.721ha, Quế có 61.820ha, Hồi có 14.133ha. Ở nước ta, nghiên cứu về LSNG được bắt đầu từ khi người Pháp thiết lập được chính quyền thực dân ở Đông Dương. Sau khi Kháng chiến chống Pháp năm 1954, Bộ Nông - Lâm và trường Đại học Nông Lâm đã có nhiều nghiên cứu về LSNG, trong đó có “Lâm sản phụ” của Lê văn Giai (1956), “Trích nhựa thông” của Đào Xuân Mai (1958),... các nghiên cứu gây trồng Cánh kiến đỏ, Cánh kiến trắng, cây thuốc, công nghệ chế biến, gia công Cánh kiến đỏ, chế biến nhựa Thông... Từ cuối những năm 1990, LSNG được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn ở nước ta nhờ giá trị và tiềm năng to lớn của nó. Trong các loại LSNG, dược liệu là đối tượng được nghiên cứu nhiều nhất, có nhiều công trình lớn về cây thuốc, đóng góp lớn cho y học quốc gia và quốc tế. Các nghiên cứu về LSNG khác còn rời rạc, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế, chưa tương xứng với tiềm năng của LSNG ở nước ta. Dù vậy, vẫn có một số công trình có ý nghĩa như: “Tài nguyên thực vật chứa tinh dầu ở Việt Nam” của Lã Đình Mỡi và cộng sự (2001, 2002), "1900 loài cây có ích ở Việt Nam” của Trần Đình Lý và nnk (1993), về “Tài nguyên tre Việt Nam” của Nguyễn Tử Ưởng và nnk (1995), về “Cây cỏ có ích ở Việt Nam” của Võ Văn Chi và Trần Hợp,... 1.2.3. Các nghiên cứu về LSNG tại vùng Miền Tây Nghệ An Ở vùng miền tây Nghệ An, có khá nhiều nghiên cứu về cây thuốc và cách sử dụng cây thuốc chữa bệnh, một số nghiên cứu về đa dạng thực vật và các cây có tích, có một vài nghiên cứu khác về LSNG ở qui mô nhỏ. Thống kê từ các nghiên cứu đã công bố cho thấy, có 1509 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 182 họ là cây có ích. Trong đó, cây thuốc có 1105 loài, cây lấy gỗ có 426 loài, cây ăn được có 367 loài. 1.3. Giá trị của Lâm sản ngoài gỗ Theo FAO (1997), 80% dân số của các nước đang phát triển sử dụng LSNG để đáp ứng cho các như cầu sức khỏe và dinh dưỡng, ít nhất 30 triệu người ở các nước Đông Nam Á sống chủ yếu dựa vào các LSNG từ rừng tự nhiên. Hiện nay, LSNG được quan tâm và nghiên cứu rất nhiều ở những nước này, nơi mà chúng được đánh giá là có giá trị cao hơn gỗ, đặc biệt là ở các nước như Inđônêxia, Thái Lan, Philipine, Malaixia... Bên cạnh đó, các nước như Hồng Kông, Singapo, Đài Loan... không có nhiều tài nguyên LSNG nhưng họ đã thu lợi rất nhiều nhờ việc chế biến LSNG. LSNG còn có vai trò quan trọng trong bảo vệ môi trường, bảo vệ rừng và mang lại công ăn việc làm cho hàng triệu người dân nông thôn, miền núi. Nhưng cho tới nay, LSNG vẫn chưa phát huy được tiềm năng to lớn của nó, chưa đóng góp ý nghĩa và xứng đáng cho sự phát triển kinh tế xã hội của các địa phương cũng như 6 của cả quốc gia. Theo đề án phát triển lâm nghiệp Việt Nam 2006-2020, định hướng phát triển LSNG của Việt Nam đến năm 2020, LSNG trở thành một trong những ngành hàng sản xuất chính, chiếm trên 20% tổng giá trị sản xuất lâm nghiệp, giá trị LSNG xuất khẩu tăng bình quân 15-20%, thu hút khoảng 1,5 triệu lao động, thu nhập từ LSNG chiếm 15-20% trong kinh tế hộ gia đình nông thôn. Bên cạnh đó, LSNG còn mang lại cho người dân nguồn thu nhập thường xuyên hơn, ít đầu tư, ngắn ngày... dễ dàng để người dân các vùng miền núi nghèo có thể có cơ hội để phát triển và khai thác tốt các loại sản phẩm này. Đây cũng có thể là một hình thức làm kinh tế để người dân địa phương "lấy ngắn nuôi dài" khi họ đầu tư vào trồng rừng hoặc trồng cây lâu năm. 1.4. Một số đặc điểm của các chi lựa chọn nghiên cứu tinh dầu trong họ Gừng 1.4.1. Đặc điểm nhận biết các chi lựa chọn nghiên cứu tinh dầu Chi: Etlingera Giseke – Ét ling: Cây to cao khoảng 4-5m. Cụm hoa mọc từ thân rễ, dạng bông hay đầu, xếp theo vòng cầu đồng tâm trên một đế phẳng, thường có vài hoa nở đồng thời xòe ra. Cánh môi dạng lưỡi dài. Thường sống ở ven rừng, ven suối, sườn đồi nơi ẩm. Trên thế giới có khoảng 70 loài, Việt Nam có 5 loài. Chi: Hornstedtia Retz. – Giả sa nhân: Cây thảo cao 1-2(4)m. Cụm hoa mọc từ thân rễ, gần gốc thân giả, hình trứng hay thoi, cuống cụm hoa ngắn. Các lá bắc xếp lợp, những lá bắc ở dưới và ngoài cùng dày, bất thụ, mầu đỏ, lá bắc hữu thụ ở phía trên, chứa 1 hoa. Quả nang gần hình cầu, gần như 3 góc, nhẵn, mở đến gần gốc. Mọc nơi đất ẩm, ven đường mòn, ven suối, bờ đá ẩm. Việt Nam có 1 loài. Chi: Siliquamomum Baill. – Sa nhân giác: Cây thảo cao 1-2m. Cụm hoa chùm, trên ngọn thân có lá, hoa thưa. Hoa đẹp có cuống dài, gần đầu có khớp. Quả nang dài dạng quả cải, dài gấp nhiều lần rộng. Thường mọc ở các sườn núi ẩm ở độ cao 800-1500m. Trên thế giới có 2 loài, Việt Nam mới phát hiện 1 loài.. 1.4.2. Các nghiên cứu về tinh dầu trong một số đại diện của họ Gừng Các thành phần chính của tinh dầu thân, lá, rễ, thân rễ, hoa, vỏ quả và hạt) của 5 loài riềng trong nghiên cứu của Trịnh Đình Chính (1995) gồm: zerumbon, các monoterpen như α–pinen, β-pinen, một số monoterpen alcohol, sesquiterpen hoặc dẫn xuất của chúng. Trên Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh, có nhiều nghiên cứu về tinh dầu của các loài trong họ Gừng được công bố, như của Đặng Văn Hoài, Olivier Duval, Pascal Richomme, Marie Lavault, Nguyễn Thị Hữu, Trần Công Luận, Nguyễn Thị Phương Thảo, Trần Thu Hoa,... cho thấy, thành phần tinh dầu trong dịch chiết củ các loài họ Gừng có cấu trúc 3,5-dihydroxy-1,7-bis(4- hydroxyphenyl) heptane và những dẫn chất của chúng có hoạt tính kháng ung thư. Ở cả Việt Nam và trên thế giới, các nghiên cứu về tinh dầu của các loài trong chi Etling (Etlingera Giseke), chi Giả sa nhân (Hornstedtia Retz.) và chi Sa nhân giác (Siliquamomum Baill.) đều còn ít. Với chi Siliquamomum Baill. mới chỉ có 7 nghiên cứu về tinh dầu của B.V.Thanh và N.Q. Bình về thành phần hóa học tinh dầu thân của Siliquamomum tonkinense thu tại VQG Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Thân của loài này chứa 0,37% tinh dầu (hàm lượng khô), với 42 hợp chất từ tinh dầu thân (chiếm 96,18%). Các thành phần chính là: 1,8 cineol (31,78%), E,E- farnesol (10,62%), Myrtenal (8,10%), Borneol (6,64%), β-pinen (5,21%), γ- terpinen (4,82%), o-cymen (3,89%), 7-epi-α-selinen (2,20%), α-terpineol (2,14%). Với chi Etlingera, đã có một vài nghiên cứu từ Malaysia và Trung Quốc về thành phần tinh dầu và khả năng kháng khuẩn của chúng ở của năm loài trong chi Etlingera thu từ Borneo. 1.5. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của vùng nghiên cứu Vườn Quốc Gia Pù Mát nằm gọn trong dải Truờng Sơn Bắc, ở phía Tây Nam tỉnh Nghệ An, trên độ cao khoảng từ 100 đến 1.841m, trong đó khu vực có độ cao lớn nhất tạo nên dải núi chính, nằm ở phía Nam VQG, hình thành đường biên giới dài 61,5 km giữa Việt Nam và Lào. Địa hình nhìn chung là dốc, thổ nhưỡng khô cằn và có rất ít vùng bằng phẳng, đáy thung lũng là 4 con sông lớn Khe Thơi, khe Bu, Khe Choang và Khe Khặng, thường có lũ bất thường và có thể cạn khô vào mùa kiệt. Có một số vùng đất thấp bên bờ Khe Thơi và Khe Khặng nên thường có dân cư tập trung, thậm chí cả trong vùng lõi. VQG Pù Mát nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh hưởng sâu sắc của gió mùa Đông Bắc và Tây Nam. Các yếu tố khí hậu mang tính chất phân cực mạnh, hình thành hai mùa rõ rệt. VQG Pù Mát hiện đang lưu giữ một diện tích rừng rất lớn, lớn nhất miền Bắc nước ta so với các khu rừng đặc dụng khác, với diện tích vùng lõi là 94.804.4ha (trong đó rừng giàu chiếm 20.716ha và rừng trung bình chiếm 24.650ha); vùng đệm có diện tích khoảng 86.000 ha, trải rộng trên lâm phần 3 huyện miền núi (Anh Sơn, Con Cuông và Tương Dương), trong đó 94% diện tích đang còn rừng che phủ và khoảng 22% là rừng nguyên sinh. Diện tích rừng vùng lõi - còn gọi là phần rừng đặc dụng - do Vườn quốc gia quản lý; phần diện tích vùng đệm do công ty lâm nghiệp, chính quyền một số xã và người dân quản lý. Diện tích này nằm giáp ranh với rừng đặc dụng, gần các vùng dân cư nên đây cũng là nơi chịu sự tác động mạnh mẽ của người dân địa phương. Tổng số loài thực vật bậc cao có mạch đã thống kê được là 2494, thuộc 931 chi của 202 họ (có số loài thực vật lớn nhất trong các VQG hiện nay ở Việt Nam). Hiện nay, trong vùng đệm VQG Pù Mát đang có rất nhiều dân cư sinh sống, gồm 16 xã, 111 thôn bản, trên 17.000 hộ dân với khoảng 93.500 người [10], tốc độ gia tăng dân số 2,6% mỗi năm, đa số dân cư hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, trong khi đó diện tích đất canh tác ngày càng hạn chế do sự nghèo kiệt nhanh chóng của các vùng đất dốc, do biến đổi khí hậu, hạn hán và thiếu nước canh tác. 8 Chương 2 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2.1.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các loài LSNG có nguồn gốc từ thực vật bậc cao có mạch phân chia thành 6 nhóm theo của tài liệu “Lâm sản ngoài gỗ Việt Nam”, 2004. 2.1.2. Địa điểm nghiên cứu Vùng nghiên cứu được chọn là vùng lõi và vùng đệm của VQG Pù Mát, tỉnh Nghệ An. 2. 2. Nội dung nghiên cứu 1. Lập danh lục, đánh giá sự đa dạng của LSNG ở khu vực VQG Pù Mát; 2. Lựa chọn 3 loài trong họ Gừng (Zingiberaceae) ở VQG Pù Mát để nghiên cứu về thành phần tinh dầu. 3. Đánh giá h
Luận văn liên quan