Theo số liệu mới nhất của Hiệp hội đái tháo đường Mỹ năm
2014, bệnh võng mạc đái tháo đường là nguyên nhân gây mù
đứng đầu ở người lớn từ 20 đến 74 tuổi. Tỷ lệ người mắc bệnh
đái tháo đường trên thế giới cũng đang tăng trên toàn thế giới
đồng nghĩa với việc bệnh võng mạc đái tháo đường sẽ vẫn tiếp
tục là nguyên nhân gây giảm thị lực và mù lòa quan trọng trong
những năm tới. Trong đó, phù hoàng điểm đái tháo đường là
nguyên nhân gây giảm thị lực chủ yếu ở bệnh nhân bị võng mạc
đái tháo đường. Khi phù đã lan vào trung tâm hoàng điểm thì
nguy cơ mất thị lực còn tăng cao hơn nữa. Nguy cơ mất thị lực
trầm trọng (mất 3 hàng thị lực trở lên) sau 3 năm lên tới 33%.
Trong y văn thế giới gần đây, Bevacizumab cũng đã được
chứng minh có hiệu quả không kém Ranibizumab là thuốc antiVEGF tiêu chuẩn trong điều trị phù hoàng điểm đái tháo đường
về kết quả thị lực. Một số thử nghiệm lâm sàng sử dụng
Bevacizumab trong điều trị phù hoàng điểm đái tháo đường đều
cho kết quả thị lực đáng khích lệ. Hiện nay, đa số các thử nghiệm
lâm sàng ngẫu nhiên trên thế giới đều sử dụng phác đồ tiêm
thuốc cố định (fixed dosing) mà không phải là khi cần thiết PRN.
Tuy nhiên, ngay cả ở những nước đã phát triển việc điều trị cho
bệnh nhân theo phác đồ tiêm thuốc cố định là không thể thực
hiện được trong thực hành lâm sàng hàng ngày do đòi hỏi sự hợp
tác tuyệt đối của bệnh nhân, gánh nặng về nhân lực đối với nhân
viên y tế và chi phí quá cao. Mặt khác, điều trị theo phác đồ PRN
theo dõi mỗi tháng cho kết quả không khác biệt so với nhóm
tiêm thuốc cố định
28 trang |
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 525 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Nghiên cứu ứng dụng tiêm Bevacizumab vào buồng dịch kính trong điều trị phù hoàng điểm đái tháo đường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN NHƯ QUÂN
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG TIÊM
BEVACIZUMAB VÀO BUỒNG DỊCH KÍNH
TRONG ĐIỀU TRỊ
PHÙ HOÀNG ĐIỂM ĐÁI THÁO ĐƯỜNG
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
TP. Hồ Chí Minh - 2019
Công trình được hoàn thành tại:
Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn khoa học:
(Ghi rõ họ tên, chức danh khoa học, học vị)
Phản biện 1:
Phản biện 2
Phản biện 3:
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp
trường
họp tại Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
vào hồi giờ ngày tháng năm
Có thể tìm hiểu Luận án tại thư viện:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Khoa học Tổng hợp TP. HCM
- Thư viện Đại học Y Dược TP. HCM
1
GIỚI THIỆU LUẬN ÁN
1. Lý do và tính cần thiết của nghiên cứu
Theo số liệu mới nhất của Hiệp hội đái tháo đường Mỹ năm
2014, bệnh võng mạc đái tháo đường là nguyên nhân gây mù
đứng đầu ở người lớn từ 20 đến 74 tuổi. Tỷ lệ người mắc bệnh
đái tháo đường trên thế giới cũng đang tăng trên toàn thế giới
đồng nghĩa với việc bệnh võng mạc đái tháo đường sẽ vẫn tiếp
tục là nguyên nhân gây giảm thị lực và mù lòa quan trọng trong
những năm tới. Trong đó, phù hoàng điểm đái tháo đường là
nguyên nhân gây giảm thị lực chủ yếu ở bệnh nhân bị võng mạc
đái tháo đường. Khi phù đã lan vào trung tâm hoàng điểm thì
nguy cơ mất thị lực còn tăng cao hơn nữa. Nguy cơ mất thị lực
trầm trọng (mất 3 hàng thị lực trở lên) sau 3 năm lên tới 33%.
Trong y văn thế giới gần đây, Bevacizumab cũng đã được
chứng minh có hiệu quả không kém Ranibizumab là thuốc anti-
VEGF tiêu chuẩn trong điều trị phù hoàng điểm đái tháo đường
về kết quả thị lực. Một số thử nghiệm lâm sàng sử dụng
Bevacizumab trong điều trị phù hoàng điểm đái tháo đường đều
cho kết quả thị lực đáng khích lệ. Hiện nay, đa số các thử nghiệm
lâm sàng ngẫu nhiên trên thế giới đều sử dụng phác đồ tiêm
thuốc cố định (fixed dosing) mà không phải là khi cần thiết PRN.
Tuy nhiên, ngay cả ở những nước đã phát triển việc điều trị cho
bệnh nhân theo phác đồ tiêm thuốc cố định là không thể thực
hiện được trong thực hành lâm sàng hàng ngày do đòi hỏi sự hợp
tác tuyệt đối của bệnh nhân, gánh nặng về nhân lực đối với nhân
viên y tế và chi phí quá cao. Mặt khác, điều trị theo phác đồ PRN
theo dõi mỗi tháng cho kết quả không khác biệt so với nhóm
tiêm thuốc cố định. Trong thực hành lâm sàng tại Việt Nam, dựa
2
trên những kết quả vượt trội của anti-VEGF so với laser quang
đông trong điều trị phù hoàng điểm đái tháo đường theo y văn
thế giới, đa số các bác sỹ dịch kính – võng mạc sử dụng phác đồ
Bevacizumab PRN thay thế dần điều trị laser quang đông. Tuy
nhiên, dữ liệu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên để hỗ trợ cho
phác đồ Bevacizumab PRN tại Việt Nam còn chưa được công
bố.
Như vậy, việc nghiên cứu hiệu quả điều trị của tiêm dịch
kính Bevacizumab PRN vốn đang được coi là một phương pháp
điều trị mới hiện nay so sánh với laser quang đông vốn là điều
trị tiêu chuẩn vàng trong phù hoàng điểm đái tháo đường là vô
cùng cần thiết , thậm chí là một yêu cầu cấp bách, góp phần vào
việc xây dựng phác đồ điều trị phù hoàng điểm đái tháo đường
theo y học chứng cứ hiện đại.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- So sánh hiệu quả điều trị phù hoàng điểm đái tháo đường giữa
tiêm nội nhãn Bevacizumab khi cần thiết và Laser quang đông
- Đánh giá những biến cố tại chỗ và toàn thân xảy ra trong quá
trình điều trị với tiêm nội nhãn Bevacizumab.
3. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
- Bệnh nhân từ 18 tuổi trở lên có phù hoàng điểm do đái tháo
đường Típ 2 tới khám tại Bệnh viện Mắt TP. Hồ Chí Minh.
- Nghiên cứu lâm sàng tiến cứu có nhóm chứng
4. Những đóng góp mới của nghiên cứu về mặt lý luận và
thực tiễn
Điều trị bệnh lý võng mạc nói chung và điều trị phù hoàng
điểm đái tháo đường nói riêng là mối quan tâm của các nhà nhãn
khoa và xã hội bởi vì đây là một trong những nguyên nhân hàng
3
đầu gây mù ở lứa tuổi từ 24 đến 74. Trước đây điều trị với laser
quang đông khu trú/ lưới là tiêu chuẩn thường quy. Song, qua 5
thập kỷ, kết quả điều trị còn hạn chế mặc dù đã có nhiều cải tiến
về mặt công nghệ và kỹ thuật. Gần đây, vai trò của VEGF trong
phù hoàng điểm đái tháo đường được khẳng định và từ đó các
chất anti-VEGF được nghiên cứu và ứng dụng trong điều trị
trong đó có Bevacizumab
Với lợi thế giá thành thấp, Bevacizumab được sử dụng phổ
biến trong điều trị nhiều bệnh lý khác và phù hợp với hoàn cảnh
thực tế tại Việt Nam. Đây là một nghiên cứu nghiêm túc và toàn
diện để đánh giá khách quan, khoa học, làm cơ sở để ứng dụng
rộng rãi Bevacizumab trong bệnh lý võng mạc nói chung và phù
hoàng điểm do đái tháo đường nói riêng trên thực tế lâm sàng.
5. Bố cục của luận án
Luận án bao gồm các phần: Đặt vấn đề, Tổng quan tài liệu,
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu, Kết quả, Bàn luận, Kết
luận và Kiến nghị
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Khái niệm phù hoàng điểm đái tháo đường
1.1.1 Định nghĩa
Phù hoàng điểm đái tháo đường là sự tích tụ dịch ngoại bào
ở lớp rối ngoài (lớp Henle) và/hoặc lớp nhân trong của võng mạc
có nguồn gốc từ dịch thoát mạch ở bệnh nhân đái tháo đường.
Những rối loạn phức tạp về sinh hóa trong bệnh đái tháo đường
dẫn tới những biến đổi về cấu trúc và tổn thương hàng rào máu
võng mạc gây ra hiện tượng thoát mạch nói trên.
4
1.1.2 Các yếu tố nguy cơ
Tăng đường huyết, tăng huyết áp, tăng lipid máu, bệnh thận
đái tháo đường, thời gian mắc bệnh, thai kỳ, phẫu thuật mắt.
Trong đó thời gian mắc bệnh là quan trọng nhất.
1.2 Vai trò của VEGF trong phù hoàng điểm đái tháo đường
1.2.1 Cấu tạo và đặc tính sinh học của VEGF
Yếu tố tăng sinh nội mô mạch máu (VEGF) là một
glycoprotein đối xứng có trọng lượng phân tử 40kDa. Đây là một
protein có khả năng thúc đẩy tế bào nôi mô tăng trưởng và phân
bào thành dạng ống tạo điều kiện cho hiện tượng tạo tân
mạch.VEGF còn là một yếu tố gây tăng tính thấm mạnh do nó
gây hiện tượng rò rỉ dịch qua thành mạch. Người ta đã chứng
minh được rằng hiện tượng tăng tính thấm nói trên của VEGF
đóng vai trò quan trọng trong quá trình viêm và những tình trạng
bệnh lý khác. VEGF còn mở ra các liên kết chặt giữa các tế bào
nội mô ở một số mao mạch thông qua tăng hoạt động vận chuyển
Ca2+ vào tế bào.
1.2.2 VEGF và bệnh võng mạc đái tháo đường
VEGF được sản xuất khi có hiện tượng thiếu máu. Người ta
đo nồng độ VEGF trong mô nhãn cầu ở những bệnh nhân bị đái
tháo đường thấy cao hơn ở người không bị đái tháo đường.
Chính thực tiễn này đã đặt ra câu hỏi về vai trò của VEGF trong
bệnh võng mạc đái tháo đường. Rất nhiều nghiên cứu tiền lâm
sàng đã chỉ ra vai trò chủ đạo của VEGF trong hiện tượng tăng
tính thấm trong phù hoàng điểm do đái tháo đường và tăng sinh
mạch máu trong bệnh võng mạc đái tháo đường tăng sinh. Mô
hình trên động vật của bệnh võng mạc đái tháo đường không
tăng sinh từ thập kỷ trước đã chứng tỏ có sự tăng nồng độ của
5
VEGF trong võng mạc và tăng hoạt tính thụ thể VEGFR2. Người
ta cũng nhận thấy những bệnh nhân võng mạc đái tháo đường
tăng sinh có nồng độ VEGF trong dịch kính tăng cao và nồng độ
này giảm đi đáng kể sau khi được làm laser quang đông võng
mạc. Ngoài ra, tiêm VEGF vào buồng dịch kính đã được chứng
minh là gây tân mạch mống mắt ở linh trưởng. Những nghiên
cứu nói trên đã cung cấp những dữ liệu tiền lâm sàng cho những
nghiên cứu sử dụng anti-VEGF trong bệnh võng mạc đái tháo
đường sau này. Ngày nay, mối liên quan giữa hiện tượng viêm
và bệnh võng mạc đái tháo đường đã được công nhận và chính
VEGF đã được xác định là một yếu tố trung gian gây viêm quan
trọng. Ngoài ra, VEGF tăng hoạt động các tế bào bạch cầu, tăng
số lượng tế bào bạch cầu trong mô võng mạc ở động vật bị đái
tháo đường.
1.3 Tại sao chọn sử dụng Bevacizumab
Có 3 loại anti-VEGF đang được sử dụng rộng rãi để điều trị
bệnh võng mạc đái tháo đường hiện nay là Bevacizumab,
Ranibizumab và Aflibercept. Theo nghiên cứu Protocol-T của
DRCR.NET kết quả điều trị của Bevacizumab sử dụng phác đồ
mỗi tháng không thua kém các thuốc kể trên ở thời điểm 1 năm.
Mặc dù hiện nay vẫn chưa có những phân tích giá thành-
hiệu quả qui mô trong trường hợp điều trị phù hoàng điểm đái
tháo đường nhưng chúng ta cũng có thể hình dung được khả
năng giảm được gánh nặng về chi phí điều trị cho bệnh nhân và
ngành y tế khi sử dụng Bevacizumab. Đặc biệt trong bối cảnh số
lượng người bị đái tháo đường ngày càng nhiều kéo theo số
lượng người bị phù hoàng điểm đái tháo đường ngày càng tăng
cao rõ rệt.
6
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Đối tượng nghiên cứu
2.1.1 Dân số mục tiêu
Tất cả những bệnh nhân từ 18 tuổi trở lên có phù hoàng điểm
do đái tháo đường Típ 2 đang sinh sống tại Việt Nam.
2.1.2 Dân số chọn mẫu
Bệnh nhân từ 18 tuổi trở lên có phù hoàng điểm do đái tháo
đường Típ 2 tới khám tại Bệnh viện Mắt TP. Hồ Chí Minh. Thời
gian nhận bệnh nhân vào nghiên cứu là từ ngày 1 tháng 12 năm
2011 đến khi đủ mẫu nghiên cứu.
2.1.3 Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân
Tiêu chuẩn mắt nghiên cứu
• Thị lực chỉnh kính tối đa theo bảng ETDRS≥ 19 (20/400)
và ≤ 80 chữ (20/25).
• Phù hoàng điểm đái tháo đường có ý nghĩa trên lâm sàng
sử dụng kính SuperField® được xác nhận bởi OCT với độ
dầy võng mạc trung tâm > 225 μm.
• Chưa được điều trị phù hoàng điểm đái tháo đường với bất
cứ phương pháp điều trị nào.
• Cả hai mắt của bệnh nhân cùng được thu nhận vào nghiên
cứu khi và chỉ khi cả hai mắt thỏa đầy đủ tiêu chuẩn thu
nhận và loại trừ vào trước thời điểm được phân nhóm ngẫu
nhiên. Khi đó, mắt phải sẽ được phân nhóm điều trị ngẫu
nhiên và mắt trái sẽ vào nhóm điều trị còn lại.
Tiêu chuẩn loại trừ:
• Viêm nhiễm hoạt tính ở mắt hoặc quanh mắt
• Glôcôm không được kiểm soát
7
• Tiền sử viêm màng bồ đào, Bệnh nhân chỉ còn một mắt.
• Dùng corticosteroid tại chỗ ở mắt hay quanh mắt bao gồm
tiêm dưới bao tenon và thuốc cấy implant
2.2 Phương pháp nghiên cứu
2.2.1 Thiết kế nghiên cứu:
Thử nghiệm lâm sàng tiến cứu, có nhóm chứng.
2.2.2 Cỡ mẫu
Tối thiểu mỗi nhóm cần 35 mắt.
2.2.3 Nội dung nghiên cứu
So sánh giữa hai Bevacizumab PRN và Laser quang đông :
• Xác suất thành công của điều trị theo thời gian (Kaplan
Meier và hồi qui logistic)
• Mức tăng thị lực và mức giảm CRT vào các thời điểm 3, 6
và 12 tháng.
• Tỷ lệ mắt tăng thị lực từ 5, 10 và 15 chữ trở lên; tỷ lệ mất
thị lực trầm trọng từ 15 chữ trở lên; tỷ lệ mắt có thị lực từ
20/40 trở lên vào thời điểm 12 tháng.
Phân tích dưới nhóm (Subgroup analysis)
• Các yếu tố ảnh hưởng đến thị lực 12 tháng ở mỗi nhóm.
• Ghi nhận các biến cố bất lợi tại chỗ và toàn thân của hai
nhóm sau12 tháng theo dõi và điều trị.
2.3 Phương tiện nghiên cứu
• Máy laser quang đông Argon Zeiss Visulas 532s
• Thuốc tiêm tĩnh mạch Bevacizumab 25mg/ml (Avastin,
Genentech Inc., San Francisco, California, USA)
8
Chương 3: KẾT QUẢ
3.1 Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Bảng 3.1 Các biến số nền trên bệnh nhân
Biến số Trị số
Tổng số bệnh nhân 79
Giới nữ: n (%) 41 (51,9)
Tuổi (năm): TB ± ĐLC (min-max) 53,72 ± 9,96 (32-77)
Thời gian phát hiện ĐTĐ (năm): TB
± ĐLC (min-max)
8,92 ± 4,10 (2-20)
BMI kg/m2: n (%)
< 19: gầy
19 – 22,9: bình thường
23 – 25: quá cân
>25: béo phì
2 (2,5)
32 (40,5)
24 (30,4)
21(26,6)
BMI kg/m2: TB ± ĐLC (trung vị;
min-max)
23,3 ± 2,70 (22,5;18-29)
Đạm niệu
Đạm niệu đại thể
Đạm niệu vi thể
Bình thường
27 (34,2)
15 (19)
37 (46,8)
HbA1C : TB ± ĐLC (min-max) 8,10 ± 1,74 (4,8 - 13,2)
Tỷ lệ bệnh nhân có HbA1C >7 n (%) 57 (72,2)
Tiền sử hút thuốc: n (%) 33 (41,8)
Tiền sử dùng điều trị insulin : n (%) 28 (35,4)
Tiền sử tăng lipid máu : n (%) 49 (62,0)
Tiền sử tăng huyết áp: n (%) 50 (63,3)
9
Trong quá trình khám sàng lọc có 203 bệnh nhân có mắt bị
phù hoàng điểm đái tháo đường đủ tiêu chuẩn thu nhận. Trong
số đó có 86 bệnh nhân đồng ý tham gia vào nghiên cứu. Sau đó
7 bệnh nhân bị loại do tiêu chuẩn loại trừ nên số bệnh nhân trong
mẫu là 79 người. Trong số 79 bệnh nhân nói trên có 33 (41,77%)
bệnh nhân có cả hai mắt và 46 (58,23%) bệnh nhân có một mắt
được nhận vào nghiên cứu do đó tổng số mắt tham gia vào
nghiên cứu là 112 mắt.
Tuổi trung bình của bệnh nhân là 53,72 ± 9,96 tuổi (từ 32
đến 77 tuổi). Có 41 (51,89%) bệnh nhân là nữ giới. Thời gian
phát hiện đái tháo đường trung bình là 8,92 ± 4,10 năm (từ 2 đến
20 năm). Có 40,5% bệnh nhân có BMI bình thường và 56.97%
có BMI từ quá cân trở lên. Chỉ số HbA1C trung bình là 8,10 ±
1,74 (từ 4,8 đến 13,2). Đường huyết của bệnh nhân được kiểm
soát tốt trong suốt nghiên cứu.
Đa số mắt tham gia nghiên cứu có mức độ trầm trọng của
bệnh võng mạc đái tháo đường là từ bệnh võng mạc đái tháo
đường chưa tăng sinh mức độ trung bình trở xuống chiếm 75
(66,98%) mắt. Tỷ lệ phân bố mức độ trầm trọng không khác biệt
giữa hai nhóm (p = 0.08 Fisher exact test). Mức độ phù hoàng
điểm được đánh giá qua CRT trung bình của toàn bộ mẫu nghiên
cứu là 383,04 ± 123,36 µm.
Thị lực trung bình của toàn bộ mẫu nghiên cứu trước khi
điều trị là 64,94 ± 10,37 chữ (từ 35 đến 80 chữ) tương đương với
20/50 ± 2 hàng Snellen. Thị lực trung bình trước khi điều trị của
nhóm Bevacizumab và Laser lần lượt là 63,80 ± 10,71 và 66,04
± 10,01 chữ. CRT trung bình trước khi điều trị lần lượt là 398,75
± 137,50 và 367,89 ± 107,05 µm. Sự khác biệt trước khi điều trị
10
giữa hai nhóm về thị lực (p=0,31) và CRT (p=0,37; Mann-
Whitney U test) không có ý nghĩa thống kê. Nói cách khác, giữa
hai nhóm Bevacizumab và Laser có sự tương đồng với nhau về
thị lực và CRT trước khi điều trị.
3.2 Đánh giá mức độ thành công của điều trị
3.2.1 Số lần điều trị
Bệnh nhân được điều trị cá thể hóa do đó tùy thuộc vào
sự đáp ứng theo phác đồ mà số lần tiêm Bevacizumab và số lần
điều trị Laser quang đông khác nhau. Nhóm Bevacizumab điều
trị tối thiểu 3 lần, tối đa 11 lần trong khi nhóm Laser điều trị tối
đa 3 lần trong thời gian 12 tháng. 50% bệnh nhân trong nhóm
Bevacizumab cần tiêm 7 mũi trở lên và 50% bệnh nhân trong
nhóm Laser cần điều trị 2 lần trở lên. Số lần điều trị trung bình
trong nhóm Bevacizumab và Laser lần lượt là 7,29 ± 2,33 và
1,93 ± 0,75 (p<0,0001). Như vậy về tính chất điều trị thì tiêm
Bevacizumab đòi hỏi số lần điều trị và theo dõi cao hơn hẳn so
với điều trị Laser quang đông.
3.2.2 Điều trị thành công
Khi bệnh nhân cải thiện được thị lực so với ban đầu từ 5
chữ trở lên (1 hàng thị lực trở lên) được coi là điều trị thành công.
Ngay từ tháng thứ 3, xác suất điều trị thành công của nhóm
Bevacizumab lên tới gần 70% so với khoảng 30% của nhóm
Laser. Xác suất điều trị thành công tiếp tục tăng theo thời gian
cho tới 12 tháng. Tóm lại, nhóm Bevacizumab có xác suất điều
trị thành công cao hơn so với nhóm Laser trong suốt 12 tháng
theo dõi.
11
3.2.3 Phân tích hồi qui logistic
Bảng 3.5 Các thông số trong mô hình hồi qui logistic
Yếu tố Giá trị Sai số chuẩn Giá trị z p
Không có yếu tố nào 4,56 3,10 1,47 0,1413
Nhóm Laser -2,15 0,55 -3,89 <0,0001*
Thị lực ban đầu -0,02 0,03 -0,97 0,3334
CRT ban đầu 0,00 0,00 0,43 0,6659
Giới nữ -0,69 0,96 -0,73 0,4680
Tuổi -0,00 0,02 -0,20 0,8379
Thời gian bị đái
tháo đường
-0,69 0,96 -0,72 0,2692
HbA1C -0,04 0,14 -0,33 0,7402
Hút thuốc -0,77 0.98 -0,78 0,4320
Sử dụng Insulin -1,27 0,57 -2,23 0,0255*
Tăng huyết áp -0,48 0,53 -0,91 0,3627
Tăng lipid máu 0,51 0,53 0,95 0,3388
* có ý nghĩa thống kê
Chúng tôi sử dụng mô hình hồi qui logistic để xây dựng mô
hình đánh giá hiệu quả điều trị thành công phù hoàng điểm đái
tháo đường. Biến phụ thuộc bao gồm thị lực ban đầu, CRT, tăng
huyết áp, tăng lipid máu, sử dụng insulin, tiền sử hút thuốc, giới
tính, mức độ trầm trọng của bệnh võng mạc đái tháo đường, hình
thái phù trên chụp mạch huỳnh quang với fluorescein, còn thủy
tinh thể hay không. Phân tích cho thấy yếu tố nhóm điều trị và
có sử dụng insulin ảnh hưởng đến kết quả điều trị thành công.
12
Tuy nhiên khi đưa vào mô hình rút gọn thì chỉ có yếu tố nhóm
điều trị là có ý nghĩa thống kê (p= -0,5810).
Tỷ số odds điều trị thành công nhóm Bevacizumab so với
Laser là 8,33 ± 4,27. Xác suất điều trị thành công của nhóm
Bevacizumab là 88,67% so với Laser là 48,21%.
3.3 Phân tích theo phân nhóm HbA1c
Trong những mắt được điều trị Bevacizumab có thể phân
chia thành hai nhóm: Nhóm HbA1c ≤ 7 bao gồm 15 mắt/ 15
bệnh nhân và Nhóm HbA1c > 7 bao gồm 40 mắt/ 40 bệnh nhân,
Thị lực trung bình trước khi điều trị của Nhóm HbA1c ≤ 7 và
Nhóm HbA1c > 7 lần lượt là : 60,53 ± 11,15 và 65,03 ± 10,42
chữ (p=0,16, Mann-Whitney U test). Độ dầy võng mạc trung tâm
trung bình trước khi điều trị lần lượt là 401,53 ± 81,94 và 397,70
± 154,15 µm (p=0,26, Mann-Whitney U test). Như vậy không
có sự khác biệt về thị lực và độ dầy võng mạc trung tâm của hai
nhóm trước khi điều trị.
Các số liệu cho thấy Nhóm HbA1c ≤7 ban đầu có mức tăng
thị lực thấp hơn ở thời điểm 3 và 6 tháng nhưng vào thời điểm
12 tháng lại có mức tăng thị lực cao hơn Nhóm HbA1c >7. Phân
tích phương sai ANOVA đo lường lặp lại (Repeated measures
ANOVA) cho thấy có sự khác biệt về kết quả thị lực giữa hai
nhóm ở các lần thăm khám (p< 0,0001) và có sự tương tác giữa
nhóm điều trị theo thời gian (p=0,01). Nói cách khác, mức tăng
thị lực về lâu dài (12 tháng) trong Nhóm HbA1c ≤7 có kết quả
thị lực tốt hơn.
13
3.4 Đánh giá cải thiện chức năng
Để đánh giá cải thiện thị lực của bệnh nhân sau điều trị
chúng tôi sử dụng mức tăng thị lực trung bình. Thông số này là
trung bình của hiệu số thị lực ở từng thời điểm thăm khám so với
ban đầu của mỗi mắt. Đây cũng là thông số được sử dụng thường
xuyên trong các nghiên cứu lâm sàng trên thế giới. Mức tăng thị
lực trung bình của nhóm Bevacizumab so với nhóm Laser theo
các thời điểm như sau:
• 3 tháng: 8,53 ± 6,49 so với 0,61 ± 10,3 chữ
• 6 tháng: 9,78 ± 7,86 so với 2,33 ± 11,89 chữ
• 12 tháng: 12,17 ± 6,65 so với 2,11 ± 11,84 chữ
Phân tích mô hình tuyến tính hỗn hợp cho thấy có sự khác
biệt về thị lực giữa hai nhóm (Chi squared; p<0,0001) và có sự
khác biệt theo thời gian theo dõi (Chi squared; p=0,0010).
Mắt được điều trị bằng Bevacizumab có mức tăng thị lực
hơn mắt được điều trị Laser quang đông khoảng 10 chữ ở thời
điểm 12 tháng (p<0,0001). Thị lực của nhóm Laser tăng ít và
chậm còn nhóm Bevacizumab thì tăng thị lực nhiều và nhanh
ngay từ tháng thứ 3.
Những mắt có thị lực tăng ≥ 15 chữ (tương đương với 3
hàng thị lực) được gọi là mức tăng thị lực đáng kể. Tỷ lệ phần
trăm tăng ≥ 15 chữ trong nhóm Bevacizumab so với nhóm Laser
nhiều hơn gấp 2,5 lần ở thời điểm 6 tháng và gấp 5 lần ở thời
điểm 12 tháng. Tỷ lệ % tăng ≥ 10 chữ trong nhóm Bevacizumab
so với nhóm Laser nhiều hơn gấp 3 lần ở thời điểm 6 tháng và
gấp 2,5 lần ở thời điểm 12 tháng. Tương tự như vậy, tỷ lệ % tăng
≥ 5 chữ trong nhóm Bevacizumab so với nhóm Laser nhiều hơn
gấp 2 lần ở tất cả các thời điểm.
14
3.5 Đánh giá cải thiện cấu trúc
Để đánh giá sự cải thiện về cấu trúc hoàng điểm của bệnh
nhân sau điều trị chúng tôi sử dụng mức giảm CRT. Thông số
này của nhóm Bevacizumab so với nhóm Laser theo các thời
điểm như sau:
• 3 tháng: -112,8 ± 123,67 so với -34,63 ± 89,98 µm
• 6 tháng: -135,72 ± 121,93 so với -71,37 ± 127,55 µm
• 12 tháng: -143,89 ± 127,54 so với -89,96 ± 127,62 µm
Như vậy nhóm Bevacizumab có mức giảm CRT trung bình
nhiều hơn và sớm hơn so với nhóm Laser (p<0,005).
Biểu đồ 3.14 Biểu đồ hộp sự thay đổi thị lực theo thời gian
và nhóm điều trị
15
3.6 Tương quan thị lực và CRT
Ở thời điểm ban đầu (trước khi điều trị), hệ số tương quan
giữa thị lực và CRT là -0,25 (95% CI : -0,41, -0,06; p=0,008).
Giá trị âm của hệ số tương quan thể hiện khuynh hướng biến
thiên ngược chiều của hai thông số nói trên. Khi CRT tăng th