Nhện đỏ nâu (Oligonychus coffeae Nietner) là loài gây hại phổ biến, làm giảm
năng suất, chất lượng chè búp. Hiện nay, người trồng chè chủ yếu là sử dụng thuốc
BVTV để phòng chống nhện đỏ nâu. Nhiều loại thuốc trước đây có hiệu lực cao đối
với nhện đỏ nâu, nay đã nhanh chóng giảm hiệu lực. Những hiểu biết về hiện trạng sử
dụng thuốc và tính kháng thuốc của nhện đỏ nâu trên cây chè là cơ sở khoa học để
xây dựng các giải pháp quản lý tính kháng thuốc của nhện đỏ nâu. Do đó, tiến hành
đề tài “Nghiên cứu tính kháng thuốc bảo vệ thực vật của nhện đỏ nâu Oligonychus
coffeae Nietner (Acarina: Tetranychidae) trên cây chè và biện pháp khắc phục ở miền
núi phía Bắc Việt Nam” là yêu cầu cấp thiết, có ý nghĩa thời sự
27 trang |
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 593 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Nghiên cứu tính kháng thuốc bảo vệ thực vật của nhện đỏ nâu oligonychus coffeae nietner trên cây chè và biện pháp khắc phục ở miền núi phía bắc Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
****************************
NGUYỄN MINH ĐỨC
NGHIÊN CỨU TÍNH KHÁNG THUỐC
BẢO VỆ THỰC VẬT CỦA NHỆN ĐỎ NÂU Oligonychus coffeae Nietner
(Acarina: Tetranychidae) TRÊN
CÂY CHÈ VÀ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC
Ở MIỀN NÚI PHÍA BẮC VIỆT NAM
Chuyên ngành: Bảo vệ thực vật
Mã số: 9 62 01 12
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NÔNG NGHIỆP
Hà Nội - 2019
Công trình được hoàn thành tại: Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Lê Văn Trịnh
2. TS. Nguyễn Thị Nhung
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Luận án tiến sĩ được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận án cấp Viện họp tại
Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam
Vào hồi giờ phút ngày tháng .. năm 2019
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
1. Thư viện Quốc gia Việt Nam
2. Thư viện Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam
3. Thư viện Viện Bảo vệ thực vật
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhện đỏ nâu (Oligonychus coffeae Nietner) là loài gây hại phổ biến, làm giảm
năng suất, chất lượng chè búp. Hiện nay, người trồng chè chủ yếu là sử dụng thuốc
BVTV để phòng chống nhện đỏ nâu. Nhiều loại thuốc trước đây có hiệu lực cao đối
với nhện đỏ nâu, nay đã nhanh chóng giảm hiệu lực. Những hiểu biết về hiện trạng sử
dụng thuốc và tính kháng thuốc của nhện đỏ nâu trên cây chè là cơ sở khoa học để
xây dựng các giải pháp quản lý tính kháng thuốc của nhện đỏ nâu. Do đó, tiến hành
đề tài “Nghiên cứu tính kháng thuốc bảo vệ thực vật của nhện đỏ nâu Oligonychus
coffeae Nietner (Acarina: Tetranychidae) trên cây chè và biện pháp khắc phục ở miền
núi phía Bắc Việt Nam” là yêu cầu cấp thiết, có ý nghĩa thời sự.
2. Mục đích, yêu cầu của đề tài
2.1. Mục đích
Nghiên cứu xác định mức độ kháng thuốc và tốc độ hình thành tính kháng
thuốc của nhện đỏ nâu với các nhóm thuốc đang được sử dụng phổ biến trong sản
xuất. Từ đó, đề xuất một số giải pháp quản lý tính kháng thuốc của nhện đỏ nâu hại
chè ở miền núi phía Bắc.
2.2. Yêu cầu
Đánh giá được thực trạng sử dụng thuốc BVTV trừ sâu hại và nhện đỏ nâu trên
chè ở Thái Nguyên, Phú Thọ. Xác định mức độ kháng thuốc và sự hình thành tính
kháng thuốc của nhện đỏ nâu đối với các thuốc trừ nhện đỏ nâu đang được dùng phổ
biến tại vùng chè Thái Nguyên, Phú Thọ. Đánh giá hiệu quả một số biện pháp quản lý
tính kháng thuốc của nhện đỏ nâu theo hướng quản lý tổng hợp trên cơ sở sử dụng
thuốc BVTV hợp lý.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học
Cung cấp các thông tin, dẫn liệu khoa học mới về mức độ phát sinh, chỉ số
kháng thuốc, sự hình thành tính kháng thuốc của nhện đỏ nâu đối với các nhóm thuốc
BVTV hiện đang được dùng phổ biến trên chè tại Thái Nguyên, Phú Thọ.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài làm cở sở khoa học xây dựng giải pháp quản lý tính
kháng thuốc của nhện đỏ nâu trong quản lý tổng hợp sinh vật hại trên cây chè, góp phần
sử dụng thuốc BVTV an toàn và bền vững trong sản xuất chè.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tính kháng thuốc của nhện đỏ nâu O. coffeae Nietner hại chè.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đánh giá thực trạng sử dụng thuốc BVTV trên cây chè tại Thái Nguyên, Phú
Thọ. Mức độ mẫn cảm, sự hình thành tính kháng thuốc của nhện đỏ nâu đối với một
số nhóm thuốc BVTV và một số biện pháp giảm thiểu tính kháng thuốc của nhện đỏ
nâu tại Thái Nguyên.
5. Những đóng góp mới của đề tài
- Lần đầu cung cấp các dẫn liệu khoa học một cách hệ thống về mức độ hình
2
thành tính kháng thuốc của nhện đỏ nâu trên chè đối với 11 hoạt chất thuốc BVTV
(Abamectin, Azadirachtin, Dimethoate, Emamectin benzoate, Fenpyroximate,
Fenpropathrin, Hexythiazox, Matrine, Propargite, Pyridaben, Rotenone) đang được
sử dụng phổ biến trên cây chè ở miền núi phía Bắc.
- Bổ sung dẫn liệu mới về hiệu quả của một số biện pháp hạn chế sự phát sinh
của nhện đỏ nâu và đề xuất biện pháp quản lý tính kháng thuốc của nhện đỏ nâu trên
cây chè.
6. Cấu trúc luận án
Luận án có 120 trang, gồm phần mở đầu, phần nội dung (3 chương), kết luận
và đề nghị với 36 bảng số liệu, 7 hình. Tham khảo 125 tài liệu, trong đó có 41 tài liệu
tiếng Việt, 82 tài liệu tiếng Anh, 2 tài liệu trên Internet.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Việc sử dụng thuốc BVTV trên cây chè rất không giống nhau ở các nước khác
nhau dẫn đến sự hình thành tính kháng thuốc ở nhện nhỏ nâu cũng rất khác nhau ở
các nước trồng chè. Các biện pháp quản lý tính kháng thuốc của nhện đỏ nâu trên cây
chè cũng sẽ khác nhau ở các nước trồng chè. Vì vậy, phải có những nghiên cứu về
tính kháng thuốc của nhện đỏ nâu ở từng điều kiện cụ thể.
1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
1.2.1. Nhện đỏ nâu, đặc điểm sinh học, sinh thái và quy luật phát sinh gây hại
Trong điều kiện phòng thí nghiệm ở miền Nam Ấn Độ, trên giống chè UPASI-
10 ở nhiệt độ 25 ± 2oC, ẩm độ 85 ± 5% thời gian ấu trùng tuổi 1 đến tuổi 3 của nhện
đỏ nâu trung bình là 8,10 ± 1,65 ngày. Thời gian sống của trưởng thành đực là 12,60
± 2,15 ngày, thời gian sống của trưởng thành cái là 24,20 ± 3,50 ngày. Tỷ lệ đực: cái
là 1:2,25. Sức đẻ trứng của trưởng thành cái là 120,80 ± 13,80 trứng/cái (Sudarmani,
2004). Nhện đỏ nâu ưa thích ánh sáng mặt trời, những cây chè không được che bóng
thường bị nhiễm nhện đỏ nâu nặng hơn (Das, 1959b). Ở miền Nam Ấn Độ, nhện đỏ
nâu xuất hiện quanh năm và thường gối lứa nhau. Quần thể nhện đỏ nâu đạt đỉnh cao
số lượng vào tháng 3 - 4 hàng năm. Nhiệt độ thấp, ẩm độ cao và mưa nặng hạt có ảnh
hưởng bất lợi đến quần thể nhện đỏ nâu (Sudarmani, 2004).
1.2.2. Thực trạng sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trừ nhện đỏ nâu trên cây chè
Người trồng chè ở Shizuoka (Nhật Bản) đã phun thuốc 16,9 - 21,6 lần/năm để
trừ sâu hại và 4,1 - 8,1 lần/năm để trừ bệnh (Takafuji and Amano, 2001). Các thuốc
Propagite, Fenpyroximate, Hexythiazox, Bifenthrin, Fenazaquin, Spiromesifen được
sử dụng để trừ nhện đỏ nâu hại chè (Anonymous, 2012; Babu and Muraleedharan,
2010;).
1.2.3. Tính kháng thuốc của nhện đỏ nâu hại chè
Việc sử dụng thuốc trừ nhện lặp đi lặp lại đã làm gia tăng sự gây hại trầm trọng
của nhện đỏ nâu đối với cây chè trong những năm qua. Sự giảm tính mẫn cảm của
nhện đỏ nâu đối với các nhóm thuốc trừ nhện có thể là một trong những nguyên nhân
làm tăng mật độ quần thể trên đồng ruộng (Roy et al., 2008; Sarker và
Mukhopadhyay, 2008; Shahoo et al., 2003). Ở Ấn Độ, đối với quần thể nhện đỏ nâu
3
ở Terai và Dooars, thuốc Ethion, Dicofol có giá trị LC50 >300 ppm; giá trị LC50 của
Propagite lần lượt là 46,246 và 97,110; các thuốc Fenazaquin và Fenpropathrin có giá
trị LC50 < 10 ppm (Roy et al., 2009). Ở Bắc Bengal (Ấn Độ) đã đánh giá tính kháng
thuốc của nhện đỏ nâu với 5 hoạt chất trừ nhện Ethion, Dicofol, Propargite,
Fenazaquin và Fenpropathrin. Kết quả cho thấy các quần thể nhện đỏ nâu ở vùng
Terai ít mẫn cảm hơn với cả 5 loại thuốc thí nghiệm so với các quần thể nhện đỏ nâu
thu từ vùng Dooars. Mức mẫn cảm với các thuốc trừ nhện sử dụng trừ nhện đỏ nâu ở
2 vùng này cho thấy sức ép chọn lọc quần thể kháng thuốc gây ra bởi các thuốc trừ
nhện (Roy et al., 2010a).
Theo Roy et al. (2012), trong phòng thí nghiệm giá trị LC50 của Ethion,
Dicofol, Profenofos, Propargite, Fenpropathrin, Fenazaquin và Abamectin đối với
nhện đỏ nâu ở Đông Bắc Ấn Độ lần lượt là 687,18 ppm; 534,04 ppm; 241,684 ppm;
90,256 ppm; 12,549 ppm; 4,319 ppm và 2,405 ppm. Trong các loại thuốc trừ nhện
nhỏ, Abamectin độc nhất và Ethion ít độc nhất. Giá trị LC50 giảm dần đối với thuốc
diệt trứng là Fenazaquin, tiếp đến là Profenofos, Propagite, Fenpropathrin, Ethion,
Dicofol và Abamectin.
Ở Terai (Ấn Độ), có giá trị LC50 đối với quần thể nhện đỏ nâu của nhóm thuốc
lân hữu cơ (Ethion) ở nơi sử dụng thường xuyên thuốc trừ nhện nhỏ đạt cao hơn 79 -
100 lần so với nơi không sử dụng thuốc trừ nhện nhỏ. Tương tự, giá trị LC50 của
nhóm cúc tổng hợp (Fenpropathrin) đối với quần thể nhện đỏ nâu ở nơi thường xuyên
sử dụng thuốc trừ nhện nhỏ đạt cao hơn 73 - 108 lần so với nơi không sử dụng thuốc
trừ nhện nhỏ (Soma et al., 2017).
1.2.4. Quản lý tính kháng thuốc của nhện đỏ nâu hại chè
Ở miền Nam Ấn Độ, Sudarmani (2004) ghi nhận tỷ lệ lá chè bị nhiễm nhện đỏ
nâu cao hơn ở những cánh đồng chè không có cây che bóng, do nhiệt độ cao và thời
gian chiếu sáng nhiều vào lá chè. Cây chè được che bóng phát triển thuận lợi, hạn chế
được nhện đỏ nâu.
Roy et al. (2010a) khuyến cáo sử dụng thuốc trừ trứng nhện đỏ nâu hại chè là
một trong các chiến lược quản lý tính kháng thuốc. Đối với trứng nhện đỏ nâu, giá trị
LC50 thấp nhất được xác định là của Fenazaquin, sau đó là của Profenofos,
Propargite, Fenpropathrin, Ethion, Dicofol, Abamectin và cuối cùng là của
Azadirachtin (Roy et al., 2010b).
Quy trình phòng trừ nhện đỏ nâu gồm: 1) Biện pháp được áp dụng (2 lần phun
thuốc với khoảng cách 15 ngày) khoảng thời gian tháng 12 và tháng 1, chè búp non
và chưa đốn; đốn phớt chè tháng 2; đốn chè đầu tháng 3; 2) Sau khi nhện gây hại lần
thứ hai phải theo khoảng thời gian 7 - 10 ngày (tháng 4 đến tháng 10: 7 ngày; tháng
11 đến tháng 3: 10 ngày); 3) Tránh áp dụng hóa chất lưu huỳnh trong khoảng thời
gian nắng nóng và khô hanh; 4) Thu gom lá chè trên bề mặt; 5) Phun thuốc cả mùa vụ
tại chỗ; 6) Đốn chè sau khi hái; 7) Không phun thuốc vào buổi trưa khi trời nắng; 8)
Tránh phối hợp thuốc trừ nhện với phân bón lá, thuốc trừ sâu và thuốc khác để giữ
độc tính thuốc trừ nhện và phòng trừ các phần gây hại của nhện đỏ nâu; 9) Nhổ bỏ
cây bị gây hại nặng; 10) Tưới phun ướt tầng trên, giữa và dưới bụi chè là bắt buộc để
giết chết quần thể nhện còn sót lại (Das, 1960; Gurusubramanian và Borthakur,
2005).
4
1.3. Tình hình nghiên cứu trong nước
1.3.1. Nhện đỏ nâu, đặc điểm sinh học, sinh thái và quy luật phát sinh gây hại
Nguyễn Văn Đĩnh (1994) ghi nhận cây chè có 3 loài nhện nhỏ hại là nhện đỏ
tươi, nhện đỏ nâu và nhện trắng. Trong đó, nhện đỏ nâu là loài hại quan trọng hơn cả.
Trưởng thành nhện đỏ nâu có 4 đôi chân, chân phân đốt có nhiều lông gai nhọn
rải rác. Cơ thể chia thành hai phần khá rõ rệt, phần thân có kích thước từ 0,25 - 0,31
mm x 0,17 - 0,24 mm; phần đầu hơi thon đều, kích thước 0,06 - 0,09 mm x 0,05 -
0,07 mm. Trứng có hình cầu dẹt, kích thước 0,09 - 0,12 mm, ngay chính giữa quả
trứng có một chiếc lông cong nhỏ dài và mảnh. Trứng mới đẻ có màu hồng nhạt, sau
chuyển màu nâu đỏ, lúc sắp nở có màu nâu sẫm. Nhện non mới nở có thân màu hồng
nhạt, kích thước 0,13 - 0,15 mm x 0,10 - 0,12 mm với 3 đôi chân (Nguyễn Văn Hùng
và Nguyễn Văn Tạo, 2006).
Trong phòng thí nghiệm (trung bình 27,5oC, 81,6% ẩm độ) thời gian vòng đời
của nhện đỏ nâu nuôi bằng giống Trung Du Xanh và PH1 lần lượt là 10,7 ngày và
10,86 ngày (Phạm Thị Mai, 2010). Theo Nguyễn Thái Thắng (2000), thời gian vòng
đời của nhện đỏ nâu từ 11,2 đến 12,8 ngày tùy theo điều kiện môi trường nhất là nhiệt
độ. Mỗi trưởng thành cái có thể đẻ được 79 trứng, sức đẻ trứng theo ngày cao nhất
thường quan sát được trong vòng 5 - 10 ngày đầu sau khi đẻ trứng. Thời gian đẻ
trứng kéo dài 20 ngày. Ở 30oC, thời gian vòng đời rút ngắn còn 11,2 ngày so với 12,8
ngày ở 25oC. Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Khắc Tiến (1994) xác định nhện đỏ
nâu thường có 2 đợt phát sinh rộ trong năm: đợt 1 trong thời gian tháng 2 - 5 và đợt 2
trong thời gian tháng 9 - 11.
1.3.2. Thực trạng sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trừ nhện đỏ nâu trên cây chè
Số lần phun thuốc ở các điểm trồng chè trọng điểm của Ba Vì là 9 - 16
lần/năm, tỷ lệ người phun thuốc định kỳ còn cao, một số điểm lên đến trên 75% và
hầu hết là phun thuốc không theo nguyên tắc 4 đúng (Nguyễn Thị Bích Thủy, 2009).
Phỏng vấn nông dân ở vùng chè tại Thái Nguyên từ năm 2005- 2006 ghi nhận có tới
28,8 - 33,3% số người được hỏi phun dưới 16 lần/năm và 60,0 - 66,7% số người được
hỏi phun 16 - 20 lần/năm (Nguyễn Văn Toàn và Phạm Văn Lầm, 2014).
1.3.3. Tính kháng thuốc của nhện đỏ nâu hại chè
Tính kháng thuốc của nhện đỏ nâu chưa được nghiên cứu ở Việt Nam, mặc dù
có sự ghi nhận sự giảm hoặc không có hiệu lực đối với nhện đỏ nâu của một số thuốc
và sự phát triển mạnh hơn trước của nhện đỏ nâu (Nguyễn Văn Hùng và Nguyễn Văn
Tạo, 2006).
1.3.4. Quản lý tính kháng thuốc của nhện đỏ nâu hại chè
Chưa có nghiên cứu chuyên sâu về tính kháng thuốc của nhện đỏ nâu trên chè
ở Việt Nam. Có một số nghiên cứu biện pháp phòng chống nhện đỏ nâu trên chè
(Nguyễn Văn Đĩnh, 1994; Lương Thị Huyền, 2017; Nguyễn Trần Oánh, 2012;
Nguyễn Thái Thắng, 2000; Nguyễn Thị Thu và cs., 2016; Vũ Thị Thương và cs.,
2015;).
5
CHƯƠNG 2
VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Các nghiên cứu trong phòng, nhà lưới được tiến hành tại Viện Bảo vệ thực vật.
Các nghiên cứu ngoài đồng được thực hiện tại Thái Nguyên, Phú Thọ. Thời gian thực
hiện từ 2014 - 2018.
2.2. Vật liệu nghiên cứu
Các loại thuốc BVTV các giống chè, trang thiết bị phục vụ thí nghiệm trong
phòng và trên nương chè.
2.3. Nội dung nghiên cứu
- Điều tra đánh giá thực trạng sử dụng thuốc BVTV để phòng trừ nhện đỏ nâu
trên cây chè tại 2 tỉnh Thái Nguyên, Phú Thọ.
- Nghiên cứu xác định mức độ kháng thuốc của nhện đỏ nâu đối với một số
loại thuốc trừ nhện thường sử dụng trong sản xuất chè.
- Đánh giá tốc độ phát triển tính kháng thuốc, khả năng kháng chéo của nhện
đỏ nâu đối với một số thuốc trừ nhện thường sử dụng.
- Nghiên cứu một số giải pháp quản lý tính kháng thuốc của nhện đỏ nâu hại
chè theo hướng tổng hợp.
- Xây dựng mô hình và đề xuất giải pháp quản lý tính kháng thuốc của nhện đỏ
nâu theo hướng tổng hợp.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
Việc sử dụng thuốc BVTV chè tại Thái Nguyên, Phú Thọ được điều tra theo
phương pháp chung (Đào Trọng Ánh, 2002).
Nhân nuôi nòi nhện đỏ nâu mẫn cảm từ nhện đỏ nâu thu ở nương chè theo
phương pháp Helle và Sabelis (1985). Xác định mức độ kháng thuốc và khả năng
kháng chéo của nhện đỏ nâu theo phương pháp của IRAC (2009), Sato et al. (2005).
Điều tra mật độ nhện đỏ nâu và hiệu quả của biện pháp canh tác đối với nhện
đỏ nâu được thực hiện theo QCVN 01-118 của Bộ Nông nghiệp và PTNT (2012),
Sudarmani (2004), Nguyễn Văn Hùng và Nguyễn Văn Tạo (2006).
Điều tra thành phần thiên địch trên cây chè theo phương pháp của Phạm Văn
Lầm (1997). Đánh giá hiệu quả của thuốc đối với nhện đỏ nâu theo phương pháp của
Kumari et al. (2012), Knight et al. (1990).
Chọn thuốc luân phiên trong quản lý tính kháng thuốc của nhện đỏ nâu theo Lê
Trường và cs. (2005), Nguyễn Trần Oánh (2012).
Xây dựng mô hình, đề xuất giải pháp quản lý tính kháng thuốc của nhện đỏ nâu
theo hướng tổng hợp được dựa vào kết quả nghiên cứu của đề tài và qui trình quản lý
cây chè tổng hợp (Nguyễn Văn Hùng và Nguyễn Văn Tạo, 2006).
2.5. Phương pháp tính toán và xử lý số liệu
Hiệu lực của các thuốc đối với nhện đỏ nâu được tính theo công thức Abbott
(1925), Sarmah et al. (1999), Henderson-Tilton (1955). Giá trị LC50 được tính bằng
chương trình Probit của Finney (1971). Chỉ số kháng thuốc (Ri) được xác định theo
FAO (1980). Số liệu được xử lý bằng chương trình IRRISTAT 5.0.
6
CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Thực trạng sử dụng thuốc bảo vệ thực vật để phòng trừ nhện đỏ nâu trên
cây chè tại 2 tỉnh Thái Nguyên và Phú Thọ
3.1.1. Thành phần côn trùng, nhện nhỏ hại cây chè tại Thái Nguyên, Phú Thọ
3.1.1.1. Côn trùng và nhện nhỏ hại chính trên cây chè qua phỏng vấn
Tại 2 vùng nghiên cứu, tầm quan trọng của rầy xanh hại chè và bọ xít muỗi hại
chè được đánh giá khá tương đồng nhau. Tỷ lệ người trồng chè coi rầy xanh hại chè
là quan trọng ở Thái Nguyên, Phú Thọ tương ứng là 99,8% và 97,1%. Chỉ tiêu này
đối với bọ xít muỗi hại chè tương ứng là 77,1% và 70,9%. Nhện đỏ nâu được coi là
quan trọng ở Thái Nguyên đạt tỷ lệ khá cao (trung bình là 81,0%), cao hơn hẳn so với
ở Phú Thọ (trung bình chỉ là 67,3%).
3.1.1.2. Thành phần côn trùng, nhện nhỏ hại cây chè qua điều tra thực địa
Điều tra thực địa trong năm 2014 đã phát hiện được 13 loài côn trùng và nhện
nhỏ hại cây chè ở Thái Nguyên, Phú Thọ. Các loài rất phổ biến (có tần suất bắt gặp
đạt trên 50%) ở tỉnh Thái Nguyên gồm rầy xanh hại chè, bọ xít muỗi chè, nhện đỏ
nâu và ở tỉnh Phú Thọ chỉ có bọ xít muỗi và nhện đỏ nâu.
3.1.2. Thực trạng sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trên cây chè
3.1.2.1. Số lần sử dụng thuốc trên cây chè trong một năm
Năm 2014, phỏng vấn tại xã Hòa Bình, La Bằng và Phấn Mễ (Thái Nguyên)
ghi nhận người trồng chè trong một năm đã phun thuốc 14,4 lần (12,37 - 16,89 lần).
Ở Phú Thọ, phỏng vấn tại xã Phú Hộ, Tiên Phú và Võ Miếu cho thấy người trồng chè
ở tỉnh này phun ít thuốc hơn người trồng chè ở tỉnh Thái Nguyên, trong một năm chỉ
phun thuốc trung bình 12,0 lần/năm (9,82 - 14,16 lần).
3.1.2.2. Nồng độ, liều lượng thuốc sử dụng
Người trồng chè ở Thái Nguyên, Phú Thọ áp dụng đúng nồng độ, liều lượng
thuốc theo khuyến cáo đạt tỷ lệ khá cao, tương ứng đạt 71,27% và 78,15%. Ở Thái
Nguyên, số người trồng chè sử dụng nồng độ, liều lượng thuốc BVTV tăng gấp 2 - 3
lần chiếm tỷ lệ 8,39% người được hỏi. Chỉ tiêu này ở Phú Thọ chiếm tỷ lệ 5,68%
người được hỏi. Số người trồng chè sử dụng nồng độ, liều lượng thuốc tăng hơn
khuyến cáo ở Thái Nguyên đạt cao hơn ở Phú Thọ.
Bảng 3.4. Nồng độ, liều lượng thuốc được người trồng chè sử dụng
trong năm 2014
Sử dụng nồng độ, liều lượng so với
khuyến cáo (lần)
Tỷ lệ người trồng chè áp dụng (%)
Thái Nguyên1 Phú Thọ2
Theo khuyến cáo 71,27 78,15
Tăng > 1 đến 2 19,38 15,74
Tăng > 2 đến 3 8,39 5,68
Tăng > 3 0,96 0,43
Ghi chú:
1. Điều tra tại các xã: Hòa Bình (Đồng Hỷ); La Bằng (Đại Từ); Phấn Mễ (Phú
Lương)
2. Điều tra tại xã Phú Hộ (Thị xã Phú Thọ); Tiên Phú (Phù Ninh); Võ Miếu
(Thanh Sơn).
7
3.1.2.3. Chủng loại thuốc bảo vệ thực vật được sử dụng
Hoạt chất Abamectin và Emamectin benzoate (nhóm Avermectin) được sử
dụng phổ biến nhất để phòng trừ sâu hại trên chè ở các điểm điều tra. Tỷ lệ hộ nông
dân trồng chè sử dụng hoạt chất Abamectin đạt 21,32% tại Thái Nguyên và ở Phú
Thọ là 26,93%. Tỷ lệ hộ sử dụng hoạt chất Emamectin benzoate tại 2 tỉnh này tương
ứng là 10,19% và 18,15%. Các hoạt chất còn lại khác có tỷ lệ hộ nông dân sử dụng
đạt rất thấp, chỉ là 0,14 - 6,34% ở Thái Nguyên và 0,02 - 5,16% ở Phú Thọ. Thuốc
BVTV hỗn hợp được sử dụng nhiều nhất trên cây chè ở Thái Nguyên là hỗn hợp
Abamectin với Emamectin benzoate (tỷ lệ hộ sử dụng là 3,67%) và thuốc BVTV hỗn
hợp được sử dụng nhiều nhất trên cây chè ở Phú Thọ là hỗn hợp Fenitrothion với
Trichlorfon (tỷ lệ hộ sử dụng là 5,16%).
Bảng 3.7. Các thuốc BVTV đơn hoạt chất được sử dụng để trừ nhện đỏ nâu trên
cây chè năm 2014
Nhóm thuốc
Hoạt chất được sử dụng
Nhóm
độc*
Tỷ lệ hộ sử dụng (%)
Thái
Nguyên1
Phú Thọ2
Avermectin
Abamectin II 19,16 26,37
Emamectin benzoate II 8,45 15,02
Điều hòa sinh
trưởng
Hexythiazox III 3,67 2,78
Este sulfite Propargite III 10,18 8,67
Focmamidin Diafenthiuron III 4,49 -
Lân hữu cơ Dimethoate II 4,24 -
Pyrazol Fenpyroximate II 6,30 9,47
Pyrethroid Acrinathrin III 1,16 5,54
Pyridazinon Pyridaben III 5,41 3,28
Thuốc thảo mộc
Azadirachtin IV 3,51 7,27
Matrine III 3,39 4,41
Thuốc vi sinh vật
B. thuringiensis var.
kurstaki
III 0,13 -
B. thuringiensis var.
T36
III 0,25 -
Triazapentadiene Amitraz III 2,78 -
Ghi chú: *: Phân nhóm độc theo WHO, - : Người trồng chè không sử dụng
1. Điều tra tại các xã: Hòa Bình (Đồng Hỷ); La Bằng (Đại Từ); Phấn Mễ (Phú
Lương)
2. Điều tra tại xã Phú Hộ (Thị xã Phú Thọ); Tiên Phú (Phù Ninh); Võ Miếu
(Thanh Sơn).
Hoạt chất Abamectin được sử dụng nhiều nhất để trừ nhện đỏ nâu trên chè. Tỷ
lệ hộ nông dân sử dụng hoạt chất này để trừ nhện đỏ nâu đạt 19,16% ở Thái Nguyên
và 26,37% ở Phú Thọ. Đứng th