Rủi ro mất khả năng thanh toán là một trong những rủi ro được đề cập trong
giai đoạn gần đây đặc biệt khi các cuộc khủng hoảng trên phạm vi toàn cầu nói chung
và từng khu vực nói riêng liên tiếp xảy ra. Các nghiên cứu của Laetitia, Strobel và
Frank (2013), Mohamed Aymen Ben Moussa (2015) cho thấy rủi ro mất khả năng
thanh toán giữ một vị trí quan trọng trong các loại rủi ro do có liên quan đến sự tồn
tại của một ngân hàng và đôi khi là cả hệ thống tài chính của một quốc gia. Trong đó
vấn đề đảm bảo khả năng thanh toán rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển
của các ngân hàng. Khả năng thanh toán dưới góc độ ngân hàng được hiểu là khả
năng đáp ứng tức thời nhu cầu rút tiền của khách hàng tại mọi thời điểm phát sinh.
Khi ngân hàng mất khả năng thanh toán sẽ khiến cho nền kinh tế rơi vào ảm đạm.
Thực tế điều này đã được kiểm chứng qua cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm
2007 – 2008 vừa qua, rủi ro của các khoản tín dụng dưới chuẩn kéo theo tình trạng
mất khả năng thanh toán và phá sản của những tập đoàn, công ty lớn trong ngành
ngân hàng như Lehman Brothers, Merrill Lynch đã đẩy nền kinh tế Mỹ rơi vào suy
thoái.
Các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của chính sách tiền tệ đến rủi ro mất
khả năng thanh toán ngân hàng cho thấy nhiều kết quả khác nhau. Vì vậy, sự thay đổi
rủi ro mất khả năng thanh toán của ngân hàng trước các cú sốc chính sách tiền tệ như
thế nào vẫn là một câu hỏi quan trọng cần được lấp đầy. Xuất phát từ những lý do đó,
tác giả lựa chọn đề tài “Tác động của chính sách tiền tệ tới rủi ro mất khả năng
thanh toán tại các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam” để làm luận án tiến sĩ
35 trang |
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 413 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Tác động của chính sách tiền tệ tới rủi ro mất khả năng thanh toán tại các ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH
MAI THỊ PHƯƠNG THÙY
TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TỚI
RỦI RO MẤT KHẢ NĂNG THANH TOÁN TẠI CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 9340201
Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS Trần Hoàng Ngân
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2019
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
CỦA TÁC GIẢ ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ
1. Mai Thị Phương Thùy (2018), “Tác động của chính sách tiền tệ đến tăng
trưởng kinh tế tại Việt Nam”, Tạp chí Tài chính, tháng 11/2018
2. Mai Thị Phương Thùy (2018), “Rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng và sự mất
khả năng thanh toán của ngân hàng thương mại”, Tạp chí Tài chính, tháng
11/2018
3. Mai Thị Phương Thùy (2018), “Tác động của quy mô hội đồng quản trị đến
mức chấp nhận rủi ro của các công ty cổ phần tại Việt Nam”, Tạp chí Tài chính,
tháng 6/2018
4. Mai Thị Phương Thùy, Trương Nguyễn Tường Vy (2018), “Tác động của quản
trị doanh nghiệp đến cấu trúc vốn công ty”, Tạp chí Tài chính, tháng 7/2018
5. Mai Thị Phương Thùy, Bùi Thị Điệp (2018), “Yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro
thanh khoản của các ngân hàng thương mại Việt Nam”, Tạp chí Tài chính,
tháng 5/2018
6. Mai Thị Phương Thùy (2015), “Ảnh hưởng của các cú sốc kinh tế vĩ mô đến nợ
xấu ở Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và dự báo, tháng 8/2015.
.
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU CHUNG
1.1. Lý do chọn đề tài
Rủi ro mất khả năng thanh toán là một trong những rủi ro được đề cập trong
giai đoạn gần đây đặc biệt khi các cuộc khủng hoảng trên phạm vi toàn cầu nói chung
và từng khu vực nói riêng liên tiếp xảy ra. Các nghiên cứu của Laetitia, Strobel và
Frank (2013), Mohamed Aymen Ben Moussa (2015) cho thấy rủi ro mất khả năng
thanh toán giữ một vị trí quan trọng trong các loại rủi ro do có liên quan đến sự tồn
tại của một ngân hàng và đôi khi là cả hệ thống tài chính của một quốc gia. Trong đó
vấn đề đảm bảo khả năng thanh toán rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển
của các ngân hàng. Khả năng thanh toán dưới góc độ ngân hàng được hiểu là khả
năng đáp ứng tức thời nhu cầu rút tiền của khách hàng tại mọi thời điểm phát sinh.
Khi ngân hàng mất khả năng thanh toán sẽ khiến cho nền kinh tế rơi vào ảm đạm.
Thực tế điều này đã được kiểm chứng qua cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm
2007 – 2008 vừa qua, rủi ro của các khoản tín dụng dưới chuẩn kéo theo tình trạng
mất khả năng thanh toán và phá sản của những tập đoàn, công ty lớn trong ngành
ngân hàng như Lehman Brothers, Merrill Lynch đã đẩy nền kinh tế Mỹ rơi vào suy
thoái.
Các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của chính sách tiền tệ đến rủi ro mất
khả năng thanh toán ngân hàng cho thấy nhiều kết quả khác nhau. Vì vậy, sự thay đổi
rủi ro mất khả năng thanh toán của ngân hàng trước các cú sốc chính sách tiền tệ như
thế nào vẫn là một câu hỏi quan trọng cần được lấp đầy. Xuất phát từ những lý do đó,
tác giả lựa chọn đề tài “Tác động của chính sách tiền tệ tới rủi ro mất khả năng
thanh toán tại các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam” để làm luận án tiến sĩ.
1.2 Khe hở nghiên cứu
Các nghiên cứu trước đây còn tồn tại khoảng trống nghiên cứu là:
Thứ nhất: Các nghiên cứu trước đây trên thế giới về tác động của chính sách
tiền tệ tới rủi ro mất khả năng thanh toán của NHTM theo các khía cạnh khác nhau,
do đó cho thấy kết quả nhiều chiều theo nhiều kênh truyền dẫn khác nhau.
Mặt khác, nghiên cứu về tác động này tại các NHTM Việt Nam chỉ nhận được
sự quan tâm hạn chế, chưa có công bố nào trong nước được tác giả tìm ra.
Thứ hai: Lược khảo các nghiên cứu trước có liên quan cho thấy, lãi suất cơ
bản là công cụ chính sách chính đại diện cho biến chính sách tiền tệ được sử dụng
của NHTW trong các mẫu nghiên cứu và đánh giá tác động của công cụ này tới rủi
ro mất khả năng thanh toán của NHTM, do đó các nghiên cứu chưa phân biệt rõ hiệu
quả của từng công cụ chính sách tiền tệ. Trong khi ở Việt Nam, hỗn hợp một số công
cụ phi lãi suất thường được sử dụng để bổ sung hoặc thậm chí là thay thế chính sách
tiền tệ dựa trên lãi suất.
Thứ ba: Các tài liệu trước đây chủ yếu nghiên cứu một số đặc điểm riêng của
các ngân hàng như quy mô và cấu trúc vốn, khả năng vốn hóa đối với ảnh hưởng của
chính sách tiền tệ đối với rủi ro ngân hàng, còn điều kiện kinh tế vĩ mô, chất lượng
thể chế và tính minh bạch của chính sách ảnh hưởng đến kênh này vẫn còn hạn chế.
Chưa có nghiên cứu đồng thời kiểm tra tác động của đặc điểm cá nhân của các ngân
hàng, như quy mô và cấu trúc vốn, khả năng vốn hóa, thành phần thu nhập và nguồn
vốn và các yếu tố đặc trưng của nền kinh tế như: tốc độ phát triển kinh tế, tỷ lệ lạm
phát, chất lượng thể chế hay sự minh bạch của chính sách đối với tác động này.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát của nghiên cứu là đánh giá tác động của chính sách tiền tệ
đến rủi ro mất khả năng thanh toán của các ngân hàng thương mại Việt Nam dưới ảnh
hưởng của chất lượng thể chế.
Để đạt được mục tiêu tổng quát, nghiên cứu có các mục tiêu cụ thể như sau:
- Đo lường rủi ro mất khả năng thanh toán của NHTM Việt Nam
- Kiểm tra tác động của chính sách tiền tệ đến rủi ro mất khả năng thanh toán
của NHTM Việt Nam
- Kiểm tra tác động của chính sách tiền tệ đến rủi ro mất khả năng thanh toán
của các NHTM Việt Nam dưới ảnh hưởng của chất lượng thể chế.
- Đưa ra các giải pháp cho NHNN Việt Nam điều hành chính sách tiền tệ hiệu
quả giúp cho các NHTM Việt Nam hạn chế rủi ro mất khả năng thanh toán
1.4. Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, đề tài trả lời các câu hỏi nghiên cứu sau:
- Mức độ rủi ro mất khả năng thanh toán của NHTM Việt Nam trong thời gian
qua như thế nào?
- Tác động của chính sách tiền tệ đến rủi ro mất khả năng thanh toán của NHTM
Việt Nam như thế nào?
- Khi chất lượng thể chế thay đổi, tác động của chính sách tiền tệ đến rủi ro mất
khả năng thanh toán của các NHTM Việt Nam thay đổi như thế nào?
- Nhằm điều hành chính sách tiền tệ hiệu quả và hạn chế rủi ro mất khả năng
thanh toán, cần thực hiện những giải pháp nào và NHNN cần điều chỉnh chính
sách tiền tệ như thế nào?
1.5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: tác động của chính sách tiền tệ tới rủi ro mất khả năng
thanh toán của NHTM.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu sử dụng dữ liệu bảng cân đối cho 30 NH
TMCP tại Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2017.
1.6. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu
Dữ liệu nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng dữ liệu bảng cho 30 NH TMCP tại Việt Nam trong giai
đoạn 2008-2017.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thống kê, mô tả.
Phương pháp so sánh, đối chiếu.
Phương pháp phân tích và tổng hợp.
Phương pháp ước lượng. nghiên cứu này thực hiện hồi quy các mô hình bằng
phương pháp System GMM– SGMM của Arellano & Bond (1991).
1.7. Ý nghĩa nghiên cứu
Trong nghiên cứu này, tác giả tiến hành đo lường và đánh giá chính sách tiền
tệ tác động như thế nào đến mức độ rủi ro mất khả năng thanh toán của các NHTM
Việt Nam trong giai đoạn 2008-2017. Thêm vào đó, điều tra các yếu tố điều chỉnh tác
động của chính sách tiền tệ đến rủi ro mất khả năng thanh toán ngân hàng như: các
yếu tố đặc trưng của ngân hàng, điều kiện kinh tế vĩ mô, chất lượng thể chế và tính
minh bạch của chính sách... Nghiên cứu có các đóng góp cụ thể:
Về mặt lý thuyết: kết quả nghiên cứu sẽ góp phần bổ sung vào cơ sở lý thuyết
về rủi ro mất khả năng thanh toán, chính sách tiền tệ, tác động của chính sách tiền tệ
đến rủi ro mất khả năng thanh toán của NHTM. Ngoài ra, nghiên cứu cung cấp một
cái nhìn hệ thống và tổng quan các bằng chứng thực nghiệm từ trước đến nay trên thế
giới về tác động này trong điều kiện ảnh hưởng của các yếu tố đặc trưng của ngân
hàng, đặc điểm của nền kinh tế.
Về mặt thực tiễn:
Một là, Nghiên cứu này đóng góp một bằng chứng thực nghiệm quan trọng
cho thấy khi NHNN Việt Nam thực thi chính sách tiền tệ mở rộng góp phần làm giảm
rủi ro mất khả năng thanh toán của khu vực NHTM.
Hai là, Khi chất lượng thể chế tăng lên, NHNN thực thi chính sách tiền tệ mở
rộng làm rủi ro mất khả năng thanh toán của NHTM được giảm xuống nhiều hơn
Ba là, Việc xác định tác động của chính sách tiền tệ đối với rủi ro mất khả
năng thanh toán ngân hàng dưới ảnh hưởng của chất lượng thể chế đóng vai trò quan
trọng trong việc đưa ra các gợi ý chính sách cho các nhà quản lý và điều hành chính
sách tiền tệ.
1.8. Kết cấu nghiên cứu
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục các từ viết tắt, danh mục bảng biểu,
danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận án gồm 5 chương cụ thể như
sau:
Chương 1: Giới thiệu chung
Chương 2: Cơ sở lý thuyết và bằng chứng thực nghiệm về tác động của chính
sách tiền tệ tới rủi ro mất khả năng thanh toán của các ngân hàng thương mại
Chương 3: Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu
Chương 4: Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Chương 5: Kết luận và hàm ý chính sách
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM VỀ
TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TỚI RỦI RO MẤT KHẢ NĂNG
THANH TOÁN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.1. Lý luận về chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương
2.1.1. Khái niệm chính sách tiền tệ
Tóm lại, chính sách tiền tệ là một bộ phận trong tổng thể hệ thống chính sách
kinh tế của Nhà nước để thực hiện việc quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế nhằm đạt
được những mục tiêu kinh tế-xã hội trong từng giai đoạn nhất định. Chính sách tiền
tệ có thể được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa thông thường. Theo nghĩa rộng thì chính
sách tiền tệ là chính sách điều hành toàn bộ khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế quốc
dân nhằm tác động đến bốn mục tiêu lớn của kinh tế vĩ mô, trên cơ sở đó đạt mục tiêu
cơ bản là ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả hàng hóa.
Theo nghĩa thông thường là chính sách quan tâm đến khối lượng tiền cung ứng tăng
thêm trong thời kì tới (thường là một năm) phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế dự
kiến và chỉ số lạm phát nếu có, tất nhiên cũng nhằm ổn định tiền tệ và ổn định giá cả
hàng hóa.
2.1.2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ
Trong việc thiết kế các mục tiêu chính sách, các nhà hoạch định chính sách
xây dựng thành nhiều cấp mục tiêu khác nhau, bao gồm mục tiêu cuối cùng, mục tiêu
trung gian, và mục tiêu hoạt động. Mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ chẳng
hạn như sản lượng, lạm phát hay công ăn việc làm. Để đạt được mục tiêu này, các
nhà hoạch định sẽ thiết kế ra các mục tiêu trung gian chẳng hạn như mục tiêu cung
tiền hay mục tiêu lãi suất. Nhưng trước đó, để tiến đến mục tiêu trung gian cần xây
dựng nên các mục tiêu hoạt động. Để thiết kế được mục tiêu hoạt động, đòi hỏi ngân
hàng trung ương cần phải có các công cụ chính sách tương ứng. Các mục tiêu này
của chính sách tiền tệ được trình bày cụ thể như sau:
2.1.2.1 Mục tiêu cuối cùng
Mục tiêu cuối cùng bao gồm: ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát, ổn định tỷ giá
hối đoái, ổn định lãi suất, ổn định thị trường tài chính, tăng trưởng kinh tế, giảm tỷ lệ
thất nghiệp
2.1.2.2 Mục tiêu trung gian
Các chỉ tiêu thường được sử dụng làm mục tiêu trung gian là tổng khối lượng
tiền cung ứng (M1, M2 hay M3) hoặc mức lãi suất thị trường (ngắn và dài hạn).
2.1.2.3 Mục tiêu hoạt động
Mục tiêu hoạt động là các chỉ tiêu có phản ứng tức thời với sự điều chỉnh của
công cụ CSTT. Các chỉ tiêu này bao gồm: tổng dự trữ hoặc cơ số tiền tệ, lãi suất ngắn
hạn trên thị trường liên ngân hàng, hoặc lãi suất tín phiếu kho bạc.
2.1.3. Các công cụ của chính sách tiền tệ
Theo Mishkin (2013), các NHNN quyết định việc sử dụng công cụ thực hiện
CSTT quốc gia, bao gồm tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp
vụ thị trường mở và các công cụ, biện pháp khác
2.1.4. Kênh truyền dẫn của chính sách tiền tệ
Theo Chatelain và cộng sự (2002); Mishkin (2009), Cecchetti (1999), Ganev
và cộng sự (2002), CSTT có thể tác động tới nền kinh tế thông qua bốn kênh truyền
tải chính: kênh lãi suất, kênh tín dụng, kênh tỷ giá hối đoái và kênh tài sản, cụ thể như
sau:
2.1.5. Tính hiệu quả của chính sách tiền tệ
Cùng với chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ là hai công cụ chính để các
nhà hoạch định chính sách thực hiện các mục tiêu vĩ mô. Và để đo lường tính hiệu
quả và hữu ích của chính sách tài khóa và tiền tệ tới hoạt động kinh tế, các nhà nghiên
cứu kinh tế thường sử dụng mô hình IS – LM
2.2. Lý thuyết về rủi ro mất khả năng thanh toán tại NHTM
2.2.1. Khái niệm rủi ro mất khả năng thanh toán tại NHTM
Khả năng thanh toán của NHTM
Khả năng thanh toán đã trở thành một vấn đề cấp thiết trong thực tiễn đối với
hệ thống ngân hàng. Ở khía cạnh học thuật, khái niệm về khả năng thanh toán được
đề cập trong các nghiên cứu, như:
BIS (2009) định nghĩa khả năng thanh toán của NHTM là một khái niệm
chuyên ngành về khả năng của ngân hàng vừa có thể tăng thêm tài sản vừa đáp ứng
các nghĩa vụ nợ khi đến hạn mà không bị những thiệt hại quá mức cho phép.
Theo Duttweiler (2009) khả năng thanh toán của NHTM là khả năng ngân
hàng đáp ứng kịp thời và đầy đủ các nghĩa vụ tài chính phát sinh trong quá trình hoạt
động kinh doanh như chi trả tiền gửi, cho vay, thanh toán, và các giao dịch tài chính
khác.
Tóm lại, khả năng thanh toán của NHTM là khả năng tiếp cận các khoản tài
sản có thể dùng để chi trả với chi phí vốn hợp lý ngay khi nhu cầu vốn phát sinh.
Nhiệm vụ duy trì khả năng thanh toán đầy đủ là một trong những công việc, tiêu chí
hàng đầu của mỗi ngân hàng, đóng vai trò quan trọng trong việc luân chuyển vốn
kinh doanh, và thông qua đó ảnh hưởng đến tình hình hoạt động kinh doanh của
NHTM. Có thể nói, khả năng thanh toán là vấn đề rất nhạy cảm trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng. Một ngân hàng bị mất khả năng thanh toán sẽ nhanh chóng đi
tới bờ vực phá sản và ảnh hưởng tới tính ổn định của toàn bộ hệ thống.
Rủi ro mất khả năng thanh toán của NHTM
Theo Lastra và Schiffman (1999), rủi ro mất khả năng thanh toán là tình trạng
mất khả năng thanh toán, có thể được định nghĩa bằng hai cách. Thứ nhất, đó là sự
thất bại trong việc hoàn trả những nghĩa vụ tài chính khi đến hạn. Thứ hai, đó là tình
trạng khoản mục nợ phải trả vượt quá tài sản trên bảng cân đối kế toán. Như vậy có
thể hiểu rằng rủi ro mất khả năng thanh toán là một biến cố bất ngờ xảy ra khi một cá
nhân hoặc một tổ chức không thể thực hiện nghĩa vụ tài chính của mình đối với bên
cho vay khi đến hạn thanh toán. Rủi ro này thường có thể dẫn đến việc phá sản của
tổ chức.
2.2.2. Đo lường rủi ro mất khả năng thanh toán tại NHTM
Các nhà nghiên cứu thường sử dụng chỉ số Z theo đề xuất của Mohamed
Aymen Ben Moussa (2015) cụ thể:
𝑍 − 𝑐𝑜𝑟𝑒 =
(𝑅𝑂𝐴𝑖,𝑡) + 𝐸𝐴𝑖,𝑡)
𝜎(𝑅𝑂𝐴𝑖,𝑡)
Trong đó:
ROAi,t : đại diện cho tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản bình quân của ngân hàng
i trong năm t
EAi,t : biểu thị tỷ lệ vốn chủ sở hữu bình quân trên tổng tài sản bình quân của
ngân hàng i trong năm t
𝜎(ROAi,t) : độ lệch chuẩn của ROA của ngân hàng i trong năm t
2.2.3. Ảnh hưởng của rủi ro mất khả năng thanh toán
Rủi ro mất khả năng thanh toán là một trong những rủi ro khá hiếm khi xảy ra
nhưng lại có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của các ngân hàng. Rủi ro này xuất
hiện đồng nghĩa với việc ngân hàng đang rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính và nếu
không có biện pháp kịp thời, khả năng dẫn đến sự phá sản của ngân hàng là rất cao.
Tuy nhiên, trên thực tế vẫn chưa có qui định thật sự rõ ràng và cụ thể về việc phá sản
ngân hàng nên hầu hết các ngân hàng Việt Nam khi rơi vào tình trạng mất khả năng
thanh toán trong thời gian dài thường sẽ đi đến việc hợp nhất, sáp nhập với các ngân
hàng khác. Rủi ro mất khả năng thanh toán không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động của
bản thân ngân hàng, mà còn có thể ảnh hưởng đến cả hệ thống tài chính của một quốc
gia. Thông thường, các ngân hàng lớn sẽ được giúp đỡ bởi ngân hàng trung ương,
điển hình như các trường hợp ngân hàng bị mất khả năng thanh toán do tin đồn. Tuy
nhiên, cũng chính hành động này có thể sẽ khiến ngân hàng trung ương phải đối mặt
với vấn đề thay đổi chính sách tiền tệ hiện tại, sao cho vừa có thể điều tiết nền kinh
tế vĩ mô, vừa có thể đưa ngân hàng thoát khỏi tình trạng mất khả năng thanh toán
2.3. Tác động của chính sách tiền tệ đến rủi ro mất khả năng thanh toán của
NHTM
Các nghiên cứu trước đây tập trung vào hai nhóm tác động chính của chính
sách tiền tệ đến rủi ro mất khả năng thanh toán của các ngân hàng thương mại: Hướng
thứ nhất là chính sách tiền tệ mở rộng làm tăng rủi ro mất khả năng thanh toán của
NHTM. Hướng thứ hai đề cập đến chính sách tiền tệ mở rộng làm giảm rủi ro mất
khả năng thanh toán của NHTM
2.3.1 Chính sách tiền tệ mở rộng làm giảm rủi ro mất khả năng thanh toán của
NHTM
Thứ nhất, Chính sách tiền tệ mở rộng làm tăng giá trị tài sản trong đó có tài
sản thế chấp và thu nhập của các ngân hàng, do đó nâng cao năng lực chịu đựng rủi
ro của các ngân hàng, hay làm giảm rủi ro mất khả năng thanh toán của NHTM.
Thứ hai, Việc giảm lãi suất có thể làm tăng lợi nhuận ngân hàng, do đó dẫn
đến giảm thiểu rủi ro mất khả năng thanh toán của ngân hàng. Agur và Demertzis
(2012) cho rằng chính sách tiền tệ mở rộng có thể sẽ có hai hiệu ứng bù đắp về rủi ro
ngân hàng: thứ nhất, lãi suất thấp hơn cũng có thể làm giảm nguy cơ vỡ nợ của người
đi vay vì chi phí tài chính giảm và sản lượng của họ tăng lên, thứ hai, lãi suất thấp có
thể làm tăng lợi nhuận kinh doanh của ngân hàng.
2.3.2 Chính sách tiền tệ mở rộng làm tăng rủi ro mất khả năng thanh toán của
NHTM
Tác động của các công cụ chính sách tiền tệ làm tăng rủi ro mất khả năng thanh
toán ngân hàng thông qua một số kênh như sau:
Thứ nhất, lãi suất giảm khi ngân hàng trung ương thực thi chính sách tiền tệ
mở rộng ảnh hưởng đến hành vi của khách hàng tiền gửi, các ngân hàng gặp khó khăn
trong việc huy động nguồn vốn kinh doanh và khả năng chịu rủi ro giảm.
Thứ hai, khi chính sách tiền tệ mở rộng, các ngân hàng có thể nới lỏng các
tiêu chuẩn cho vay và tăng tín dụng cho các khách hàng có nguy cơ cao hơn khi chính
sách tiền tệ được dỡ bỏ và có sự bùng nổ về rủi ro tín dụng.
Thứ ba, việc giảm lãi suất sẽ làm tăng đòn bẩy và rủi ro mất khả năng thanh
toán của ngân hàng.
2.4 Thể chế và ảnh hưởng của chất lượng thể chế lên tác động của chính sách
tiền tệ đến rủi ro mất khả năng thanh toán của NHTM
2.4.1 Thể chế và chất lượng thể chế
Khái niệm thể chế
Mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ có thể trình độ phát triển khác nhau, song đều
được vận hành bởi sự chi phối trực tiếp hay gián tiếp của thể chế. Cho đến hiện nay
đã và đang có sự ghi nhận rộng rãi về vai trò của thể chế đối với sự phát triển nói
chung, tăng trưởng phát triển kinh tế nói riêng, song vẫn chưa có sự thống nhất chung
về lý luận thể chế và hiện tồn tại những quan niệm khác nhau về thể chế.
Theo quan niệm của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF):Thể chế có thể được
hiểu là cái tạo thành khung khổ trật tự cho các quan hệ của con người, định vị cơ chế
thực thi và giới hạn của các quan hệ giữa các bên tham gia tương tác; là ý chí chung
của cộng đồng xã hội trong việc xác lập trật tự, những quy tắc, những ràng buộc và
các chuẩn mực, giá trị chung được mọi người chia sẻ Như vậy, thể chế hiểu theo
nghĩa trên là những nguyên tắc (không phân biệt hình thức của nguyên tắc) về cách
cư xử trong xã hội, được hình thành từ thực tiễn trong các phạm vi quan hệ của con
người, được xã hội chấp nhận và chỉ dẫn cho mối quan hệ qua lại của con người. Đây
có thế coi là một khái niệm chung nhất về thể chế.
Nghiên cứu của Simon Anholt, Dung (2008) cho rằng, thể chế bao gồm ba yếu
tố: luật pháp, bộ máy nhà nước, phương thức điều hành đất nước. Giá trị phổ biến về
thể chế của những nước phát triển thuộc OECD (được xem như là những nước có
thương hiệu quốc gia tốt nhất) là dân chủ, tam quyền phân lập, kinh tế thị trường