Hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế giữa khu vực và thế giới là một yêu cầu
tất yếu trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế Việt Nam. Cơ chế kinh tế
mới cũng đòi hỏi các doanh nghiệp phải cấp bách đổi mới và hoàn thiện công cụ
quản lý tài chính, trong đó việc hoàn thiện hệ thống kế toán được xem là một trong
những yêu cầu quan trọng nhất. Một hệ thống kế toán doanh nghiệp là sự tổng hoà
và kết hợp của nhiều bộ phận, yếu tố khác nhau. Hệ thống tài khoản kế toán có thể
được coi như “huyết mạch” của một hệ thống kế toán doanh nghiệp, nó có ảnh
hưởng chi phối đến hầu hết các thành phần khác của hệ thống kế toán đó. Do vậy,
trong quá trình hoàn thiện hệ thống kế toán doanh nghiệp, yêu cầu hoàn thiện hệ
thống tài khoản kế toán luôn được đặt ở vị trí quan trọng hàng đầu.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, tôi đã lựa chọn đề tài:
“Hoàn thiện hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp tại Việt Nam” để nghiên
cứu. Đây là một vấn đề có tính cấp thiết và có ý nghĩa thực tiễn quan trọng nhằm
đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu hạch toán kế toán của doanh nghiệp cũng như
nhu cầu quản lý của Nhà nước về tài chính, kế toán. Bố cục luận văn được chia
thành 3 chương:
Chương 1. Những lý luận cơ bản về hệ thống tài khoản kế toán doanh
nghiệp
Chương 2. Phân tích hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp hiện hành ở
Việt Nam
Chương 3. Giải pháp hoàn thiện hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp ở
Việt Nam
9 trang |
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 463 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tóm tắt Luận văn Hoàn thiện hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i
Hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế giữa khu vực và thế giới là một yêu cầu
tất yếu trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế Việt Nam. Cơ chế kinh tế
mới cũng đòi hỏi các doanh nghiệp phải cấp bách đổi mới và hoàn thiện công cụ
quản lý tài chính, trong đó việc hoàn thiện hệ thống kế toán được xem là một trong
những yêu cầu quan trọng nhất. Một hệ thống kế toán doanh nghiệp là sự tổng hoà
và kết hợp của nhiều bộ phận, yếu tố khác nhau. Hệ thống tài khoản kế toán có thể
được coi như “huyết mạch” của một hệ thống kế toán doanh nghiệp, nó có ảnh
hưởng chi phối đến hầu hết các thành phần khác của hệ thống kế toán đó. Do vậy,
trong quá trình hoàn thiện hệ thống kế toán doanh nghiệp, yêu cầu hoàn thiện hệ
thống tài khoản kế toán luôn được đặt ở vị trí quan trọng hàng đầu.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, tôi đã lựa chọn đề tài:
“Hoàn thiện hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp tại Việt Nam” để nghiên
cứu. Đây là một vấn đề có tính cấp thiết và có ý nghĩa thực tiễn quan trọng nhằm
đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu hạch toán kế toán của doanh nghiệp cũng như
nhu cầu quản lý của Nhà nước về tài chính, kế toán. Bố cục luận văn được chia
thành 3 chương:
Chương 1. Những lý luận cơ bản về hệ thống tài khoản kế toán doanh
nghiệp
Chương 2. Phân tích hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp hiện hành ở
Việt Nam
Chương 3. Giải pháp hoàn thiện hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp ở
Việt Nam.
Trong nội dung chương 1, trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu khoa học, tác
giả đưa ra khái niệm về tài khoản kế toán và hệ thống tài khoản kế toán.
Về khái niệm tài khoản kế toán đã tồn tại khá nhiều quan điểm khác nhau
được đưa ra. Các quan điểm này không đối lập hay loại trừ nhau mà chỉ thể hiện sự
phát triển về mặt lý luận cũng như nhận thức của con người về tài khoản. Các quan
điểm này thay đổi theo thời gian thể hiện sự thay đổi ý niệm của những người
nghiên cứu, giảng dạy. Về cơ bản, có thể kể đến hai quan điểm cơ bản về tài khoản
ii
sau:
Quan điểm thứ nhất, tài khoản kế toán là một trong hai hình thức biểu hiện
cụ thể của phương pháp tài khoản kế toán, một trong bốn phương pháp của hệ thống
phương pháp kế toán (gồm phương pháp chứng từ, phương pháp tính giá, phương
pháp tài khoản kế toán và phương pháp tổng hợp cân đối)
Quan điểm thứ hai, tài khoản kế toán là một trong hai yếu tố cấu thành của
phương pháp đối ứng tài khoản. Quan điểm nêu rõ, đối ứng tài khoản là phương
pháp thông tin và kiểm tra về sự vận động của tài sản, nguồn vốn trong quá trình
kinh doanh theo mối quan hệ biện chứng được phản ánh trong mỗi nghiệp vụ kinh
tế tài chính phát sinh thông qua việc sử dụng hệ thống tài khoản kế toán.
Về thực chất, hai luồng quan điểm nói trên không hề có sự mâu thuẫn hay
loại trừ lẫn nhau mà chỉ là cách thức nhìn nhận về cùng một đối tượng khác nhau.
So với các quan điểm về tài khoản kế toán, các quan điểm về hệ thống tài
khoản kế toán ở Việt Nam khá thống nhất, theo đó: “Hệ thống tài khoản kế toán là
toàn bộ các tài khoản kế toán được sử dụng trong hạch toán kế toán nhằm phản ánh
toàn bộ các đối tượng hạch toán kế toán của đơn vị theo một trật tự sắp xếp nhất
định”.
Hiện trên thế giới tồn tại hai xu hướng xây dựng hệ thống tài khoản kế toán.
Một là, xu hướng xây dựng một hệ thống tài khoản kế toán thống nhất áp dụng cho
mọi doanh nghiệp trong nền kinh tế. Hai là, xu hướng tự do, có nghĩa là các doanh
nghiệp tự xây dựng hệ thống tài khoản kế toán áp dụng cho đơn vị mình với điều
kiện cơ bản bắt buộc phải chấp hành, tuân thủ theo một hệ thống chuẩn mực kế toán
trong nước hoặc chuẩn mực kế toán quốc tế. Tác giả đã dẫn chứng hai nước đại diện
cho hai xu hướng xây dựng hệ thống tài khoản kế toán nói trên là nước Pháp (đại
diện cho xu hướng xây dựng hệ thống tài khoản kế toán thống nhất) và nước Mỹ
(đại diện cho xu hướng xây dựng hệ thống tài khoản kế toán tự do trên cơ sở chuẩn
mực kế toán), để từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm về thành công cũng như
một số hạn chế trong quá trình xây dựng hệ thống tài khoản kế toán của các nước
nói trên trong việc xây dựng hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp tại Việt Nam.
iii
Ở chương 2, tác giả đi sâu phân tích hệ thống tài khoản kế toán doanh
nghiệp hiện hành ở Việt Nam.
Trước khi đi vào phân tích hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp hiện
hành ở Việt Nam, tác giả đã khái quát lịch sử hình thành hệ thống tài khoản kế toán
doanh nghiệp trong từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế với những bước phát
triển phù hợp, đáp ứng được yêu cầu cung cấp thông tin cho các đối tượng sử dụng
trong từng thời kỳ và phù hợp với sự phát triển của cơ chế quản lý kinh tế đối với
các doanh nghiệp ở nước ta.
Thực trạng hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp Việt Nam được
phân tích qua các thời kỳ:
- Hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp thời kỳ trước đổi mới nền kinh
tế
Trong giai đoạn này, nền kinh tế nước ta còn mang nặng dấu ấn của cơ chế
kế hoạch hoá tập trung bao cấp. Hệ thống tài khoản kế toán trong thời kỳ này hoàn
toàn phù hợp với cơ chế tài chính bao cấp, được thể hiện ở các điểm:
Một là, thông qua hệ thống tài khoản kế toán thống nhất, thông tin được
cung cấp cho các cơ quan quản lý cấp trên của xí nghiệp và cơ quan quản lý chức
năng của Nhà nước để thực hiện kiểm tra, kiểm soát tình hình quản lý và sử dụng tài
sản trong xí nghiệp.
Hai là, trình độ quản lý trong giai đoạn này còn thấp, việc đánh ký hiệu chỉ
nhằm mục đích là dễ nhớ khi sử dụng
Ba là, do giai đoạn này Nhà nước chiếm vai trò chủ đạo trong mọi hoạt động
trong nền kinh tế nên qua hệ các tài khoản tiền vay và các tài khoản tiền gửi ngân
hàng chúng ta có thể thấy rõ sự chi phối của Nhà nước như thế nào.
Bên cạnh đó, hệ thống tài khoản kế toán trong thời kỳ này được xây dựng
theo ngành quản lý; được xây dựng phù hợp với hình thức sở hữu xí nghiệp quốc
doanh và tập thể
Như vậy, hệ thống tài khoản kế toán trong giai đoạn này tuy còn nhiều nhược
điểm, chưa thể phát huy được tính chủ động và sáng tạo trong công tác kế toán và
iv
quản lý nhưng hoàn toàn thích ứng với cơ chế quản lý và trình độ cán bộ thời cơ chế
kế hoạch hoá tập trung bao cấp
- Hệ thống tài khoản kế toán tại các doanh nghiệp giai đoạn 10 năm sau
đổi mới nền kinh tế (1986 - 1995)
Với cơ chế quản lý mới thì Nhà nước chỉ đóng vai trò là chủ sở hữu vốn của
doanh nghiệp Nhà nước, còn chức năng quản lý kinh doanh ở các doanh nghiệp đã
thực sự thuộc về lãnh đạo của doanh nghiệp
Hệ thống tài khoản trong thời kỳ này phù hợp với cơ chế thị trường có sự
điều tiết vĩ mô của Nhà nước, được thể hiện như sau:
Thứ nhất, hệ thống tài khoản trong thời kỳ này có tính kế thừa từ hệ thống
tài khoản trong thời kỳ trước
Thứ hai, trong cơ chế quản lý mới của nền kinh tế, doanh nghiệp phải tự
chịu trách nhiệm về bảo toàn và phát triển vốn, nên hệ thống tài khoản thời kỳ này
đã bổ sung thêm tài khoản chênh lệch tỷ giá và hệ số giá, quỹ dự phòng tài chính,
các tài khoản nguồn vốn được chi tiết để theo dõi vốn pháp định
Thứ ba, qua hệ tài khoản tiền gửi ngân hàng chúng ta có thể thấy cơ quan
chức năng Nhà nước và đơn vị chủ quản không còn can thiệp sâu vào hoạt động của
các doanh nghiệp
Thứ tư, với mục tiêu hướng tới nền kinh tế mở cửa, hệ thống tài khoản kế
toán được bổ sung thêm các tài khoản để theo dõi ngoại tệ hiện có và tình hình liên
doanh, liên kết ở các doanh nghiệp
Ngoài ra, hệ thống tài khoản kế toán chưa cung cấp đầy đủ thông tin cho các
đối tượng bên ngoài doanh nghiệp như các nhà đầu tư tài chính, các nhà cung cấp
tín dụng
Như vậy, kể từ khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, các chỉ tiêu tài chính và công tác quản lý ngày càng được
coi trọng
- Hệ thống tài khoản kế toán tại các doanh nghiệp từ năm 1995 đến nay
Để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường, yêu cầu của nền kinh tế mở
v
cùng với sự hoà nhập với chuẩn mực và thông lệ phổ biến của kế toán các nước trên
thế giới, Bộ Tài chính đã ban hành chế độ kế toán doanh nghiệp theo Quyết định
1141/TC/QĐ/CĐKT ngày 01/11/1995. Quyết định số 1141 được áp dụng chủ yếu
trong các doanh nghiệp có quy mô lớn nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin cho đối
tượng bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. So với hệ thống tài khoản kế toán của
giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới là Quyết định số 212/TC/CĐKT ngày 15/12/1989
thì hệ thống tài khoản kế toán theo Quyết định 1141 có những đặc trưng nổi bật: về
số lượng tài khoản tổng hợp đã tăng lên đáng kể so với trước; về ký hiệu và tên gọi
của tài khoản đã có sự thống nhất trong việc sử dụng ký hiệu và tên gọi; về trật tự
sắp xếp của tài khoản: hệ thống tài khoản kế toán được sắp xếp theo nguyên tắc cân
đối giữa giá trị tài sản và nguồn hình thành tài sản. Do vậy, hệ thống tài khoản kế
toán theo Quyết định 1141 đã hướng chủ yếu vào việc thu thập thông tin, thuận lợi
cho công tác lập báo cáo tài chính.
Tuy nhiên về cơ bản, chế độ kế toán theo Quyết định 1141 vẫn còn tồn tại
nhiều hạn chế do tính mở của tài khoản chưa cao cũng như chưa thể đáp ứng được
đầy đủ nhu cầu thông tin cho quản lý và để phù hợp với tình hình thực tế phát triển
của nhiều thành phần kinh tế trong nền kinh tế, Bộ Tài chính đã ban hành hai quyết
định có giá trị thực tiễn trong công tác kế toán tại các doanh nghiệp đó là Quyết
định số 15/2006/QĐ-BTC ngày 20/3/2006 về việc ban hành chế độ kế toán doanh
nghiệp và Quyết định số 48/2006/QĐ-BTC ngày 14/9/2006 về việc ban hành chế độ
kế toán doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Có thể khẳng định, Quyết định 15/2006 ra đời là sự tổng hợp và hoàn thiện
Chế độ kế toán doanh nghiệp Việt Nam giúp cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế, thuộc mọi lĩnh vực hoạt động có thể nhất thể hoá công tác kế toán
nhằm nâng cao tính minh bạch trong công tác kế toán, tài chính của doanh nghiệp
và nhằm đảm bảo tính so sánh trong nền kinh tế quốc dân. Và Quyết định 48/2006
về việc ban hành chế độ kế toán doanh nghiệp nhỏ và vừa đã đáp ứng được tình
hình thực tế tại Việt Nam trong việc đơn giản hoá công tác kế toán mà vẫn đảm bảo
được chức năng quản lý kế toán, thuế trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đồng
vi
thời, chế độ kế toán này cũng góp phần làm tăng khả năng hài hoà hoá và theo kịp
chuẩn mực kế toán quốc tế của Việt Nam. Nó cũng là kết quả của những cuộc hội
thảo về Chuẩn mực kế toán doanh nghiệp nhỏ và vừa do Liên đoàn kế toán quốc tế
tổ chức, trong đó Việt Nam cũng là một thành viên tích cực.
Đồng thời, tác giả đã trình bày những điểm khác biệt cơ bản giữa Quyết định
số 15/2006 và Quyết định số 48/2006 nêu trên về: áp dụng hệ thống chuẩn mực kế
toán Việt Nam; về đối tượng áp dụng; về hệ thống tài khoản kế toán; về báo cáo tài
chính; về mẫu báo cáo tài chính năm; về chứng từ kế toán và về chế độ sổ kế toán.
Trên cơ sở phân tích hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp Việt Nam qua
các thời kỳ, tác giả đi vào đánh giá hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp Việt
Nam hiện hành. Nhìn chung, hệ thống tài khoản kế toán ban hành theo Quyết định
số 48/2006/QĐ-BTC và Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài
chính vừa khá đơn giản, dễ thực hiện, phù hợp với quy mô và trình độ quản lý của
phần lớn doanh nghiệp
Để thực hiện tốt chức năng thông tin và kiểm tra đòi hỏi hệ thống tài khoản
kế toán phải được xây dựng có căn cứ khoa học, phải phản ánh được tình hình tài
sản, nguồn vốn trên các phương diện và mức độ khác nhau, nhằm cung cấp thông
tin để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn nói riêng và hiệu quả kinh doanh nói chung
trong doanh nghiệp. Bên cạnh đó, hệ thống tài khoản kế toán phải phản ánh được
tính liên hoàn của quá trình kinh doanh và có thể thay đổi theo từng thời kỳ, từng
giai đoạn phát triển kinh tế của đất nước.
Với yêu cầu nêu trên, hệ thống tài khoản kế toán hiện nay được ban hành
theo Quyết định số 15/2006 và Quyết định số 48/2006 vẫn còn một số tồn tại chủ
yếu sau cần được hoàn thiện:
Thứ nhất, về tên gọi tài khoản kế toán
Tên gọi một số tài khoản hiện nay còn chưa phù hợp với nội dung kinh tế mà
nó phản ánh
Thứ hai, về số hiệu và nội dung phản ánh của tài khoản kế toán
Ngoài việc thiếu thống nhất về nội dung phản ánh tài khoản kế toán. Điều
vii
này gây khá nhiều khó khăn cho các cơ quan quản lý trong việc kiểm tra, giám sát
tình hình tài chính doanh nghiệp, một số tài khoản có cùng số hiệu, cùng tên gọi
nhưng nội dung phản ánh là khác nhau
Thứ ba, về trình tự sắp xếp tài khoản
Trong hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp hiện nay, sắp xếp các tài
khoản kế toán vẫn chưa tuân thủ nguyên tắc: tài khoản phản ánh tài sản được xếp
theo mức độ khả thanh hay khả năng chuyển đổi thành tiền
Thứ tư, về phân nhóm tài khoản còn kồng kềnh, tạo cảm giác nặng nề cho hệ
thống tài khoản kế toán
Thứ năm, về xác định thu nhập chịu thuế
Hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp hiện hành chưa thể cung cấp chính
xác thông tin giúp cho các doanh nghiệp xác định được thu nhập chịu thuế từ một
hay một số tài khoản nào đó.
Để cụ thể hóa các tồn tại nêu trên trong việc vận dụng hệ thống tài khoản kế
toán doanh nghiệp hiện hành, tác giả đã trình bày thực trạng hệ thống tài khoản kế
toán doanh nghiệp tại một số doanh nghiệp: kinh doanh dịch vụ viễn thông (Công ty
thông tin di động VMS Mobifone); kinh doanh hoạt động đầu tư tài chính (Công ty
CP Đầu tư và Tư vấn Tài chính Dầu khí Việt Nam PVFC Invest); kinh doanh dịch
vụ vận chuyển hành khách Công ty Cổ phần Taxi Mai Linh (Mai Linh Group) để
làm dẫn chứng minh họa việc vận dụng hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp
hiện hành.
Qua phân tích hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp hiện hành ở Việt
Nam, trong chương 3, tác giả đã đưa ra một số giải pháp và điều kiện thực hiện giải
pháp hoàn thiện hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp Việt Nam
Theo đó, yêu cầu hoàn thiện hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp phải
đáp ứng các yêu cầu cơ bản sau:
Một là, phải đảm bảo sự tuân thủ về chế độ kế toán, chuẩn mực kế toán -
kiểm toán, văn bản pháp luật về doanh nghiệp cũng như các vấn đề có tính chất
thông lệ quốc tế
viii
Hai là, hệ thống tài khoản kế toán phải có tính khoa học, đồng bộ về số hiệu,
tên gọi và nội dung ghi chép trên các tài khoản
Ba là, hệ thống tài khoản kế toán phải được chia thành từng loại, từng nhóm,
từng tài khoản với số hiệu và tên gọi dễ nhớ, dễ nhận biết giữa hình thức pháp lý và
bản chất kinh tế của đối tượng ghi trên tài khoản
Bốn là, hệ thống tài khoản kế toán khi vận dụng tại các doanh nghiệp phải có
tính mở để thích ứng với các nghiệp vụ kinh tế sẽ phát sinh trong tương lai.
Các giải pháp hoàn thiện gồm có:
Thứ nhất, hoàn thiện về mặt số lượng tài khoản kế toán
Hệ thống tài khoản kế toán phải phù hợp với tính đa dạng của các loại hình
doanh nghiệp, đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế tài chính của Nhà nước đối với
doanh nghiệp và yêu cầu cung cấp các thông tin kinh tế tài chính cho các đối tượng
sử dụng thông tin (bao gồm các đối tượng sử dụng thông tin bên trong doanh nghiệp
và đối tượng sử dụng thông tin bên ngoài doanh nghiệp).
Điều đó có nghĩa là, hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp phải đáp ứng
được đồng thời yêu cầu của cả kế toán tài chính và kế toán quản trị (mục đích quản
trị nội bộ doanh nghiệp). Như vậy, cần bổ sung và hoàn thiện hệ thống tài khoản kế
toán doanh nghiệp hiện hành (Quyết định số 15/2006 và Quyết định số 48/2006)
bao gồm các tài khoản cấp I theo yêu cầu của kế toán tài chính và các tài khoản cấp
II và cấp III theo yêu cầu của kế toán quản trị.
Theo tác giả, giải pháp này sẽ góp phần thu hẹp khoảng cách giữa kế toán tài
chính với kế toán quản trị và với những người ra quyết định kinh doanh.
Thứ hai, thống nhất tên gọi của các tài khoản kế toán trong hệ thống tài
khoản kế toán
Tên gọi của một số tài khoản hiện nay theo chế độ kế toán hiện hành còn
chưa phù hợp với nội dung kinh tế mà nó phản ánh. Do vậy, cần thống nhất tên gọi
của các tài khoản kế toán trong hệ thống nhằm đảm bảo tính thống nhất, tránh sự
nhầm lẫn giữa tên gọi với nội dung kinh tế mà tài khoản phản ánh.
ix
Thứ ba, hoàn thiện nội dung và phương pháp phản ánh của một số tài
khoản kế toán
Nội dung phản ánh của các tài khoản kế toán được quy định chi tiết theo chế
độ kế toán hiện hành là hướng dẫn chi tiết giúp người làm công tác kế toán thực
hiện phản ánh và ghi chép các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh. Tuy nhiên, nội
dung phản ánh của một số tài khoản kế toán hiện nay lại thiếu sự thống nhất. Do
vậy, tài khoản kế toán nhất thiết phải thống nhất về nội dung và cách thức phản ánh.
Có như vậy mới thuận tiện cho người làm công tác kế toán cũng như cho các cơ
quan hữu quan trong việc kiểm tra, thanh tra tài chính và chỉ đạo nghiệp vụ kế toán.
Thứ tư, hoàn thiện trật tự sắp xếp của tài khoản kế toán
Một trong những nguyên nhân khiến cho nhiều doanh nghiệp nhất là những
doanh nghiệp nhỏ và vừa thường xuyên chậm trễ trong việc lập, nộp báo cáo tài
chính một phần là do việc sắp xếp hệ thống tài khoản kế toán chưa thực sự gắn với
việc thu thập thông tin cung cấp cho việc lập báo cáo tài chính.
Nhằm đảm bảo tính khoa học, logic và thuận tiện cho quá trình sử dụng cần
phải thống nhất trình tự hay trật tự sắp xếp các tài khoản kế toán. Đồng thời, để
thuận tiện cho việc lập báo cáo tài chính định kỳ được chính xác, nhất thiết phải sắp
xếp trật tự các tài khoản kế toán theo từng loại trên cơ sở thu thập cung cấp thông
tin cho việc lập các báo cáo tài chính cơ bản định kỳ
Cuối cùng là điều kiện thực hiện giải pháp hoàn thiện đứng trên hai phương
diện: về phía Nhà nước và về phía doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện cho công tác
hoàn thiện hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp đạt hiệu quả cao.