Tóm tắt Luận án Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật canh tác cây Chùm ngây (Moringa oleifera Lam.) làm rau theo hướng hữu cơ

Chùm ngây là cây có giá trị cao về mặt dinh dưỡng và dược liệu. Ở Việt Nam, kỹ thuật trồng trọt áp dụng trong sản xuất Chùm ngây chủ yếu là tự phát, chưa có giống và quy trình canh tác một cách khoa học. Do đó việc khai thác giá trị kinh tế, dinh dưỡng và dược liệu của cây Chùm ngây từ các mô hình canh tác này chưa thật hiệu quả và rộng rãi. Nhu cầu tiêu thụ lá Chùm ngây khá cao, trong khi chưa có nguồn cung cấp với số lượng lớn, ổn định, đảm bảo chất lượng theo tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm và tiêu chuẩn GMP của Bộ Y tế. Các nghiên cứu của các tác giả trên thế giới đã thực hiện và chỉ ra rằng kỹ thuật canh tác không chỉ ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển của cây mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất và chất lượng lá Chùm ngây. Để có cơ sở khoa học đề xuất một số biện pháp canh tác cây Chùm ngây làm rau theo hướng hữu cơ, góp phần phát triển kinh tế – xã hội cho người dân tại tỉnh Đồng Nai đề tài “Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật canh tác cây Chùm ngây (Moringa oleifera Lam.) làm rau theo hướng hữu cơ” đã được thực hiện.

pdf27 trang | Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 257 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật canh tác cây Chùm ngây (Moringa oleifera Lam.) làm rau theo hướng hữu cơ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP. HCM MAI HẢI CHÂU NGHIÊN CỨU MỘT SỐ BIỆN PHÁP KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY CHÙM NGÂY (Moringa oleifera Lam.) LÀM RAU THEO HƯỚNG HỮU CƠ Chuyên ngành: Khoa học cây trồng Mã số: 62.62.01.10 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NÔNG NGHIỆP TP. Hồ Chí Minh – Năm 2016 Công trình được hoàn thành tại: TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP. HỒ CHÍ MINH Hội đồng hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS Huỳnh Thanh Hùng 2. TS. Võ Thái Dân Phản biện 1: Phản biện 2: Phản biện 3: Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường tại Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh Vào hồi..giờ.ngày.tháng.năm 2016 Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Trường Đại học Nông Lâm TP. HCM Thư viện Quốc gia Hà Nội 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Chùm ngây là cây có giá trị cao về mặt dinh dưỡng và dược liệu. Ở Việt Nam, kỹ thuật trồng trọt áp dụng trong sản xuất Chùm ngây chủ yếu là tự phát, chưa có giống và quy trình canh tác một cách khoa học. Do đó việc khai thác giá trị kinh tế, dinh dưỡng và dược liệu của cây Chùm ngây từ các mô hình canh tác này chưa thật hiệu quả và rộng rãi. Nhu cầu tiêu thụ lá Chùm ngây khá cao, trong khi chưa có nguồn cung cấp với số lượng lớn, ổn định, đảm bảo chất lượng theo tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm và tiêu chuẩn GMP của Bộ Y tế. Các nghiên cứu của các tác giả trên thế giới đã thực hiện và chỉ ra rằng kỹ thuật canh tác không chỉ ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển của cây mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất và chất lượng lá Chùm ngây. Để có cơ sở khoa học đề xuất một số biện pháp canh tác cây Chùm ngây làm rau theo hướng hữu cơ, góp phần phát triển kinh tế – xã hội cho người dân tại tỉnh Đồng Nai đề tài “Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật canh tác cây Chùm ngây (Moringa oleifera Lam.) làm rau theo hướng hữu cơ” đã được thực hiện. 2. Mục tiêu nghiên cứu Nghiên cứu đa dạng di truyền, chọn giống và một số biện kỹ thuật chính nhằm góp phần xây dựng qui trình canh tác cây Chùm ngây làm rau theo hướng hữu cơ, cung cấp một loại rau giàu dinh dưỡng, an toàn, tăng thu nhập cho người dân trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là giống Chùm ngây Chiatai được nhập nội từ Thái Lan và các giống thu thập từ các tỉnh Đồng Nai, Bình Thuận, Ninh Thuận, Bà Rịa – Vũng Tàu, An Giang có một số đặc điểm sinh trưởng phù hợp với điều kiện canh tác của tỉnh Đồng Nai. Giới hạn nghiên cứu - Địa bàn nghiên cứu và ứng dụng của đề tài là trên hai loại đất (đất xám phù sa cổ và đất đỏ bazan) trồng nhiều Chùm ngây ở Đồng Nai. Các nghiên cứu về tình hình sản xuất, xác định giống phù hợp và biện pháp canh tác được triển khai ở một số huyện đại diện có trồng cây Chùm ngây thuộc tỉnh Đồng Nai. - Đề tài chưa sử dụng cây Chùm ngây nhân giống in vitro cho các nội dung nghiên cứu kỹ thuật canh tác đồng ruộng. - Quy trình canh tác cây Chùm ngây gồm nhiều khâu, nghiên cứu này chỉ tập trung vào các khâu gồm: chọn giống, nhân giống in vitro, mật độ, bón phân hữu cơ và thu hoạch. - Đề tài nghiên cứu sử dụng lá Chùm ngây làm rau theo hướng hữu cơ. 2 Ý nghĩa khoa học Đánh giá được đa dạng di truyền các mẫu giống cây Chùm ngây thu thập ở một số tỉnh khu vực phía Nam, là cơ sở dữ liệu phục vụ công tác bảo tồn và chọn tạo giống Chùm ngây. Tạo ra số lượng lớn cây con từ một cá thể tốt bằng phương pháp nhân giống in vitro, với hệ số nhân giống cao, đảm bảo đặc tính di truyền của cây mẹ. Xác định được giống và một số kỹ thuật canh tác chủ yếu cây Chùm ngây làm rau ăn lá theo hướng hữu cơ cho tỉnh Đồng Nai. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu sẽ giúp người dân trồng Chùm ngây của tỉnh Đồng Nai rút ngắn thời gian thu hoạch, tăng năng suất, chất lượng và giá trị của sản phẩm, từ đó làm tăng thu nhập, góp phần phát triển kinh tế – xã hội tỉnh Đồng Nai. Là cơ sở cho các nhà quản lý, hoạch định chính sách có thể mở rộng diện tích cây Chùm ngây, một loại rau giàu dinh dưỡng, có khả năng thích ứng rộng trên nhiều loại hình sinh thái, nhất là trong bối cảnh ứng phó với biến đổi khí hậu như hiện nay. Đóng góp mới của đề tài - Đánh giá được đa dạng di truyền mẫu giống cây Chùm ngây ở một số tỉnh phía Nam bằng chỉ thị phân tử RAPD. - Xác định được giống Chùm ngây sinh trưởng, phát triển tốt; có năng suất, hàm lượng dinh dưỡng và flavonoid cao. - Xây dựng được quy trình nhân giống Chùm ngây in vitro. - Bước đầu đề xuất được một số biện pháp kỹ thuật canh tác Chùm ngây làm rau theo hướng hữu cơ cho tỉnh Đồng Nai. 6. Bố cục của luận án Luận án gồm 141 trang, có 3 chương, 31 bảng số liệu và 11 hình. Có 137 tài liệu với 27 tài liệu tiếng Việt, 110 tài liệu tiếng Anh được tham khảo. Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Giới thiệu về cây Chùm ngây 1.1.1. Sơ lược về cây Chùm ngây Cây Chùm ngây (Moringa oleifera Lam.) thuộc ngành ngọc lan Magnoliophyta, lớp ngọc lan Magnoliopsida, bộ Chùm ngây Moringales, họ Chùm ngây Moringaceae, chi Chùm ngây Moringa (Foidl, 2001). Là loài cây có sự phân bố địa lý rộng rãi nhất ở dãy núi Himalaya thuộc Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh và Afghanistan. Đây là loài cây sinh trưởng nhanh và được sử dụng bởi người La Mã cổ đại, người Hy Lạp và Ai Cập, là cây trồng quan trọng ở Ấn Độ, Ethiopia, Philippines, Sudan và đang phát triển tại miền Tây, Đông và Nam thuộc châu Phi, châu Á nhiệt đới, châu Mỹ Latin, vùng Caribbean, Florida và quần đảo thuộc Thái Bình Dương (Fahey, 2005). 3 1.1.3. Giá trị sử dụng của cây Chùm ngây Lá Chùm ngây chứa nhiều chất dinh dưỡng, đặc biệt là các vitamin thiết yếu như vitamin A, C và E. So sánh hàm lượng một số chất dinh dưỡng chính trong lá Chùm ngây với một số loại thực phẩm phổ biến cho thấy hàm lượng vitamin C nhiều hơn quả cam 7 lần; vitamin A nhiều hơn cà rốt 4 lần; canxi nhiều hơn sữa 4 lần; chất sắt nhiều hơn cải bó xôi 3 lần; chất đạm nhiều hơn 2 lần so với yaourt; kali nhiều 3 lần so với quả chuối (Donovan, 1985). Các bộ phận của cây như lá, rễ, hạt, vỏ cây, quả và hoa có những hoạt tính như kích thích hoạt động của tim và hệ tuần hoàn, hoạt tính chống u bướu, hạ nhiệt, chống kinh phong, chống sưng viêm, trị ung loét, chống co giật, lợi tiểu, hạ huyết áp, hạ cholesterol, chống oxyhóa, trị tiểu đường, bảo vệ gan, kháng sinh và chống nấm. Cây Chùm ngây đã được dùng để trị nhiều bệnh trong y học dân gian tại nhiều nước trong vùng Nam Á (Fahey, 2005). 1.2. Đa dạng di truyền cây Chùm ngây Rất ít thông tin về đặc tính di truyền và mối quan hệ di truyền của các quần thể Chùm ngây được trồng ở các nước trên thế giới. Chỉ thị phân tử được chứng minh là công cụ hiệu quả để đánh giá mức độ đa dạng di truyền bên trong quần thể và giữa các quần thể với nhau thông qua phân tích số lượng phân bố của các loci trên genome (Powell và ctv, 1995). Olson (2002) đã sử dụng phương pháp mô tả hình thái kết hợp với chuỗi trình tự DNA từ nhân và lục lạp để xác định nguồn gốc phát sinh loài và quan hệ di truyền của 13 loài Chùm ngây trong chi Moringa. Kết quả đã xây dựng được cây phát sinh loài và bản đồ di truyền giữa 13 loài trong chi Chùm ngây Moringa. Abubaka (2011) đã tiến hành nghiên cứu đa dạng di truyền bằng phương pháp khuếch đại đa hình ngẫu nhiên (RAPD) trên 75 mẫu giống thu thập từ 12 bang phía Bắc Nigeria để xác định mức độ đa dạng di truyền và xây dựng bản đồ di truyền phục vụ cho công tác chọn tạo giống. Kết quả cho thấy độ đa hình là rất cao 74% trong số các mẫu được quan sát và được phân thành 5 nhóm. Khuếch đại đa hình ngẫu nhiên (AFLP) cũng được sử dụng để phân tích biến thiên di truyền trên cây Chùm ngây nhằm đánh giá sự khác biệt về mặt di truyền giữa các quần thể tự nhiên. Vật liệu nghiên cứu là 140 kiểu gen Chùm ngây từ 7 quần thể khác nhau (20 cây/quần thể) được sử dụng: 2 quần thể từ Tamil Nadu (Nam Ấn Độ), 1 từ vùng ExNsanje (phía Nam Malawi) và 4 từ Kenya. Kết quả cho thấy mức độ đa dạng di truyền cao nhất được xác định ở các quần thể từ Ấn Độ (Muluvi và ctv, 1999). 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến nhân giống in vitro - Mẫu cấy Hongfeng và Qiang (2008) đã xây dựng hệ thống tái sinh in vitro cho loài cây Chùm ngây M. oleifera Lam. từ nguồn mẫu là thân cây con cho kết quả tốt nhất. Manohar (2008) đã nghiên cứu nhân nhanh Chùm ngây thông qua mô sẹo. Fahey và ctv (2004) đã nghiên cứu phát triển kỹ thuật vi nhân giống cây Chùm ngây từ hạt chưa trưởng thành, nuôi cấy trong môi trường MS (Murashige & Skoog, 4 1962) có cải tiến. Kết quả cho thấy tỷ lệ thành công là 73% nhưng tỷ lệ nhân giống trung bình chỉ đạt 4,7 chồi/lần nhân. - Hoá chất và thời gian khử trùng Theo Trần Văn Tiến (2013), khử trùng hạt Chùm ngây bằng HgCl2 0,1% tỷ lệ mẫu sạch cao (83,3 – 100%), nhưng tỉ lệ mẫu tái sinh lại thấp. Khi tăng thời gian khử trùng thì tỷ lệ mẫu nảy chồi giảm xuống rất thấp chỉ đạt 13,3 % ở công thức khử trùng bằng HgCl2 0,1% trong 8 phút và thời gian phôi hạt nảy mầm cũng chậm hơn. Khi khử trùng mẫu cấy với hoá chất là Javen 60%, trong thời gian khử trùng 12 phút, tỷ lệ mẫu sạch và tỷ lệ mẫu tái sinh cao nhất đạt 100%. - Môi trường dinh dưỡng tái sinh chồi và rễ Hongfeng và Qiang (2008) đã nghiên cứu môi trường nuôi cấy Chùm ngây trong điều kiện in vitro, kết quả thu được cho thấy: môi trường MS + 1,0 mg BAP/L + 5 g Karagum/L + 30 g sucrose/L là tốt nhất cho việc kích thích nhân chồi Chùm ngây; môi trường ½ MS + 0,4 mg IBA/L + 0,2 mg NAA/L + 7 g Karagum/L + 20 g sucrose/L tốt nhất cho việc kích thích ra rễ Chùm ngây. - Các chất điều hoà sinh trưởng Chất điều hoà sinh trưởng thường được sử dụng để tái sinh chồi là nhóm cytokinin, tái sinh rễ là nhóm auxin. Theo Eufrocinio (2010), BAP ở nồng độ 2,5 µM là tối ưu cho phá vỡ chồi ngủ. Trung bình 4,6 chồi/mẫu cấy sau 2 tuần. Axít naphthaleneacetic (NAA) ở nồng độ 0,25 µM cho tỷ lệ ra rễ cao nhất và 80 % cây sống sót sau khi được cấy chuyền vào đất. Theo Thidarat (2011), môi trường MS có bổ sung BAP ở nồng độ 2,0 mg/L cho tỷ lệ hình thành chồi cao nhất đạt 100%, với số chồi đạt 10,8 chồi/mô. Môi trường MS có bổ sung 0,5 mg NAA/L cho khả năng tạo chồi và rễ cao nhất từ các mô sẹo. - Giá thể cây Chùm ngây in vitro ngoài vườn ươm Theo Trần Văn Tiến (2013), cây Chùm ngây in vitro sau khi đã đủ rễ, thân và lá, cao 5 – 7 cm được huấn luyện 10 ngày sau đó đem trồng trong giá thể chứa 50% đất + 30% cát + 20% trấu hun cho tỷ lệ cây sống cao đạt 95,5%, chất lượng cây tốt. 1.4. Ảnh hưởng của biện pháp kỹ thuật đến sinh trưởng, năng suất và chất lượng Chùm ngây 1.4.1. Giống và kỹ thuật nhân giống Các nghiên cứu về giống và chọn tạo giống Chùm ngây rất hạn chế, mới chỉ dừng lại ở các nghiên về đa dạng di truyền, bảo tồn nguồn gen. Trường Đại học Nông nghiệp Tamil Nadu, Periyakulam, miền Nam Ấn Độ đã thành công trong việc phát triển và chọn ra được hai giống Chùm ngây Periyakulam 1 (PKM-1) và Periyakulam 2 (PKM-2). Hai giống này có những đặc tính nông học, giá trị dinh dưỡng và dược liệu ưu thế hơn hẳn so với các giống địa phương. 5 Kỹ thuật nhân giống ảnh hưởng một cách đáng kể đến năng suất, chất lượng Chùm ngây thông qua tỷ lệ nảy mầm hạt giống, tỷ lệ cây sống sau trồng, sức sinh trưởng và độ đồng đều của sản phẩm khi thu hoạch (Sanchez, 2006). Đối với cây Chùm ngây hiện đang sử dụng ba phương pháp nhân giống chính là nhân giống bằng hạt, giâm cành và in vitro. Trong đó phương pháp nhân giống in vitro có ưu điểm vượt trội so với phương pháp nhân giống bằng hạt và giâm cành. 1.4.2. Mật độ, khoảng cách trồng và chu kỳ thu hoạch Chùm ngây có khả năng tạo ra trọng lượng chất khô tương đối cao, từ 4,2 – 8,3 tấn/ha/năm, phụ thuộc chế độ phân bón, mức độ đầu tư, mùa vụ và vùng sinh thái (Palada và ctv, 2007). Theo Foidl (1999), để sản xuất Chùm ngây làm rau ăn lá trong điều kiện đất cát, được cung cấp đủ chất dinh dưỡng cho cây sinh trưởng, thoát nước tốt thì mật độ trồng tốt nhất là 10 x 10 cm (1.000.000 cây/ha). Theo Price (2007), Chùm ngây có thể phát triển và cho năng suất sinh khối lên đến 270 tấn/ha/năm. Cây Chùm ngây được trồng ở mật độ 10 x 10 cm (1.000.000 cây/ha), bón lót phân chuồng (phân bò), lá được thu hoạch khi cây đạt đến độ cao khoảng 50 cm trở lên. Để thu hoạch, cần cắt ở độ cao 15 – 20 cm tính từ mặt đất, cây con có thể chết 20 – 30% ở năm đầu tiên, tuy nhiên cây sẽ đâm chồi khá mạnh sau khi cắt. Theo Sanchez (2006), mật độ trồng 750.000 cây/ha và chu kỳ thu hoạch 75 ngày/lần cho năng suất, hàm lượng và thành phần các hợp chất hoá học đạt cao nhất. Theo Amaglo (2006), mật độ trồng 1 triệu cây/ha và chu kỳ thu hoạch 35 ngày/lần cây Chùm ngây sinh trưởng phát triển tốt, cho năng suất lá và hàm lượng dinh dưỡng đạt cao nhất. Theo L.H. Manh và ctv (2003), Chùm ngây có thể phát triển trên đất chua, cây con không thích nghi với điều kiện ngập nước kéo dài; có thể thu hoạch 7 lần trong một năm và năng suất có thể đạt từ 42 – 53 tấn/ha/năm. Theo Fadiyimu và ctv (2011), trong điều kiện mùa mưa chu kỳ cắt từ 4 – 6 tuần/lần, cắt ở độ cao 150 cm cho năng suất cao nhất, tuy nhiên năng suất đạt thấp nhất khi cắt ở 12 tuần ở độ cao cắt 150 cm. Trong điều kiện mùa khô, kết quả có sự khác biệt đáng kể, năng suất Chùm ngây đạt cao nhất ở chu kỳ cắt 12 tuần ở độ cao 100 cm. Tóm lại, cây Chùm ngây là cây đa mục đích (Fuglie, 1999), tuỳ vào mục đích sử dụng các bộ phận của cây mà khoảng cách, mật độ trồng và chu kỳ thu hoạch cũng khác nhau. Với mục tiêu sản xuất Chùm ngây làm rau có năng suất cao, chất lượng tốt, giảm thiểu hàm lượng lignin trong lá thì nên trồng ở khoảng cách tối ưu 10 x 10 cm tương ứng với mật độ 1 triệu cây/ha và chu kỳ thu hoạch từ 33 đến 40 ngày/lần (Fuglie, 1999). 1.4.3. Dinh dưỡng và phân bón Kết quả nghiên cứu của các tác giả cho thấy phân hữu cơ có ảnh hưởng tốt nhất đến tất cả các chỉ tiêu sinh trưởng cây Chùm ngây, tuy nhiên hàm lượng diệp lục và 6 carotenoid lại không ảnh hưởng bởi nguồn phân bón (Dash và ctv, 2009; Adebayo, 2011; Imoro, 2012; William và ctv, 2012). Theo Palada và Chang (2003), Chùm ngây là cây trồng sinh trưởng tốt trong đất mà không cần bổ sung dinh dưỡng. Tuy nhiên để đạt sinh trưởng và năng suất tối ưu thì phân bón cần được bón ngay vào thời điểm trồng. Sử dụng phân đạm để bón với lượng 300 g/cây, bón cách gốc 10 – 15 cm. Trong trường hợp không có phân đạm thì có thể sử dụng phân hữu cơ hoặc phân chuồng ủ hoai để bón với lượng 1 – 2 kg/cây. Theo Price (2007), Chùm ngây trồng với mật độ dày 1 triệu cây/ha, một năm hút khoảng 250 kg N, 35 kg P2O5, 270 kg K2O/ha từ đất. Tỷ lệ các chất dinh dưỡng trong lá tươi Chùm ngây khoảng 0,25% N; 0,07% P; 0,25% K; 0,44% Ca; 0,025% Mg, 0,025% Fe, 0,13% S (Fuglie, 1999). Từ đó suy ra nhu cầu phân bón hàng năm cho Chùm ngây trồng với mật độ hàng triệu cây/ha khoảng 250 kg N + 70 kg P2O5 + 280 kg K2O/ha. Ngoài ra cần bổ sung các chất khoáng thiết yếu khác như Ca, Fe, Mg, S, Cu, Zn, B giúp Chùm ngây sinh trưởng, phát triển tốt. Theo Mendieta-Araica (2013), Chùm ngây trồng ở mật độ trồng 167.000 cây/ha và bón đạm với lượng 512 kg/ha/năm cho năng suất cao nhất. Theo Isaiah (2013), bón 120 kg NPK/ha cho cây Chùm ngây cho số lá, chiều cao, đường kính thân và hàm lượng protein cao nhất. Kết quả này cũng trùng hợp với nghiên cứu của Fagbenro. Theo Fuglie (1999), bón lân và đạm cho cây Chùm ngây sẽ kích thích hệ thống rễ cũng như tán lá phát triển. Nói chung, các nghiên cứu về phân bón gồm loại phân, lượng phân và chế độ bón phân cho cây Chùm ngây còn rất hạn chế, đặc biệt là các nghiên cứu về phân bón lá để sản xuất Chùm ngây theo hướng hữu cơ. 1.4.4. Thu hoạch Theo Nouman (2012b), kỹ thuật và chu kỳ thu hoạch ảnh hưởng một cách có ý nghĩa đến năng suất ngọn và lá tươi, trọng lượng khô, hàm lượng dinh dưỡng, hàm lượng diệp lục, hàm lượng phenolic tổng số và các chất chống oxi hoá. Theo Nguyễn Đặng Toàn Chương (2011), năng suất Chùm ngây thực thu đạt cao nhất (1.801,6 kg/2 lần thu/ha) khi đốn ở độ cao 100 cm và phun chất kích thích chồi bằng urê 1%. 1.5. Canh tác theo hướng hữu cơ Đến nay, chưa có một định nghĩa chính thức nào về canh tác theo hướng hữu cơ, tuy nhiên có thể hiểu canh tác theo hướng hữu cơ là tiệm cận với tiêu chuẩn canh tác hữu cơ. Do vậy, canh tác theo hướng hữu cơ dừng lại ở các tiêu chuẩn sau: (1) đất canh tác đảm bảo tiêu chuẩn sản xuất rau an toàn; (2) sử dụng nước giếng khoan để tưới, đảm bảo tiêu chuẩn sản xuất rau an toàn; (3) sử dụng phân hữu cơ để bón cho cây trồng; (4) sử dụng màng phủ đất để hạn chế cỏ dại; (5) sử dụng các chế phẩm sinh học để phòng trừ sâu bệnh hại. 7 Chương 2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 2.1. Nội dung, thời gian và địa điểm - Khảo sát tình hình sản xuất cây Chùm ngây trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Thời gian thực hiện từ tháng 6/2012 – 10/2012; - Thu thập và đánh giá đa đạng di truyền các giống Chùm ngây tại một số tỉnh khu vực miền Nam bằng chỉ thị phân tử RAPD. Thời gian thực hiện từ tháng 6/2012 – 10/2012; - Nghiên cứu xác định giống Chùm ngây sinh trưởng phát triển tốt, năng suất cao, chất lượng tốt, phù hợp với điều kiện canh tác ở tỉnh Đồng Nai. Thời gian thực hiện từ tháng 5/2013 – 5/2014; - Nghiên cứu xây dựng qui trình nhân giống in vitro cây Chùm ngây. Thời gian thực hiện từ tháng 5/2014 – 2/2015; - Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật canh tác chủ yếu cây Chùm ngây làm rau theo hướng hữu cơ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai (mật độ, phân bón, chu kỳ và quy cách thu hoạch). Thời gian thực hiện từ tháng 5/2013 – 5/2015. Từ kết quả nghiên cứu đề xuất một số biện pháp kỹ thuật canh tác cây Chùm ngây làm rau theo hướng hữu cơ cho tỉnh Đồng Nai. Thời gian thực hiện từ tháng 5 – 6/2015. 2.2. Phương pháp nghiên cứu * Khảo sát tình hình canh tác Chùm ngây: được triển khai theo hướng dẫn đánh giá điểm nghiên cứu hệ thống canh tác bằng phiếu phỏng vấn hộ nông dân của IRRI (1990). * Đánh giá đa dạng di truyền: bằng phương pháp chỉ thị phân tử RAPD với 10 mồi ngẫu nhiên. Sử dụng phần mềm NTSYSpc 2.2 để lập bảng ma trận tương đồng và biểu đồ quan hệ di truyền giữa các mẫu Chùm ngây nghiên cứu. * Nghiên cứu xây dựng qui trình nhân giống in vitro: các thí nghiệm được bố trí theo kiểu hoàn toàn ngẫu nghiên (CRD), 3 lần lặp lại, mỗi ô cơ sở 40 mẫu (cây). Theo dõi các chỉ tiêu sinh trưởng, phát triển và chất lượng cây sau 2 tuần nuôi cấy, sau 5 tuần trồng ở vườn ươm. * Nghiên cứu giống và kỹ thuật canh tác chủ yếu: thí nghiệm 2 yếu tố được bố trí theo kiểu lô phụ, 3 lần lặp lại, mỗi ô cơ sở 12 m2 trên nền canh tác và chăm sóc theo hướng hữu cơ như nhau (ngoại trừ các biện pháp kỹ thuật là yếu tố thí nghiệm sẽ được áp dụng thay đổi theo từng thí nghiệm). Chỉ tiêu và phương pháp theo dõi: - Chỉ tiêu sinh trưởng: + Chiều cao cây trung bình (cm): đo từ cổ rễ đến đỉnh sinh trưởng theo phương pháp của Toledo và Schultze-Kraft (1982). + Số lá trên cây (lá): đếm số lá kép trên cây, đếm 5 cây/ô. 8 + Đường kính thân (mm): đo ở vị trí cách mặt đất 10 cm; đo 5 cây/ô. Các chỉ tiêu sinh trưởng được tiến hành đo cố định 5 cây/ô ở 7 NSMM; 7 ngày đo một lần. + Theo dõi số cây chết/m2 ô thí nghiệm ở các giai đoạn 100 – 160 NSMM, 160 – 220 NSMM và 220 – 280 NSMM: tiến hành đếm số cây chết/m2 ô thí nghiệm. + Ghi nhận sâu bệnh hại: thành phần, thời điểm gây hại, mức độ gây hại và biện pháp phòng trừ (nếu có). - Chỉ tiêu năng suất: Năng suất được phân thành: (1) năng suất sinh khối cá thể, (2) năng suất sinh khối lý thuyết, (3) năng suất lá lý thuyết, (4) năng suất lá thương phẩm lý thuyết và (5) năng suất lá thương phẩm thực thu. + Năng suất sinh khối cá thể (g/cây/năm): là năng suất sinh khối tươi của 5 lần thu (lần 1 thu cách mặt đất 30 cm, các lần thu tiếp theo cách vị trí cắt trước 20 cm) của trung bình trên 5 cây ngẫu nhiên trên mỗi ô thí nghiệm (g/cây/năm); + Năng suất sinh khối lý thuyết (tấn/ha/năm) = [năng suất sinh k
Luận văn liên quan