Bắc Giang là một tỉnh Trung du miền núi phía Bắc Việt Nam có diện tích đất xám
bạc màu rất lớn. Việc chọn giống lúa thuần và xây dựng được biện pháp kĩ thuật canh tác
trên đất xám bạc màu góp phần tăng hiệu quả sản xuất lúa trên địa bàn.
Trong số 9.754,84 ha đất trồng lúa ở Hiệp Hòa (chiếm 84,55% diện tích đất sản
xuất nông nghiệp toàn huyện) thì có tới 6.225,74 ha (chiếm 63,82%) là canh tác trên đất
xám bạc màu do vậy mà năng suất lúa toàn huyện Hiệp Hòa cao hay thấp phụ thuộc nhiều
vào kĩ thuật trồng lúa trên quỹ đất xám bạc màu.
Người dân ở Hiệp Hòa – Bắc Giang chủ yếu canh tác lúa theo thói quen và kinh
nghiệm sản xuất. Có rất nhiều giống được người dân sử dụng nhưng chỉ một hoặc vài vụ
họ lại sử dụng giống khác. Bên cạnh đó, kĩ thuật canh tác lúa của người dân vẫn chưa thực
sự khoa học, việc áp dụng các biện pháp kĩ thuật canh tác còn nhiều hạn chế như: Một là,
cấy với mật độ chưa hợp lí, cấy dày dẫn tới lãng phí giống, lãng phí công lao động, sâu
bệnh xuất hiện nhiều hơn và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật nhiều hơn gây ô nhiễm môi
trường và chi phí cũng tăng theo. Hai là, bón phân không cân đối, sử dụng nhiều phân vô
cơ đặc biệt là đạm, phân hữu cơ ngày càng ít được bổ xung vào đất do chăn nuôi theo qui
mô nông hộ giảm thay vào đó là các trang trại tập trung và người dân không có phân hữu
cơ như trước để bón cho lúa nữa; điều này dẫn tới chất lượng đất giảm, nhất là đất xám bạc
màu không được bổ xung hữu cơ thường xuyên dẫn tới khả năng giữ nước và dinh dưỡng
kém đi gây khó khăn hơn trong việc canh tác lâu dài.
Việc tìm ra giống lúa thuần thích hợp với điều kiện canh tác trên đất xám bạc màu ở
địa phương có năng suất cao, chất lượng tốt, dễ canh tác, giá rẻ, nguồn giống chủ động hơn
là vấn đề cấp bách và được người dân hưởng ứng mạnh. Bên cạnh đó, xác định mật độ cấy
phù hợp, bón phân hợp lí cho giống mới được tuyển chọn cũng là yếu tố quan trọng cần
được giải quyết.
Vì những lí do trên, ngành nông nghiệp có nhiệm vụ nghiên cứu các biện pháp kĩ
thuật canh tác góp phần tạo dựng ở Bắc Giang nền nông nghiệp phát triển bền vững về
kinh tế, xã hội và môi trường.
Để đạt được các yêu cầu trên, đề tài: “Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật
canh tác có hiệu quả cho lúa thuần trên đất xám bạc màu Bắc Giang” có tính cấp
thiết.
27 trang |
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 355 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Nghiên cứu một số biện pháp kĩ thuật canh tác có hiệu quả cho lúa thuần trên đất xám bạc màu Bắc Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
-------------***-------------
ĐÀM THẾ CHIẾN
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ BIỆN PHÁP KĨ THUẬT CANH TÁC
CÓ HIỆU QUẢ CHO LÚA THUẦN TRÊN ĐẤT XÁM BẠC MÀU
BẮC GIANG
Chuyên ngành: Khoa học cây trồng
Mã số : 9. 62. 01. 10
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NÔNG NGHIỆP
Hà Nội, 2018
Công trình đƣợc công bố tại
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Hồ Quang Đức
2. TS. Nguyễn Xuân Lai
Phản biện 1:.......................................
Phản biện 2:.......................................
Phản biện 3:.......................................
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Viện
Họp tại
Vào hồi......giờ ........ngày........tháng.........năm..........
Có thể tìm hiểu luận án tại:
1. Thư Viện Quốc gia
2. Thƣ Viện Viện Khoa học Nôn
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bắc Giang là một tỉnh Trung du miền núi phía Bắc Việt Nam có diện tích đất xám
bạc màu rất lớn. Việc chọn giống lúa thuần và xây dựng được biện pháp kĩ thuật canh tác
trên đất xám bạc màu góp phần tăng hiệu quả sản xuất lúa trên địa bàn.
Trong số 9.754,84 ha đất trồng lúa ở Hiệp Hòa (chiếm 84,55% diện tích đất sản
xuất nông nghiệp toàn huyện) thì có tới 6.225,74 ha (chiếm 63,82%) là canh tác trên đất
xám bạc màu do vậy mà năng suất lúa toàn huyện Hiệp Hòa cao hay thấp phụ thuộc nhiều
vào kĩ thuật trồng lúa trên quỹ đất xám bạc màu.
Người dân ở Hiệp Hòa – Bắc Giang chủ yếu canh tác lúa theo thói quen và kinh
nghiệm sản xuất. Có rất nhiều giống được người dân sử dụng nhưng chỉ một hoặc vài vụ
họ lại sử dụng giống khác. Bên cạnh đó, kĩ thuật canh tác lúa của người dân vẫn chưa thực
sự khoa học, việc áp dụng các biện pháp kĩ thuật canh tác còn nhiều hạn chế như: Một là,
cấy với mật độ chưa hợp lí, cấy dày dẫn tới lãng phí giống, lãng phí công lao động, sâu
bệnh xuất hiện nhiều hơn và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật nhiều hơn gây ô nhiễm môi
trường và chi phí cũng tăng theo. Hai là, bón phân không cân đối, sử dụng nhiều phân vô
cơ đặc biệt là đạm, phân hữu cơ ngày càng ít được bổ xung vào đất do chăn nuôi theo qui
mô nông hộ giảm thay vào đó là các trang trại tập trung và người dân không có phân hữu
cơ như trước để bón cho lúa nữa; điều này dẫn tới chất lượng đất giảm, nhất là đất xám bạc
màu không được bổ xung hữu cơ thường xuyên dẫn tới khả năng giữ nước và dinh dưỡng
kém đi gây khó khăn hơn trong việc canh tác lâu dài.
Việc tìm ra giống lúa thuần thích hợp với điều kiện canh tác trên đất xám bạc màu ở
địa phương có năng suất cao, chất lượng tốt, dễ canh tác, giá rẻ, nguồn giống chủ động hơn
là vấn đề cấp bách và được người dân hưởng ứng mạnh. Bên cạnh đó, xác định mật độ cấy
phù hợp, bón phân hợp lí cho giống mới được tuyển chọn cũng là yếu tố quan trọng cần
được giải quyết.
Vì những lí do trên, ngành nông nghiệp có nhiệm vụ nghiên cứu các biện pháp kĩ
thuật canh tác góp phần tạo dựng ở Bắc Giang nền nông nghiệp phát triển bền vững về
kinh tế, xã hội và môi trường.
Để đạt được các yêu cầu trên, đề tài: “Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật
canh tác có hiệu quả cho lúa thuần trên đất xám bạc màu Bắc Giang” có tính cấp
thiết.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Xác định cơ cấu cây trồng có hiệu quả cho canh tác lúa thuần tại Hiệp Hòa –
Bắc Giang và những vùng có điều kiện tương tự.
- Lựa chọn được các giống lúa thuần có hiệu quả kinh tế cao, phù hợp với điều
kiện sản xuất trên đất xám bạc màu tại huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang.
- Xác định được mật độ cấy và liều lượng phân bón phù hợp cho các giống lúa
được tuyển chọn nhằm giảm chi phí trong sản xuất lúa thuần trên đất xám bạc màu tại
huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.
3.1. Ý nghĩa khoa học
- Nghiên cứu tuyển chọn giống lúa thuần đã góp thêm cơ sở khoa học cho các
nghiên cứu, đánh giá khả năng thích ứng, phù hợp với điều kiện canh tác lúa thuần trên
đất xám bạc màu tại Hiệp Hòa – Bắc Giang.
2
- Nghiên cứu một số biện pháp canh tác (mật độ cấy, bón phân) phù hợp với
giống lúa thuần được tuyển chọn trên cơ sở nâng cao hiệu quả canh tác lúa thuần trên
đất xám bạc màu tại Hiệp Hòa – Bắc Giang sẽ là tư liệu cho các nghiên cứu xây dựng
quy trình kĩ thuật canh tác cho các giống lúa mới trên đất xám bạc màu.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
- Xác định được cơ cấu cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao, phù hợp trong sản
xuất lúa thuần tại Hiệp Hòa – Bắc Giang.
- Tái khẳng định giống lúa thuần KD18 và lựa chọn được giống lúa thuần BC15
có năng suất cao cùng với kỹ thuật canh tác, bón phân phù hợp sẽ giúp người nông dân
phát triển sản xuất lúa thuần trên đất xám bạc màu.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có giá trị góp phần trong công tác định hướng
phát triển sản xuất nông nghiệp nói chung và cây lúa nói riêng trên đất xám bạc màu ở
Hiệp Hòa – Bắc Giang.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đất: Đất xám bạc màu ở Hiệp Hòa – Bắc Giang.
- Giống lúa: Các giống lúa thuần.
- Các biện pháp kĩ thuật canh tác.
- Thực trạng sản xuất lúa tại Hiệp Hòa – Bắc Giang.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài đã tập trung nghiên cứu lựa chọn giống và giải pháp kĩ thuật canh tác có
hiệu quả cho lúa thuần trên đất xám bạc màu tại huyện Hiệp Hòa - Bắc Giang về mật độ
cấy thích hợp, bón phân vô cơ trên nền 10 tấn phân chuồng đối với mật độ thích hợp
trên đất xám bạc màu ở huyện Hiệp Hòa – Bắc Giang.
5. Những đóng góp mới của luận án
- Xác định được hạn chế trong sản xuất lúa tại Hiệp Hòa – Bắc Giang.
- Lựa chọn được giống lúa thuần phù hợp (BC15) có khả năng thích nghi tốt,
năng suất và chất lượng cao, hiệu quả kinh tế cao so với các giống đang cấy tại địa
phương khi canh tác trên đất xám bạc màu tại huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang.
- Hoàn thiện được gói kĩ thuật cho canh tác lúa thuần vùng nghiên cứu: Sử dụng
giống cho năng suất cao, cấy với mật độ phù hợp và bón phân hợp lí.
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Đặc điểm về khí hậu, đất vùng thực hiện đề tài
1.1.1. Đặc điểm khí hậu
Cây trồng có quan hệ qua lại và phức tạp với các điều kiện tự nhiên, trong đó có
yếu tố khí hậu. Diễn biến khí hậu thường được thể hiện bởi thời tiết, chúng là những
nhân tố tác động mạnh mẽ đến cây trồng, được thể hiện qua năng suất (cao hay thấp) và
chất lượng nông sản (tốt hay xấu). Vì vậy, khi nghiên cứu hệ thống cây trồng, điều cần
quan tâm đầu tiên là các yếu tố thời tiết cấu thành khí hậu. Nói đến vai trò của khí hậu
đối với sản xuất cây trồng, viện sĩ V. I. Vavilop cho rằng: “Biết được các yếu tố khí
hậu, chúng ta sẽ xác định được năng suất, sản lượng mùa màng, chúng mạnh hơn cả
kinh tế, mạnh hơn cả kỹ thuật”. Những điều kiện khí hậu được xác định cho nông
3
nghiệp là ánh sáng, nhiệt độ và nước. Đó là những yếu tố không thể thiếu và thay thế
được đối với sự sống của cây trồng. Ngoài ra, cũng phải thấy "khí hậu nào, đất nào, cây
đó”, cho nên khí hậu là yếu tố quyết định sự phân bố động, thực vật trên trái đất, ngay
cả mạng lưới sông ngòi, độ màu mỡ của đất cũng là hệ quả của khí hậu (Phạm Chí
Thành, 1998).
1.1.2. Đặc điểm đất vùng nghiên cứu
* Diện tích, phân bố
Đất xám và xám bạc màu được phát triển trên nhiều mẫu chất khác nhau như :
trên phù sa cổ, trên đá mác ma a xít và đá cát,...vv. Đất xám bạc màu phát triển trên phù
sa cổ phân bổ nhiều nhất ở vùng TDMNBB có diện tích 58.200 ha, ĐBSH 38.500 ha,
DHBTB 34.900 ha, DHNTB 9.400 ha Tây Nguyên 2100 ha, ĐNB 1200 ha, ĐBSCL
700 ha (Vũ Năng Dũng và nnk, 2009). Tại Bắc Giang Đất xám bạc màu trên phù sa cổ
có diện tích 42.897,84 ha (Viện Quy hoạch & Thiết kế Nông Nghiệp, 2005).
Đất xám bạc màu Bắc Giang được phân bố chủ yếu tại các huyện Tân Yên, Lục
Nam và Hiệp Hòa (Viện Thổ nhưỡng Nông hóa, 2012). Kết quả nghiên cứu của Viện
Thổ nhưỡng Nông hóa (2005) về xây dựng hệ thống phân loại đất áp dụng cho xây
dựng tỷ lệ bản đồ đất trung bình và lớn, đất XBM của tỉnh Bắc Giang được phân ra lại
thành 4 loại đất: (1) Đất XBM có tầng sét loang lổ; (2) Đất XBM đọng nước; (3) Đất
XBM nhiều sỏi sạn; (4) Đất XBM điển hình.
* Tính chất lý, hóa đặc trưng của đất xám bạc màu
Đất xám bạc màu thường phân bố ở địa hình cao, thành phần cơ giới từ cát pha
đến thịt nhẹ, tỷ lệ cấp hạt cát từ 59,9 – 87,5%, trung bình 73,7%, tỷ lệ hạt sét vật lý giao
động từ 3,6 – 8,5%, trung bình 6,1%. Đất có phản ứng ít chua (pHKCl 4,0 – 6,9, trung
bình là 5,3). Hàm lượng chất hữu cơ từ nghèo đến trung bình ( OM từ 0,8 – 1,1%, trung
bình 0,95%). Đạm tổng số nghèo ( 0,06 – 0,08 %, trung bình 0,07 %). Pts và Kts thấp
(P2O5 : 0,02 – 0,14 %, trung bình 0,08%, K2O từ 0,03 – 0,24%, trung bình 0,14 %). Pdt
và Kdt rất nghèo (P2O5 từ 0,1 – 9,4 mg/100g đất, trung bình 4,7 mg/100g đất; K2O : 2,8
– 5,0 mg/100g đất, trung bình 3,9 mg/100g đất). Dung tích hấp thu thấp ( 5,3 – 9,8
me/100g đất, trung bình 6,0 me/100g đất). Độ no bazơ thấp (nhỏ hơn 50%) (Vũ Năng
Dũng và nnk, 2009). Khả năng hấp thu lân thấp (từ 15- 20 mg P/ kg đất) (dẫn theo Võ
Đình Quang, 1999).
Tuy nhiên những năm gần đây do điều kiện canh tác bón nhiều phân vô cơ nên
hàm lượng một số chất dinh dưỡng tăng lên khá cao, nhất là hàm lượng P dễ tiêu, như
nghiên cứu gần đây của Trương Xuân Cường (2015), trên cơ sở phân tích 6.800 mẫu
đất XBM trên địa bàn tỉnh Bắc Giang cho thấy Pdt: 1,18- 35,17 mgP2O5/100g.
Đất XBM tuy không giàu dinh dưỡng nhưng là một loại đất quý vì có những ưu
điểm như: Địa hình bằng phẳng; có nguồn nước ngầm tốt; đất tơi xốp, thoáng khí, thoát
nước và làm đất đỡ tốn công. Nơi nào canh tác đúng kỹ thuật vẫn cho năng suất cây
trồng cao (Viện Thổ nhưỡng Nông hóa, 2001).
So với đất phù sa sông Hồng, đất phù sa sông Thái Bình và một số loại đấy khác,
đất xám bạc màu có độ phì nhiêu tự nhiên và thực tế thấp hơn. Có nhiều yếu tố hạn chế
như hàm lượng hữu cơ, hàm lượng kali, hàm lượng canxi trao đổi, Mg trao đổi thấp,
thành phần cơ giới nhẹ. Tuy nhiên, nếu bón phân cân đối và hợp lý, loại đất này vẫn
có thể trở thành đất có độ phì thực tế cao. Đặc biệt, loại đất này có ưu thế phát triển cây
vụ đông do có thể bố trí hệ thống cây trồng hợp lí.
4
1.2. Tình hình sản xuất lúa gạo trên thế giới và ở Việt Nam
1.2.1. Tình hình sản xuất gạo trên thế giới
Trung Quốc và Ấn Độ là hai nước đứng đầu thế giới về sản lượng gạo chiếm 22 -
31% tổng sản lượng gạo trên toàn thế giới. Trong năm 2015, sản lượng gạo của Việt
Nam chiếm 6% tổng sản lượng gạo của toàn thế giới. (bảng 1.1) [FAO (2015), Rice
market monitor].
Bảng 1.3. Sản lƣợng gạo của một số quốc gia trên thế giới
(Đơn vị: nghìn tấn)
Quốc Gia
Năm
2011 2012 2013 2014 2015
Trung Quốc 140.700 143.000 142.530 144.560 145.500
Ấn Độ 105.310 105.240 106.646 104.800 103.500
Indonesia 36.500 36.550 36.300 35.760 36.300
Bangladesh 33.700 33.820 34.390 34.500 34.600
Việt Nam 27.152 27.537 28.161 28.074 28.200
Thái Lan 20.460 20.200 20.460 18.750 16.400
Myanmar 11.473 11.715 11.957 12.600 12.200
Brazil 7.888 8.037 8.300 8.465 8.000
Nhật Bản 7.812 7.923 7.937 7.842 7.900
Tổng của thế giới 390.995 394.022 396.681 395.351 392.600
Nguồn (FAO, 2015)
1.2.2. Tình hình sản xuất lúa gạo ở Việt Nam
Diện tích lúa cả năm của cả nước tăng lên từ 7.329,2 nghìn ha lên 7.813,8 nghìn
ha năm 2014. Diện trồng lúa giảm đi, nhưng do luân canh tăng vụ nên tổng diện tích lúa
cả năm vẫn tăng; so với năm 2000 thì năm 2010 diện tích đất lúa giảm 380 nghìn ha.
Nhờ việc đưa một số các giống mới vào cơ cấu giống và áp dụng tiến bộ kỹ thuật nên
năng suất lúa tăng lên rõ rệt và đã đạt 48,9 tạ/ha vào năm 2014, tăng gần 10 tạ/ha trong
vòng 10 năm từ 2005 đến 2014, dẫn đến sản lượng của cả nước tăng lên đạt mức
44.975,0 nghìn tấn (bảng 1.2).
Bảng 1.4. Diện tích, năng suất và sản lƣợng lúa ở Việt Nam
giai đoạn 2005 đến 2015
Năm
Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng
(nghìn tấn)
2005 7.329,2 48,9 35.832,9
2006 7.324,8 48,9 35.849,5
2007 7.207,4 49,9 35.942,7
2008 7.400,2 52,3 38.729,8
2009 7.437,2 52,4 38.950,2
2010 7.489,4 53,4 40.005,6
2011 7.655,4 55,4 42.398,5
2012 7.761,2 56,4 43.737,8
2013 7.902,5 55,7 44.039,1
2014 7.813,8 57,6 44.975,0
2015 7.834,9 57,7 45.215,6
(Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam, 2015)
5
1.2.3. Diện tích, năng suất, sản lượng lúa những năm gần đây ở Hiệp Hòa
Từ năm 2010, tổng diện tích sản xuất lúa tăng dần qua các năm. Năm 2010 là
16.312 ha và tính đến năm 2016 đạt 16.493 ha.
Bảng 1.7: Diện tích, năng suất, sản lƣợng lúa những năm gần đây ở Hiệp Hòa
Đơn vị: Ha
Năm Chỉ tiêu Lúa xuân Lúa mùa Tổng (TB)
2010
Diện tích (ha) 7.650 8.662 16.312
Năng suất (Tạ/ha) 56,3 51,0 53,7
Sản lượng (Tấn) 43.046 44.176 87.222
2013
Diện tích (ha) 7.714 8.670 16.384
Năng suất (Tạ/ha) 58,6 44,2 51,4
Sản lượng (Tấn) 45.196 38.357 83.553
2014
Diện tích (ha) 7.769 8.661 16.430
Năng suất (Tạ/ha) 56,8 54,1 55,5
Sản lượng (Tấn) 44.136 46.856 90.992
2015
Diện tích (ha) 7.867 8.614 16.481
Năng suất (Tạ/ha) 59,0 53,6 56,3
Sản lượng (Tấn) 46.415 46.137 92.552
2016
(sơ bộ)
Diện tích (ha) 7.852 8.641 16.493
Năng suất (Tạ/ha) 59,7 56,7 58,2
Sản lượng (Tấn) 46.876 48.994 95.870
Nguồn: Chi cục thống kê huyện Hiệp Hòa năm 2016
Nhìn về năng suất, ngoại trừ vụ mùa năm 2013 (chỉ đạt 44,2 tạ/ha) thì năng suất
lúa có xu thế tăng dần qua các năm ở cả vụ xuân và vụ mùa. Trong khi vụ xuân năm
2010 đạt bình quân 56,3 tạ/ha thì năm 2016 đạt 59,7 tạ/ha (tăng 6,0%); vụ mùa năm
2010 đạt bình quân 51,0 tạ/ha thì năm 2016 đạt 56,7 tạ/ha (tăng 11,2%) dẫn tới tổng sản
lượng tăng từ 87.222 tấn/năm 2010 lên 95.870 tấn/năm 2016 (tăng 9,9% so với năm
2010). Điều này chứng tỏ trình độ canh tác lúa của người dân đã từng bước được nâng
lên qua các năm gần đây dẫn đến năng suất, sản lượng lúa ở Hiệp Hòa – Bắc Giang
không ngừng tăng lên kể từ năm 2010 đến nay.
1.3. Cơ sở khoa học và những nghiên cứu về giống lúa
1.3.1. Vai trò của giống mới
Trong sản xuất nông nghiệp, giống đóng vai trò quan trọng trong việc tăng năng
suất và sản lượng của cây trồng. Mỗi loại giống cây trồng đều có những đặc tính khác
nhau về đặc tính nông sinh học, sinh trưởng phát triển và chất lượng.
Ngày nay với kỹ thuật sinh học phát triển mạnh, con người ngày càng can thiệp
sâu hơn, thúc đẩy nhanh quá trình chọn tạo giống mới có lợi cho mình bằng các phương
pháp tạo giống như: lai hữu tính, xử lý đột biến, đặc biệt là kỹ thuật di truyền đã và
đang đóng góp có hiệu quả vào việc cải tiến giống lúa. Việc sử dụng các giống lúa ngắn
ngày đã cho phép gieo trồng nhiều vụ trong năm, bố trí thời vụ gieo cấy (Nguyễn Đức
Khanh (2012).
Trong điều kiện đất nước ta, việc áp dụng những thành tựu khoa học vào sản
xuất nông nghiệp là rất quan trọng, sản xuất lai tạo giống tốt là biện pháp ít tốn kém
mang lại hiệu quả cao nhất so với các biện pháp kỹ thuật khác. Tạo những giống ngắn
ngày năng suất cao phẩm chất tốt là vấn đề cấp bách của đất nước hiện nay. Đinh Văn
Lữ (1978), Giáo trình cây lúa, NXB Nông nghiệp, Hà Nội cho rằng công tác lai tạo lúa
ngắn ngày năng suất cao kháng sâu bệnh đã nâng cao năng suất đáng kể trên một số
6
diện tích trồng lúa ở nước ta. Sự đóng góp của giống mới đã làm cho sản xuất nông
nghiệp phát triển.Trích dẫn theo Nguyễn Xuân Lý: “Năng suất ngũ cốc trên Thế giới có
tăng hơn 40% là do việc chọn lọc, lai tạo và cải thiện giống”; cho thấy : các giống lúa
mới sản lượng đã tăng 50 - 60 % so với các giống cổ truyền cho rằng giống là yếu tố
then chốt cho năng suất cao nhưng năng suất cao chỉ đạt khi nào giống có tiềm năng
năng suất cao. Giống là sản phẩm của sức lao động của con người là tư liệu sản xuất và
là một trong những yếu tố quyết định trong việc tăng năng suất. Cuộc cách mạng xanh
trong vùng nhiệt đới đã được đánh dấu bằng những giống lúa năng suất cao. Trong
những năm đầu của thập niên 1960 chỉ có ít chuyên gia chú ý tới việc chọn giống,
nhưng sự ra đời của các giống lúa cải tiến đã thay đổi tình thế đó.
1.3.2. Những kết quả đạt được trong công tác nghiên cứu và chọn giống
1.3.2.1. Trên thế giới
Trung Quốc là nước trồng lúa hàng đầu thế giới nên công tác giống đặc biệt
được chú trọng. Vào những năm 60 và 70 của thập kỷ trước Trung Quốc đã cho ra đời
hàng loạt các giống lúa có năng suất cao, phẩm chất tốt như Đoàn kết, Bao Thai, Trân
Châu Lùn, Mộc Tuyền.... Các giống này cũng đã suất khẩu sang Việt Nam và cho tới
nay giống vẫn được một số địa phương gieo trồng vì chất lượng gạo tốt, phù hợp với
điều kiện gieo trồng và đất đai của địa phương (Lin, SC, 2001).
Việc nghiên cứu, chọn tạo các giống lúa thuần có thời gian sinh trưởng ngắn,
năng suất, chất lượng cao đang được các tổ chức nghiên cứu trên thế giới quan tâm.
Một số giống lúa có chất lượng đã được công bố như Khao Dawk Mali đây là giống
lúa nước trời của Thái Lan, phản ứng với ánh sáng, thích hợp với đất phèn nhẹ, đất
nhiểm mặn vào mùa khô, có đặc điểm gạo mềm, hạt dài, có mùi thơm, năng suất đạt 3
- 4 tấn/ha. Tại Mỹ các nhà khoa học đã chọn lọc ra được giống Jasmine 85 có thời gian
sinh trưởng 100 - 105 ngày, cho năng suất khá (5 - 6 tấn/ha), có chất lượng cao (Lin,
SC, 2001).
1.3.2.2. Ở Việt Nam
Từ năm 1990-1995 đề tài KN08 - 01 đã chọn tạo và được công nhận 26 giống
lúa cho vùng thâm canh ở Việt Nam.
Từ năm 1996 - 2000 đề tài KN 08 - 01 chọn tạo một số giống lúa thuần và lúa lai
có tiềm năng năng suất cao cho các vùng sinh thái khác nhau trong cả nước: Đã chọn
tạo và được công nhận 35 giống quốc gia, 44 giống khu vực hoá, một số giống triển
vọng được sản xuất chấp nhận rộng rãi. Trong thời gian tới đặc biệt chú ý đến các giống
lúa chất lượng đáp ứng nhu cầu nội địa và xuất khẩu.
Viện lúa Đồng bằng Sông Cửu Long đã chọn tạo và đưa vào sản xuất 90 giống
lúa, trong đó có 40 giống lúa được công nhận chính thức. Hầu hết các giống lúa chọn
tạo đều có thời gian sinh trưởng ngắn 90-100 ngày, có khả năng chống chịu sâu bệnh,
đáp ứng nhu cầu sản xuất.
Theo Nguyễn Thị Lang (2013), Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long đã nghiên
cứu chọn tạo giống lúa xuất khẩu cho đồng bằng Sông Cửu Long (giai đoạn 2011-
2013), từ vật liệu gồm 200 giống lúa mùa địa phương, 200 giống lúa cao sản và 72
giống lúa du nhập đã tạo một khối lượng sàng lọc bố mẹ cho vật liệu lai. Có 22 giống
có hàm lượng protein trên 8% gồm OM96L, OM6600, OM6L, OM6832, OM6691,...
Tác giả Trần Tấn Phương và cs (2010) đã sử dụng phương pháp lai kết hợp nhiều
bố mẹ đã chọn tạo được giống lúa thơm mới ST20 có thời gian sinh trưởng ngắn 115
ngày, cây thấp, tiềm năng năng suất cao, hạt dài, hàm lượng amylase 12,4%, hàm lượng
protein 10,84%, cơm thơm đậm, mềm dẻo. Giống ST20 có chứa gen thơm badh2.1, có
7
hàm lương chất 2-AP (2-acetyl-1-pyroline) là 8,8 ppb, cao hơn giống Jasmin 85. Nhóm
nghiên cứu đã tiến hành đánh giá phẩm chất của 9 giống lúa thơm mới chọn tạo (ST3,
ST5, ST10, ST12, ST16, ST17, ST18, ST19, ST20) ở các mùa vụ và các địa điểm khác
nhau tại tính Sóc Trăng. Kết quả cho thấy hàm lượng chất thơm 2-AP ở vụ Hè Thu thấp
hơn vụ Đông Xuân (Trần Tấn Phương và cs (2011).
1.4. Cơ sở khoa học và những nghiên cứu về mật độ gieo cấy lúa
1.4.1. Cơ sở khoa học về mật độ gieo cấy lúa
Năng suất ruộng lúa được quyết định bởi các yếu tố như: Số bông/đơn vị diện
tích, số hạt/bông, tỷ lệ hạt chắc và trọng lượng hạt. Được thể hiện bởi công thức:
Năng suất (tạ/ha) = Số bông/m2 x Số hạt/bông x Tỷ lệ hạt chắc x P1000 x 10
-4.
Trong những yếu tố kỹ thuật để tăng năng suất cây trồng, ngoài phân bón và
cách bón phân, thì mật độ quần thể ảnh hưởng lớn đến sự sinh trưởng của cây trồng.
Sự cạnh tranh quần thể cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của cây lúa, khi cây lúa phải
sống trong điều kiện chật hẹp, thiếu ánh sáng làm cây lúa trở nên yếu ớt sâu bệnh dễ
tấn công và dịch bệnh phát triển mạnh. Ngoài ra, năng suất cây trồng không