Thực vật là nguồn cung cấp carbohydrate, protein và chất béo làm
thực phẩm. Hơn nữa, thực vật cũng là nguồn cung cấp phong phú các
hợp chất tựnhiên dùng làm dược phẩm, hóa chất nông nghiệp, hương
liệu. Những sản phẩm này được biết nhưlà các chất trao đổi thứcấp,
chúng được xem là sản phẩm của các phản ứng hóa học của thực vật
với môi trường hoặc là sựbảo vệhóa học chống lại vi sinh vật và động
vật. Những nghiên cứu vềcác hợp chất thứcấp có nguồn gốc thực vật
đã phát triển từcuối những năm 50 của thếkỷXX và đến nay có
khoảng hơn 80.000 hợp chất đã đuợc công bố. Việc khai thác nguồn
dược liệu tựnhiên từthực vật đang trởthành một vấn đềquan trọng
mang tính toàn cầu và chúng ngày càng được thương mại hóa nhiều
hơn. Vấn đề đặt ra hiện nay là nơi sống tựnhiên của các loài cây thuốc
đang bịbiến mất nhanh chóng do sựbiến động của điều kiện môi
trường và địa lý, cũng nhưsựkhai thác bừa bãi của con người. Điều
này buộc các nhà khoa học cần phải tính đến tiềm năng của kỹthuật
nuôi cấy tếbào thực vật nhưmột sựthay thế đểcung cấp nguyên liệu
ổn định cho ngành công nghiệp sản xuất dược phẩm.
Nuôi cấy tếbào thực vật đã được quan tâm nghiên cứu từnhững
năm 1950. Nhiều nghiên cứu cho thấy, nuôi cấy tếbào thực vật là một
phương thức hiệu quảtrong sản xuất các hoạt chất sinh học hoặc các
chất chuyển hóa của chúng. Đến nay, người ta đã thành công trong sản
xuất rất nhiều loại hợp chất có giá trịtheo phương thức này
nhưanthraquinone, vincristine, berberin, diosgenin, taxol,
ginsenoside . Nghệ đen là loài thảo dược quý, không độc, có chứa
các chất nhưcurcumin, terpenoid và tinh dầu. Curcumin của nghệ đen
có khảnăng ức chếkhối u; chống lại một sốdạng ung thư ởchuột như
ung thưruột kết, ung thưdạdày, ung thưvú và ung thưbuồng trứng;
curcumin cũng có tác dụng chống đông máu và hạhuyết áp;
24 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1926 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt luận án Nghiên cứu nuôi cấy tế bào cây nghệ đen (Curcuma zedoaria Roscoe) và khảo sát khả năng tích lũy một số hợp chất có hoạt tính sinh học của chúng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
48
was suitable for cell growth of Zedoary in flask 250 mL. The cell
biomass was maximum with 10.44 g fresh weight (0.66 g dry weight)
after 14 culture days with inoculum size of 3 g.
3. The basic MS medium contained 3% sucrose, supplemented
with 0.5 mg/L BA and 1.5 mg/L 2,4-D; agitation speed 150 rpm/min,
aeration rate 2,5 L/min was suitable to growth of Zedoary cells in 10 L
bioreactor. The cell biomass was maximum with 603 g fresh weight
(53.25 g dry weight) after 14 culture days with inoculum size of 200 g.
4. The concentration of essential oil in cells reached maximum at
2.57% dry weight after 14 culture days, 1.6 times higher than that in
rhizome. The concentration of curcumin in cells reached maximum at
1.16% after 14 culture days, 2.7 times higher than that in rhizome.
There was a biotransformation of curcuminoid in cell culture. The
concentration of polysaccharide in cell was maximum at 6.55% dry
weight after 10 culture days, 1.4 time lower than that in rhizome.
There was accumulation of sesquiterpenes in cell culture. The
compositions of sesquiterpene distributed in suspension cells was less
than that in rhizome. There were 3-4 peaks of sesquiterpene distributed
similar to rhizome. There was a biotransformation of sesquiterpene in
cell culture.
5. Essential oil could inhibit growth of B. cereus ATCC 11778 (31
mm), S. aureus ATCC 6538 (22.33 mm) and E. coli ATCC 25922
(18.33 mm). Overall, the antibacterial ability of essential oil derived
from culture cell was high.
RECOMMENDATION
1. More studies to enhance the accumulation ability of
bioactive compounds in Zedoary cells.
2. More studies in composition as well as bioactivities of
curcumin, sesquiterpenes, polysaccharides produced from
Zedoary cells.
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực vật là nguồn cung cấp carbohydrate, protein và chất béo làm
thực phẩm. Hơn nữa, thực vật cũng là nguồn cung cấp phong phú các
hợp chất tự nhiên dùng làm dược phẩm, hóa chất nông nghiệp, hương
liệu... Những sản phẩm này được biết như là các chất trao đổi thứ cấp,
chúng được xem là sản phẩm của các phản ứng hóa học của thực vật
với môi trường hoặc là sự bảo vệ hóa học chống lại vi sinh vật và động
vật. Những nghiên cứu về các hợp chất thứ cấp có nguồn gốc thực vật
đã phát triển từ cuối những năm 50 của thế kỷ XX và đến nay có
khoảng hơn 80.000 hợp chất đã đuợc công bố. Việc khai thác nguồn
dược liệu tự nhiên từ thực vật đang trở thành một vấn đề quan trọng
mang tính toàn cầu và chúng ngày càng được thương mại hóa nhiều
hơn. Vấn đề đặt ra hiện nay là nơi sống tự nhiên của các loài cây thuốc
đang bị biến mất nhanh chóng do sự biến động của điều kiện môi
trường và địa lý, cũng như sự khai thác bừa bãi của con người. Điều
này buộc các nhà khoa học cần phải tính đến tiềm năng của kỹ thuật
nuôi cấy tế bào thực vật như một sự thay thế để cung cấp nguyên liệu
ổn định cho ngành công nghiệp sản xuất dược phẩm.
Nuôi cấy tế bào thực vật đã được quan tâm nghiên cứu từ những
năm 1950. Nhiều nghiên cứu cho thấy, nuôi cấy tế bào thực vật là một
phương thức hiệu quả trong sản xuất các hoạt chất sinh học hoặc các
chất chuyển hóa của chúng. Đến nay, người ta đã thành công trong sản
xuất rất nhiều loại hợp chất có giá trị theo phương thức này
như anthraquinone, vincristine, berberin, diosgenin, taxol,
ginsenoside…. Nghệ đen là loài thảo dược quý, không độc, có chứa
các chất như curcumin, terpenoid và tinh dầu. Curcumin của nghệ đen
có khả năng ức chế khối u; chống lại một số dạng ung thư ở chuột như
ung thư ruột kết, ung thư dạ dày, ung thư vú và ung thư buồng trứng;
curcumin cũng có tác dụng chống đông máu và hạ huyết áp;
2
curcuminoid và sesquiterpen là những chất có khả năng ức chế sự hình
thành TNF-α của đại thực bào đã được hoạt hóa, do đó có tác dụng
chống viêm nhiễm; curcumin còn là một chất chống oxy hóa có khả
năng bảo vệ tế bào. Tinh dầu nghệ đen có tác dụng kháng khuẩn và
kháng đột biến rất cao. Bên cạnh đó, polysaccharide của nghệ đen ức
chế hiệu quả sinh trưởng của các bướu thịt (sarcoma 180), ngăn ngừa
đột biến nhiễm sắc thể, có hoạt tính kích thích đại thực bào. Trong tự
nhiên, nghệ đen là loài nhân giống bằng thân rễ, phải mất một thời gian
dài để tạo củ nên hệ số nhân kém; năng suất thu hoạch thường thấp, đặc
biệt là phụ thuộc rất lớn vào điều kiện khí hậu, mùa vụ, chi phí nhân
công và vật tư sản xuất. Mặt khác, nghệ đen trong tự nhiên còn dễ mắc
các bệnh như thối củ và đốm lá. Vì vậy, rất khó có đủ nguồn nguyên
liệu dồi dào và ổn định để sản xuất lượng lớn các hoạt tính sinh học quý
của cây nghệ đen sử dụng trong bào chế dược phẩm.
Xuất phát từ những cơ sở trên, chúng tôi thực hiện đề tài:
“Nghiên cứu nuôi cấy tế bào cây nghệ đen (Curcuma zedoaria
Roscoe) và khảo sát khả năng tích lũy một số hợp chất có hoạt tính
sinh học của chúng”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu thiết lập các điều kiện và môi trường nuôi cấy
thích hợp để sản xuất nhanh sinh khối tế bào, đồng thời xác định
khả năng tích lũy và hoạt tính sinh học của một số hợp chất trong
tế bào cây nghệ đen nuôi cấy huyền phù.
3. Nội dung nghiên cứu
- Tạo callus từ bẹ lá của cây nghệ đen in vitro;
- Nuôi cấy huyền phù tế bào cây nghệ đen;
- Khảo sát sự tích lũy các hợp chất có hoạt tinh sinh học của tế bào;
- Đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của tinh dầu của tế bào.
4. Những đóng góp mới của luận án
- Đã tạo ra dòng tế bào callus (rắn và rời rạc) từ bẹ lá của cây
47
(22.33 mm) and finally E. coli (18.33 mm). Meanwhile, essential oil
derived from rhizome can inhibit the growth of B. Cereus; E. coli; S.
aureus (16 mm; 17.67 mm and 14 mm) respectively.
Table 3.18. The antibacterial ability of essential oil in Zedoary cells
D-d (mm)
Bacteria
Control Essential oil of cells
Rhizome essential
oil
B. cereus ATCC 11778 0 22.33b 16.00a
E. coli ATCC 25922 0 18.33
b 17.67a
S. aureus ATCC 6538 0 31.00
a 14.00a
Figure 3.14. Antibacterial ability of essential oil. A: E. coli ATCC 25922. B:
B. cereus ATCC 11778. C: S. aureus ATCC 6538. ĐC: control. TN: essential
oil of rhizome. TB: essential oil of cells
CONCLUSION AND RECOMMENDATION
CONCLUSION
1. The basic MS medium supplemented with 3% sucrose, 0.8%
agar; 0.5 mg/L BA and 0.5 mg/L 2,4-D was suitable to callus
induction from leaf-base of in vitro Zedoary. The yellow compact and
friable callus were most suitable for cell suspension culture.
2. The basic MS medium contained 3% sucrose, supplemented
with 0.5 mg/L BA and 1.5 mg/L 2,4-D; shaking speed of 120 rpm/min
46
Figure 3.13. Distribution of sesquiterpene. A: Accumulation of sesquiterpene in rhizome;
B: kinetics of sesquiterpene accumulation in suspension cells from day 2 to 18
3.5. Antibacterial activity of essential oil in Zedoary cells
Results performed in table 3.18 indicated that, essential oil
extracted from both cells and rhizome can depress growth E. coli, S.
aureus and B. cereus. Overall, essential oil collected from suspension
cells could be antibacterial (Figure 3.14). The essential oil from
culture cells depressed most to S. aureus (31 mm), then to B. cereus
3
nghệ đen in vitro thích hợp để nuôi cấy huyền phù, đồng thời xác định
một cách có hệ thống các điều kiện và môi trường nuôi cấy thích hợp
cho sự sinh trưởng nhanh và ổn định của tế bào nghệ đen nuôi cấy
huyền phù trong bình tam giác và trong hệ lên men 10 lít.
- Đã khảo sát sự tích lũy các hợp chất có hoạt tính sinh học như:
tinh dầu, curcummin, sesquiterpene và polysaccharide trong tế bào
nghệ đen nuôi cấy. Nghiên cứu đã xác định được hàm lượng và thời
điểm tích lũy cao nhất của các hợp chất này theo đường cong sinh
trưởng và đồng thời cho thấy có sự chuyển hóa sinh học các chất như
curcumin và sesquiterpene xảy ra trong nuôi cấy huyền phù tế bào cây
nghệ đen.
- Đã khảo sát được khả năng kháng khuẩn của tinh dầu tế bào cây
nghệ đen nuôi cấy in vitro và nhận thấy, tinh dầu của tế bào có khả
năng ức chế sinh trưởng một số loài vi sinh vật gây bệnh.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
5.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ cung cấp các dẫn liệu khoa học
mới, có tính hệ thống về nuôi cấy tế bào cây nghệ đen và khả năng tích
lũy một số hoạt chất sinh học của chúng; đồng thời là nguồn tài liệu
tham khảo hữu ích trong nghiên cứu, giảng dạy về nuôi cấy tế bào và
sản xuất các hoạt chất sinh học có giá trị cao từ nuôi cấy tế bào thực vật.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả của luận án sẽ là cơ sở khoa học để phát triển nuôi cấy tế
bào cây nghệ đen nhằm sản xuất nhanh sinh khối, cung cấp nguồn
nguyên liệu ổn định để chiết tách thu hồi các hợp chất thứ cấp dùng
làm dược liệu, góp phần bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
6. Cấu trúc của luận án
Luận án gồm 105 trang (kể cả tài liệu tham khảo) được chia thành
các phần: Phần Mở đầu có 4 trang; Chương 1: Tổng quan tài liệu, 32
trang; Chương 2: Đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu, 7
4
trang; Chương 3: Kết quả nghiên cứu và thảo luận, 36 trang; Phần Kết
luận và đề nghị, 2 trang; Các công trình đã công bố liên quan đến luận án:
1 trang, Tài liệu tham khảo: 23 trang với 193 tài liệu tham khảo bằng
tiếng Việt và tiếng Anh; Luân án có 18 bảng số liệu và 16 hình.
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Luận án đã tham khảo 17 tài liệu tiếng Việt và 189 tài liệu tiếng
Anh với các nội dung liên quan gồm: (1) Nuôi cấy tế bào thực vật; (2)
Sự tích lũy các hợp chất thứ cấp trong tế bào thực vật nuôi cấy in
vitro; (3) Giới thiệu về cây nghệ đen.
Thử nghiệm đầu tiên về nuôi cấy tế bào bên ngoài một cơ thể thực
vật hoàn chỉnh được công bố vào năm 1902 bởi Haberlandt - nhà Sinh
lý thực vật người Đức, người được biết đến như nhà sáng lập ra
phương pháp nuôi cấy tế bào thực vật. Những thử nghiệm đầu tiên
trong nuôi cấy tế bào đơn để sản xuất dược phẩm đã được tiến hành
trong những năm 1950 tại công ty Charles Pfizer. Đến nay, một thế kỷ
sau những nghiên cứu của Haberlandt, nhiều hợp chất thứ cấp đã được
sản xuất thương mại bằng con đường nuôi cấy tế bào thực vật.
Nuôi cấy tế bào thực vật được khởi đầu bằng việc hình thành các
tế bào không phân hóa, được gọi là callus. Nuôi cấy callus đạt được
bằng cách nuôi cấy các mẫu mô tách từ thực vật trên môi trường dinh
dưỡng cơ bản có chất làm rắn là agar. Nuôi cấy huyền phù tế bào
thường được khởi đầu bằng cách chuyển các khối callus vào nuôi cấy
trong môi trường lỏng được khuấy bởi máy lắc, quay hoặc màng lọc
xoay. Mô callus nuôi cấy nên là loại mô dễ vỡ vụn để có thể thiết lập
được dịch huyền phù tế bào với mức độ phân tán cao nhất. Nuôi cấy
huyền phù tế bào trong môi trường lỏng cung cấp một hệ thống duy
nhất cho những nghiên cứu chi tiết về sinh trưởng và sản xuất các chất
chuyển hóa. Trong nuôi cấy huyền phù tế bào thực vật cần thiết phải
45
For examples, peak 1 (retention time 4.7 min) had absorption of 6.05
mAU in rhizome but got just 2.55 mAU in suspension cells,
meanwhile, peak 4 (retention time 7.5 min) in suspension cells had
absorption of 7.33 mAU and 2.23 mAU in rhizome. Some peaks
appeared in rhizome (5-8) were absent or trace (< 1 mAU) in
suspension cells. However, in suspension cells, some new peaks
appeared (not numbered) that had retention time about 6.8; 7.8; 8.2
and 9.2 min and the absorption of 1.38-4.10; 5.62-7.54; 1.70-8.41 and
1.06-8.38 mAU respectively. These resultd indicated that many
biotransformation of sesquiterpene were occuring in process of cell
culture, producing different sesquiterpene types compared with the
rhizome control.
Table 3.17. Comparision of eluted peak heights (mAU) for rhizome control and
suspension cells of Zedoary at different culture times
Compound number/retention time (min) Culture
time
(day) 1/4.7 2/5.1 3/6.0 4/7.5 5/12.7 6/13.8 7/19.2 8/20.5 9/26.7
2 2.11 - 2.49 5.99 - trace trace trace -
4 1.93 - 2.23 5.76 - trace trace trace -
6 1.15 trace 2.81 3.17 - trace - - -
8 1.06 - 1.54 3.57 - - - - -
10 1.22 - 1.02 4.05 - trace trace - -
12 1.04 trace 2.14 3.29 - trace - trace -
14 2.55 1.59 - 7.33 - trace - trace -
16 1.58 - 3.82 4.04 - trace - - -
18 2.36 1.15 1.15 5.11 - trace - trace -
Rhizome 6.05 2.59 2.15 2.23 6.23 1.46 3.59 1.29 1.19
44
Figure 3.12. HPLC results of curcumin in Zedoary suspension cells from days 2 to18
3.4.4. Sesquiterpenes
Study showed that the appearance of separated peaks in rhizome
was more than that in suspension cells (Figure 3.13). Overall, peaks
had retention time related to sesquiterpene compounds (numbered 1-9)
in the rhizome and in suspension cells had different absorption
spectrums (mAU), particularly peaks numbered 1 and 4 (Table 3.17).
5
quan tâm đến các yếu tố sau: Môi trường nuôi cấy như các chất điều
hòa sinh trưởng, nguồn carbon và các điều kiện nuôi cấy như: cỡ mẫu
nuôi cấy ban đầu, sự khuấy trộn, sục khí…Trình tự của một quá trình
nâng cấp điển hình bắt đầu từ nuôi cấy tế bào trong các chai, lọ đến
bình tam giác nuôi cấy lắc có dung tích 1 L, sau đó đến hệ lên men
bằng thuỷ tinh từ 1-10 L, và sau đó nâng cấp đến hệ lên men bằng thép
không rỉ từ 30-150 L rồi đến 1000 L. Hệ lên men là một hệ thống nuôi
cấy tự động mà chức năng chính của nó là cải thiện kiểm soát môi
trường để đạt được các điều kiện tối ưu cho sinh trưởng của tế bào
và/hoặc hình thành sản phẩm.
Trong vài thập kỷ qua, những bằng chứng từ thực nghiệm và trong
thực tế cho thấy, các hợp chất thứ cấp ở thực vật có các chức năng cơ bản
sau: Bảo vệ cơ thể chống lại các loài động vật ăn cỏ; kháng nấm và vi
khuẩn; kháng virus... Các hợp chất hóa học này còn được dùng nhiều
trong dược phẩm, hóa chất nông nghiệp, thuốc nhuộm, gia vị, chất tạo
mùi, thuốc trừ sâu. Các hợp chất thứ cấp của thực vật có thể phân thành
ba nhóm chính đó là terpene, phenol và các hợp chất chứa nitrogen.
Nghiên cứu về khả năng sinh tổng hợp của các tế bào nuôi cấy đã
được tiến hành bởi các nhà khoa học thực vật và vi sinh vật ở nhiều
quốc gia. Hầu hết các ứng dụng nuôi cấy tế bào thực vật trong công
nghệ sinh học đều nhằm vào mục đích sản xuất các hợp chất thứ cấp.
Những thành tựu đạt được trong lĩnh vực nuôi cấy tế bào thực vật để
sản xuất các hợp chất dùng để chữa bệnh đã tạo ra khả năng có thể sản
xuất trên qui mô lớn các chất thuộc nhóm alkaloid, terpenoid, steroid,
saponin, phenol, flavonoid và các amino acid.
Ở nước ta, công nghệ nuôi cấy tế bào thực vật phát triển vào
những năm 1970 và đến nay đã đạt được một số thành công. Một trong
những kết quả nuôi cấy tế bào thành công nhất đó là nuôi cấy tế bào
cây sâm Ngọc Linh. Ngoài ra còn có một số nghiên cứu nuôi cấy tế
bào các loài cây thuốc khác như cây thông đỏ, cà gai leo, rau má, dừa
6
cạn… Nghệ đen là cây thảo dược có chứa các nhóm chất như tinh dầu
bao gồm các chất thuộc sesquiterpene và monosesquiterpene;
curcuminoid. Ngoài ra, nghệ đen còn chứa các chất như tinh bột, chất
dẻo và một số chất có vị đắng khác. Cây nghệ đen đã được con người
dùng trong bài thuốc Đông y cổ truyền để chữa bệnh. Nhiều nghiên
cứu cho thấy, các hợp chất như tinh dầu, curcumin, sesquiterpene.. của
nghệ đen có các hoạt tính sinh học quý như: kháng ung thư, bảo vệ
gan, kháng loét, kháng viêm, kháng khuẩn và kháng nấm.
Có một số công trình nghiên cứu về nhân giống in vitro ở cây
nghệ đen chẳng hạn như tái sinh chồi từ callus nghệ đen; nhân giống in
vitro cây nghệ đen từ chồi. Ngoài các nghiên cứu nhân giống in vitro
cây nghệ đen, một số kết quả bước đầu trong nuôi cấy callus và huyền
phù tế bào cây nghệ đen cũng đã được công bố. Cho đến nay, công
trình nghiên cứu nuôi cấy tế bào với khả năng tích lũy sinh khối cao
cũng như khảo sát sự tích lũy các hợp chất có hoạt tính học của tế bào
nghê đen nuôi cấy in vitro trong hệ lên men là rất hạn chế.
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tương nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là cây nghệ đen. Nguyên liệu nghiên cứu là
các tế bào callus được tạo từ bẹ lá của cây nghệ đen in vitro.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Nuôi cấy callus
Bẹ lá của cây nghệ đen in vitro được nuôi trên môi trường MS có
2% sucrose và 0,8% agar, bổ sung 0,5-4,0 mg/L 2,4-D và 0,5-4,0 mg/L
BA để tạo callus.
2.2.2. Nuôi cấy tế bào huyền phù
2.2.2.1. Nuôi cấy tế bào trong bình tam giác
Khoảng 2 g callus 2 tuần tuổi được chuyển vào bình tam giác 250
ml chứa 50 ml môi trường MS lỏng có 2% sucrose, bổ sung 0,5 mg/L
43
speak at 1.16% before gradually decreasing from day 16 to day 18
alongs to cell growth (Figure 3.9). Overall, concentration of curcumin
in culture cell with diferent culture time was higher than that in
rhizome (0.43%).
Bảng 3.16. Concentration of curcumin in Zedoary cells cultured in 10L bioreactor
Culture time
(day)
Retention time
(min)
Peak square
(mAU)
Curcumin
concentration (%)
2 2.09 1909 0.44g
4 1.98 2226 0.52e
6 2.05 2285 0.53e
8 2.00 2442 0.56e
10 1.97 4244 0.98b
12 1.99 4448 1.03b
14 2.07 5034 1.16a
16 1.99 3631 0.84c
18 2.07 2573 0.60d
Rhizome 2.06 1868 0.43g
Figure 3.10. HPLC result of standard curcumin Figure 3.11. HPLC result of rhizome
42
3.4.2. Total water soluble polysaccharide
Table 3.15 showed the concentration of total water soluble
polysaccharide (% dry quantity) from Zedoary cells at variety time. Overall,
concentration of polysaccharide increased from 2 to 10 and reached a peak at
6.55%, 1.4 time lower than that in Zedoary (9.46%) (p<0,05).
Table 3.15. Concentration of polysaccharide in Zedoary cells
Time (days) Concentration of polysaccharide (%)
2 1.73e
4 2.23d
6 3.53cd
8 5.15bc
10 6.55a
12 5,76b
14 4.53c
16 2.01d
18 1.60e
Rhizome 9.46g
3.4.3. Curcumin
Analysis results of HPLC were performed in Figure 3.10-3.12 and
Table 3.16. Standard curcumin has a retention time of 2.05 mins, one
another peak has a similar retention time was found in extractive
solution of rhizome (2.08 mins) and cells were cultured within
different time 2-18 days (1.97-2.09 mins). Besides, extractive solution
of natural Zedoary performed 2 other peaks. Of them, one peak had
retention time that was similar to the second peak of culture cell (1.79
min), the another peak had a retention time of 1.21 min. The extractive
solution of culture cell had the third peak with retention time of 1.6
minute. The disappearance of the third peak of 1.21 min (in extractive
solution of rhizome) in vitro cells can be due to biotransformation
happening in culture process.
Results in Table 3.16 showed that, the concentration of curcumin
(% dry weight) increased gradually from day 2 to day 14, reached
7
2,4-D và 0,5 mg/L BA, nuôi ở tốc độ lắc 100 vòng/phút để thiết lập nuôi
cấy huyền phù tế bào. Môi trường MS lỏng bổ sung nguồn carbon khác
nhau (sucrose, glucose và fructose) và các chất ĐHST BA và 2,4-D ở
dạng riêng rẽ hoặc tổ hợp, nuôi ở tốc độ lắc 120 vòng/phút để đánh giá
khả năng sinh trưởng của tế bào.
2.2.2.2. Nuôi cấy tế bào huyền phù trong hệ lên men
100 g sinh khối tế bào (10 ngày tuổi) thu từ nuôi cấy lắc trong bình
tam giác được đưa vào nuôi trong hệ lên men 14 L chứa 10 L môi
trường MS lỏng có 3% sucrose, bổ sung 1,5 mg/L 2,4-D và 0,5 mg/L
BA; với các điều kiện khác nhau như cỡ mẫu: 100-250 g, tốc độ khuấy:
100-200 vòng/phút và tốc độ sục khí: 1,5-3,5 L/phút. Sinh khối tế bào
được thu 2 ngày một lần trong suốt 18 ngày để khảo sát khả năng sinh
trưởng của chúng.
2.2.3. Xác định sinh trưởng của tế bào
Sinh khối tươi của tế bào thu được bằng cách lọc chân không dịch
huyền phù tế bào, sau đó rửa bằng nước cất để loại bỏ môi trường và
cân xác định khối lượng tươi.
Khối lượng khô của tế bào được xác định bằng cách sấy sinh khối
tươi trong tủ sấy ở 500C cho đến khi khối lượng không đổi và cân.
2.2.4. Định lượng tinh