Ở Việt Nam, quan tâm đến công tác nữ là quan điểm nhất quán của
Đảng và Nhà nước ta trong suốt quá trình cách mạng. Trong Di chúc, Chủ
tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã viết: Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước,
phụ nữ đảm đang ta đã góp phần xứng đáng trong chiến đấu và trong sản
xuất. Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất
nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả
công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một
cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ.
Đặc biệt, trong thời kỳ đổi mới, chủ trương của Ðảng về bình đẳng
giới và trao quyền cho phụ nữ được thể hiện xuyên suốt trong các Nghị
quyết Ðại hội Ðảng, các nghị quyết và chỉ thị của Trung ương Ðảng, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư về công tác quần chúng, công tác vận động phụ nữ,
công tác cán bộ nữ. Từ chủ trương của Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều
chính sách, pháp luật cụ thể nhằm tạo điều kiện để phụ nữ phát triển và
thúc đẩy bình đẳng giới, trong đó quan trọng nhất là bảo đảm và tạo điều
kiện để phụ nữ Việt Nam thực hiện quyền chính trị.
Quyền bình đẳng nam nữ đã được xác định ngay từ Hiến pháp đầu
tiên năm 1946 của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Vấn đề này tiếp
tục được kế thừa trong các bản Hiến pháp 1959, 1980, 1992, 2013 và cụ
thể hóa trong các văn bản luật và dưới luật. Hàng loạt các văn bản pháp
luật của Nhà nước đã được ban hành nhằm nâng cao vị thế của phụ nữ
trong xã hội và thực hiện bình đẳng giới như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao
động, Luật Hôn nhân và Gia đình, Pháp lệnh Dân số, Luật Bình đẳng giới,
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Có thể thấy hệ thống luật pháp,
chính sách về phụ nữ ngày càng được hoàn thiện, đặc biệt, với việc ban
hành Hiến pháp 2013, quyền con người trong đó có quyền của phụ nữ
được khẳng định là động lực quan trọng để phát triển xã hội. Cùng với
việc ban hành pháp luật, Việt Nam đã phê chuẩn và gia nhập Tuyên ngôn
toàn thế giới về nhân quyền năm 1948 và hầu hết các điều ước quốc tế cơ
bản về quyền con người, trong đó có các công ước liên quan đến các quyền
của phụ nữ như: Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1966),
Công ước về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1966, Công ước về xóa bỏ
mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (1979, CEDAW); Công
ước quốc tế về quyền của người khuyết tật.
27 trang |
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 434 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Thực hiện pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ THU HÀ
THùC HIÖN PH¸P LUËT
VÒ QUYÒN CHÝNH TRÞ §èI VíI PHô N÷
ë VIÖT NAM HIÖN NAY
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 62 38 01 01
HÀ NỘI - 2018
Công trình được hoàn thành tại
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. NGUYỄN THỊ BÁO
2. TS. LÊ ĐINH MÙI
Phản biện 1
Phản biện 2
Phản biện 3
Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án
cấp Học viện họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Vào hồi ngày tháng năm 2018
Có thể tìm hiểu luận án tại Thư viện Quốc gia
và Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở Việt Nam, quan tâm đến công tác nữ là quan điểm nhất quán của
Đảng và Nhà nước ta trong suốt quá trình cách mạng. Trong Di chúc, Chủ
tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã viết: Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước,
phụ nữ đảm đang ta đã góp phần xứng đáng trong chiến đấu và trong sản
xuất. Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất
nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả
công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một
cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ.
Đặc biệt, trong thời kỳ đổi mới, chủ trương của Ðảng về bình đẳng
giới và trao quyền cho phụ nữ được thể hiện xuyên suốt trong các Nghị
quyết Ðại hội Ðảng, các nghị quyết và chỉ thị của Trung ương Ðảng, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư về công tác quần chúng, công tác vận động phụ nữ,
công tác cán bộ nữ. Từ chủ trương của Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều
chính sách, pháp luật cụ thể nhằm tạo điều kiện để phụ nữ phát triển và
thúc đẩy bình đẳng giới, trong đó quan trọng nhất là bảo đảm và tạo điều
kiện để phụ nữ Việt Nam thực hiện quyền chính trị.
Quyền bình đẳng nam nữ đã được xác định ngay từ Hiến pháp đầu
tiên năm 1946 của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Vấn đề này tiếp
tục được kế thừa trong các bản Hiến pháp 1959, 1980, 1992, 2013 và cụ
thể hóa trong các văn bản luật và dưới luật. Hàng loạt các văn bản pháp
luật của Nhà nước đã được ban hành nhằm nâng cao vị thế của phụ nữ
trong xã hội và thực hiện bình đẳng giới như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao
động, Luật Hôn nhân và Gia đình, Pháp lệnh Dân số, Luật Bình đẳng giới,
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình... Có thể thấy hệ thống luật pháp,
chính sách về phụ nữ ngày càng được hoàn thiện, đặc biệt, với việc ban
hành Hiến pháp 2013, quyền con người trong đó có quyền của phụ nữ
được khẳng định là động lực quan trọng để phát triển xã hội. Cùng với
việc ban hành pháp luật, Việt Nam đã phê chuẩn và gia nhập Tuyên ngôn
toàn thế giới về nhân quyền năm 1948 và hầu hết các điều ước quốc tế cơ
bản về quyền con người, trong đó có các công ước liên quan đến các quyền
của phụ nữ như: Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1966),
Công ước về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1966, Công ước về xóa bỏ
mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (1979, CEDAW); Công
ước quốc tế về quyền của người khuyết tật...
2
Pháp luật Việt Nam về cơ bản đã nội luật hóa các chuẩn mực quốc tế
về quyền con người trong đó có quyền chính trị của phụ nữ, phù hợp cùng
với xu thế phát triển chung của nhân loại và đặc thù của Việt Nam nên đã
tạo động lực giúp người phụ nữ vươn lên, khắc phục khó khăn, trở ngại
đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra, khẳng định vị thế của mình trong gia đình
và ngoài xã hội. Kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XIV, phụ nữ
chiếm 26,6% trong tổng số đại biểu. Đây là tỷ lệ cao qua các kỳ bầu cử
Quốc hội và đã đưa Việt Nam thuộc hàng nước có tỷ lệ nữ đại biểu trong
cơ quan lập pháp cao nhất châu Á cũng như trên thế giới (trên 25%). Tỷ lệ
nữ đại biểu Quốc hội nước ta cao hơn hẳn so với Trung Quốc, Ấn Độ,
Nhật Bản và nhiều nước trong khu vực. Theo Liên minh các Nghị viện,
Việt Nam đứng thứ 37 trong tổng số 188 nước trên thế giới về tỷ lệ phụ nữ
trong cơ quan lập pháp (số liệu tính đến ngày 31/01/2011 trên cơ sở báo
cáo của cơ quan lập pháp các nước).
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được trong việc đảm bảo
cho phụ nữ được thực hiện các quyền do pháp luật quy định, cần phải thừa
nhận rằng công tác thực hiện pháp luật (THPL) về các quyền của phụ nữ
trong đó có quyền chính trị vẫn còn nhiều hạn chế. Mặc dù, Việt Nam xếp
thứ hạng cao trên thế giới về tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội nhưng vẫn còn
khoảng cách khá lớn giữa tỷ lệ nam và nữ (73,4% và 26,6%); đặc biệt là tỷ
lệ phụ nữ nắm giữ các vị trí lãnh đạo chủ chốt (cấp trưởng). Vẫn còn
những rào cản từ phía gia đình, xã hội đối với phụ nữ khi tham gia công
tác xã hội, chính trị. Tỉ lệ phụ nữ tham chính vẫn còn chưa đạt được yêu
cầu đề ra; sự phân biệt đối xử về cơ hội thăng tiến trong nghề nghiệp của
phụ nữ dẫn đến hẫng hụt đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nữ vẫn là thách
thức lớn; pháp luật về quyền chính trị và THPL về quyền chính trị của phụ
nữ ở nước ta còn chưa được nhận thức đầy đủ như là một công cụ để quản lý
xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho phụ nữ. Tình trạng vi phạm
pháp luật đối với phụ nữ, nhất là vi phạm quy định pháp luật về quyền chính
trị của phụ nữ vẫn còn diễn ra ở một số nơi là cản trở quá trình phát huy dân
chủ, tăng cường pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
(XHCN), đi ngược lại bản chất tốt đẹp của xã hội chúng ta đang xây dựng.
Những tồn tại, hạn chế nêu trên là do các nguyên nhân như: Hệ thống
pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ còn thiếu đồng bộ và tính khả thi
chưa cao; nhận thức về chính sách pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ
của các chủ thể còn chưa đầy đủ; năng lực THPL của các chủ thể còn hạn
3
chế; công tác chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc THPL còn chậm, thiếu kiên
quyết trong xử lý dẫn đến việc thực hiện không đúng, đủ.
Vấn đề đặt ra là tại sao Việt Nam được đánh giá là một trong những
quốc gia có hệ thống pháp luật tốt nhìn từ góc độ bình đẳng giới, nhưng tỉ
lệ phụ nữ tham chính có chiều hướng giảm, sự hẫng hụt về nguồn cán bộ
nữ tham gia cấp ủy nhiệm kỳ 2015-2020, kể cả nhiệm kỳ 2020-2025 đang
là thực tế ở tất cả các cấp; tiếng nói của phụ nữ trong các lĩnh vực quan
trọng của đất nước chưa được chú trọng... Điều này đặt ra yêu cầu phải
nghiên cứu để tìm ra những kết quả, hạn chế và nguyên nhân kết quả, hạn
chế trong THPL để kiến nghị giải pháp đảm bảo THPL về quyền chính trị
của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay là cần thiết.
Vì vậy, nghiên cứu sinh chọn đề tài: "Thực hiện pháp luật về quyền
chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay" để nghiên cứu trong phạm vi
luận án tiến sĩ luật học, chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Từ việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn việc THPL về quyền chính trị
đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay, luận án luận giải, xác định các quan
điểm và giải pháp đảm bảo THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt
Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận án thực hiện các nhiệm vụ sau:
Một là, phân tích, làm rõ khái niệm quyền chính trị, pháp luật về
quyền chính trị của phụ nữ; Chủ thể, nội dung, hình thức, vai trò, các yếu
tố bảo đảm THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ; rút ra những gợi mở
đối với Việt Nam từ nghiên cứu kinh nghiệm THPL về quyền chính trị đối
với phụ nữ một số nước thế giới.
Hai là, phân tích chỉ ra những kết quả, hạn chế, nguyên nhân của kết
quả, hạn chế của pháp luật và THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở
Việt Nam hiện nay.
Ba là, luận giải, xác định các quan điểm và đề xuất các giải pháp bảo
đảm thực THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Dưới góc độ lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, luận án nghiên
cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật và THPL về quyền chính
4
trị đối với phụ nữ. Từ đó, luận án luận chứng những cơ sở khoa học và đề
xuất các quan điểm, giải pháp đảm bảo THPL về quyền chính trị đối với
phụ nữ ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Nghiên cứu việc THPL về quyền chính trị đối
với phụ nữ ở Việt Nam.
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu trên lãnh thổ Việt Nam.
- Phạm vi thời gian: Nghiên cứu pháp luật và THPL về quyền chính
trị đối với phụ nữ từ năm 1945 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước và pháp luật, về quyền con người, quyền công dân;
chủ trương, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về bình đẳng
giới và quyền chính trị của phụ nữ, về giải quyết các vấn đề xã hội, xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật, phát huy nhân tố con người; bảo đảm quyền con người,
quyền công dân trong đó có quyền chính trị của phụ nữ trong xu thế hội
nhập và phát triển hiện nay.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong Chương 1, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu tư liệu thứ
cấp, phân tích và tổng hợp được sử dụng để thu thập thông tin từ các
nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu THPL về quyền chính trị đối
với phụ nữ ở nước ta hiện nay.
Trong Chương 2, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích,
đánh giá để xây dựng các khái niệm; phương pháp phân tích, tổng hợp
dùng để nghiên cứu chủ thể, nội dung, hình thức và các yếu tố bảo đảm
THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở nước ta hiện nay; phương pháp
luật học so sánh được sử dụng để tham chiếu giữa các chuẩn mực quốc tế
và kinh nghiệm về THPL về quyền chính trị của đối với phụ nữ ở một số
nước trên thế giới và những giá trị có thể tham khảo đối với Việt Nam.
Trong Chương 3, tác giả sử dụng phương pháp thống kê, nhằm đánh
giá việc THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở nước ta hiện nay, đồng
thời đánh giá, phân tích những kết quả, hạn chế, nguyên nhân của những
kết quả, hạn chế, từ đó tác giả làm sáng tỏ nội dung của Luận án.
5
Trong Chương 4, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích,
tổng hợp để đưa ra các quan điểm, giải pháp có căn cứ khoa học góp phần
bảo đảm THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở nước ta hiện nay.
5. Những điểm mới của luận án
5.1. Về phương diện lý luận
- Luận án đã xây dựng được khái niệm, làm rõ chủ thể, nội dung,
hình thức, vai trò và các yếu tố đảm bảo THPL về quyền chính trị đối với
phụ nữ.
- Từ nghiên cứu các chuẩn mực quốc tế về quyền chính trị của phụ
nữ, kinh nghiệm THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ của một số nước
trên thế giới, rút ra những gợi mở đối với Việt Nam.
5.1. Về phương diện thực tiễn
- Luận án là công trình đầu tiên đánh giá rõ thực trạng pháp luật và
THPL về quyền chính trị của phụ nữ, phân tích chỉ ra những ưu điểm, hạn
chế và nguyên nhân của ưu điểm, hạn chế trong THPL về quyền chính trị
đối với phụ nữ ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay.
- Luận án luận chứng các quan điểm, đề xuất các giải pháp bảo đảm
THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Luận án góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về
THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam, luận án là tài liệu
tham khảo trong quá trình sửa đổi, bổ sung, ban hành các văn bản pháp
luật về quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam.
- Luận án cung cấp luận cứ khoa học và tài liệu cho các cơ quan
trong hệ thống chính trị (HTCT), các tổ chức xã hội thực hiện giáo dục
nâng cao ý thức pháp luật, tổ chức THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ
ở Việt Nam.
- Luận án được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên
cứu giảng dạy, học tập về pháp luật về quyền con người nói chung, pháp
luật về quyền của phụ nữ nói riêng trong các cơ sở đạo tạo chuyên luật và
không chuyên luật.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận án gồm 04 chương, 09 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI
Qua khảo sát, đánh giá kết quả nghiên cứu về THPL và THPL về
quyền chính trị đối với phụ nữ cho thấy, có rất nhiều các công trình khoa
học được thể hiện dưới các hình thức khác nhau nghiên cứu các khía cạnh
của quyền chính trị, quyền chính trị của phụ nữ và cả việc bảo đảm THPL
về quyền chính trị đối với phụ nữ. Tuy nhiên, ở nước ta chưa có công trình
nào nghiên cứu toàn diện, có hệ thống về THPL về quyền chính trị đối với
phụ nữ ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Việc nghiên cứu cơ sở lý
luận và thực tiễn tình hình THPL nói chung, THPL về quyền chính trị đối
với phụ nữ ở Việt Nam nói riêng còn là lĩnh vực chưa có sự quan tâm,
nghiên cứu một cách đúng mức. Đây chính là điểm hạn chế, khoảng trống
còn bỏ ngỏ trong nghiên cứu khoa học pháp lý cũng như khoa học về
quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay.
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
Luận án nghiên cứu cơ sở lý luận của THPL về quyền chính trị đối
với phụ nữ, trong đó tập trung phân tích luận giải các vấn đề cơ bản khái
niệm, chủ thể, nội dung, hình thức, vai trò, các yếu tố đảm bảo THPL về
quyền chính trị đối với phụ nữ; Luận án tập trung phân tích đánh giá
những nội dung về thực trạng THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở
Việt Nam hiện nay; phân tích, hệ thống hóa và xây dựng các quan điểm
chỉ đạo, đề xuất các giải pháp để xử lý nguyên nhân và khắc phục những
hạn chế, yếu kém nhằm bảo đảm THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ
ở Việt Nam hiện nay.
Với các kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan
và dựa trên các lý thuyết sẵn có, luận án đặt ra giả thuyết nghiên cứu như
sau: Thực hiện pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam
hiện nay còn rất nhiều hạn chế. Trước yêu cầu thực tiễn của đời sống xã
hội và yêu cầu nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN đòi hỏi
phải nâng cao chất lượng thực hiện các quy định của pháp luật. Yêu cầu
nhận thức pháp luật và thực hiện pháp luật một cách đúng đắn là những
yếu tố quyết định bảo đảm THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ.
7
Từ đó, luận án đặt ra các câu hỏi nghiên cứu quan trọng cần phải trả
lời: Hiểu thế nào là quyền chính trị, pháp luật về quyền chính trị, THPL về
quyền chính trị đối với phụ nữ? Pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ có
nội dung, đặc điểm, vai trò gì? Chủ thể nào có trách nhiệm THPL về
quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay? THPL về quyền
chính trị đối với phụ nữ có nội dung, hình thức, vai trò gì? Muốn bảo đảm
THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ cần những yếu tố nào? Nghiên
cứu THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở một số nước trên thế giới
có thể rút ra những giá trị tham khảo gì cho Việt Nam? Pháp luật Việt
Nam, THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ có những kết quả, hạn chế
gì? Có những nguyên nhân nào ảnh hưởng đến những kết quả, hạn chế đó?
Cần có quan điểm, giải pháp gì đề bảo đảm THPL về quyền chính trị ở
Việt Nam hiện nay?
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
QUYỀN CHÍNH TRỊ ĐỐI VỚI PHỤ NỮ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Tiết 1. KHÁI NIỆM QUYỀN CHÍNH TRỊ, PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN
CHÍNH TRỊ CỦA PHỤ NỮ, THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỂ QUYỀN
CHÍNH TRỊ ĐỐI VỚI PHỤ NỮ
2.1.1. Khái niệm quyền chính trị, pháp luật về quyền chính trị, nội
dung, đặc điểm, vai trò của pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ
- Trên cơ sở nghiên cứu các khái niệm trong và ngoài nước, nghiên
cứu sinh đưa ra các khái niệm: Quyền chính trị của phụ nữ là một trong
những quyền cơ bản trong hệ thống các quyền con người, được Nhà nước
ghi nhận trong các văn bản quy phạm pháp luật và bảo đảm thực hiện; nó xác
lập năng lực pháp lý của phụ nữ trong quá trình phụ nữ tham gia trực tiếp
hoặc gián tiếp vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội; Pháp luật về quyền
chính trị của phụ nữ là hệ thống quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban
hành và bảo đảm thực hiện; điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
quá trình bảo đảm quyền được tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quản
lý nhà nước, quản lý xã hội nhằm tạo điều kiện cho phụ nữ được hưởng
các quyền chính trị của mình và xây dựng một xã hội hướng đến mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Nội dung của pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ là đề cập tới
8
các quy phạm pháp luật cụ thể hướng đến mục tiêu xác lập và bảo vệ năng
lực và tư cách pháp lý bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị.
- Đặc điểm pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ: Pháp luật về
quyền chính trị của phụ nữ ghi nhận và thiết lập các biện pháp bảo đảm
quyền con người, quyền công dân; pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ
thể hiện trách nhiệm của Nhà nước đối với phụ nữ trong việc tạo điều kiện
và cơ hội cho phụ nữ bình đẳng như nam giới; pháp luật về quyền chính trị
của phụ nữ thể chế hóa quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước ta về phụ nữ.
- Vai trò của pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ: Thể chế hóa
đường lối, chủ trương và chính sách của Đảng về quyền chính trị của phụ
nữ; tạo cơ sở pháp lý vững chắc nhằm thực hiện và bảo vệ quyền chính trị
của phụ nữ; động viên, khuyến khích và tạo cơ sở pháp lý để phụ nữ đấu
tranh thực hiện quyền chính trị của mình.
2.1.2. Khái niệm thực hiện pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ
Nghiên cứu, tham khảo các quan điểm khoa học pháp lý hiện nay,
nghiên cứu sinh đưa ra khái niệm: Thực hiện pháp luật là tổng thể các hoạt
động có mục đích của các chủ thể pháp luật nhằm hiện thực hóa các quy
định của pháp luật thành các hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể qua
các hoạt động cụ thể nhằm phát huy vai trò của pháp luật trong điều chỉnh
các quan hệ xã hội; khái niệm: Thực hiện pháp luật về quyền chính trị đối
với phụ nữ Việt Nam hiện nay là tổng thể các hoạt động có mục đích của
các chủ thể nhằm hiện thực hóa pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ
trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thành các hành vi thực tế,
hợp pháp của các chủ thể qua các hoạt động cụ thể vì mục tiêu bảo đảm
cho phụ nữ được hưởng các quyền chính trị và phát huy năng lực, vai trò
trong xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
2.2. CHỦ THỂ, NỘI DUNG, HÌNH THỨC, VAI TRÒ VÀ CÁC YẾU
TỐ ĐẢM BẢO THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CHÍNH TRỊ ĐỐI
VỚI PHỤ NỮ
2.2.1. Chủ thể thực hiện pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ
Chủ thể THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ là các pháp nhân và
thể nhân trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia THPL về quyền chính trị đối với
phụ nữ, bao gồm: Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và các cơ quan
9
nhà nước cấu thành bộ máy nhà nước; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
đoàn thể nhân dân; phụ nữ Việt Nam và các chủ thể khác.
2.2.2. Nội dung thực hiện pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ
THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay gồm các nội dung sau đây:
Một là, Nhà nước nói chung và các cơ quan, người có thẩm quyền nói
riêng triển khai các hoạt động tổ chức thực hiện và đưa chính sách pháp luật
nói chung và đối với phụ nữ nói riêng vào cuộc sống, đến với phụ nữ và các
chủ thể.
Hai là, các cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền tổ chức thực
hiện các hoạt động áp dụng pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ và
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quá trình các chủ thể thực hiện quyền,
nghĩa vụ hoặc xử lý các tranh chấp, vướng mắc, vi phạm pháp luật hoặc
các sự kiện pháp lý khác phát sinh trong quá trình tổ chức thực hiện; khen
thưởng, tôn vinh các hành vi tích cực.
Ba là, tổ chức để các chủ thể, đặc biệt là phụ nữ THPL pháp luật về
quyền chính trị đối với phụ nữ, tạo thuận lợi và hỗ trợ các chủ thể trong