Tóm tắt Luận văn Hoàn thiện nội dung và phương pháp phân tích Báo cáo tài chính của các Doanh nghiệp niêm yết tại các Công ty chứng khoán trên địa bàn Hà Nội

Sáu tháng đầu năm 2009 đã qua với nhưng diễn biễn phức tạp của nền kinh tế thế giới và Việt Nam. Mở đầu năm, nền kinh tế toàn cầu bước vào giai đoạn khó khăn nhất kể từ sau chiến tranh thế giới thứ 2 với nhiều nền kinh tế lớn như Mỹ, Nhật Bản, Anh và các nước trong khối EU rơi vào suy thoái nghiêm trọng, đến gần cuối quý II các tín hiệu vĩ mô trở nên tích cực hơn và nền kinh tế thế giới bắt đầu nhìn thấy ánh sáng phía cuối đường hầm. Tình hình kinh tế bi đát với viễn cảnh kinh tế không mấy sáng sủa ở giai đoạn đầu năm 2009 đã khiến hàng loạt chỉ số chứng khoán ở các nước trên thế giới và Việt Nam rơi vào vòng xoáy mất điểm. Tuy nhiên, khi các tín hiệu kinh tế vĩ mô vẫn còn đang hết sức bi quan, thị trường chứng khoán đã sớm tạo đáy và đi lên. Khi các tín hiệu vĩ mô trở nên rõ ràng hơn thì thị trường lại điều chỉnh, một phần do những động thái chính sách do lo ngại áp lực lạm phát, một phần do kinh tế vĩ mô đã hồi phục chậm hơn kỳ vọng của các nhà đầu tư . Hiện tại, cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính toàn cầu với những hệ lụy của nó vẫn còn những ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế các quốc gia trong đó có Việt Nam. Bên cạnh đó, Việt nam còn có những vấn đề cần phải đối mặt như cải thiện hiệu quả đầu tư, cải thiện môi trường kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế .Tuy nhiên những tín hiệu lạc quan ban đầu cho thấy giai đoạn khó khăn nhất đã ở sau lưng. Giờ đây nền kinh tế Việt Nam đang nỗ lực hướng tới một viễn cảnh tương sáng hơn và mở ra nhiều cơ hội cho những ai biết tận dụng. Để duy trì một thị trường chứng khoán phát triển ổn định ngoài sự can thiệp của Chính phủ bằng các chính sách vĩ mô thì một điều không thể thiếu đó là cần nâng cao trình độ nhận thức cũng như kiến thức về chứng khoán cho các nhà đầu tư cũng như các nhân viên công ty chứng khoán – người tư vấn, hỗ trợ trực tiếp cho các nhà đầu tư trong việc đầu tư, kinh doanh chứng khoán. Trong đó quantrọng là kiến thức và kỹ năng phân tích các mã cổ phiếu; trong khi phân tích kỹ thuật giúp cho việc tìm thời điểm thích hợp để bắt đầu việc mua và bán chứng khoán; phân tích cơ bản là công cụ giúp cho việc đánh giá được cái cốt lõi hay chất của mỗi cổ phiếu, biết được cổ phiếu nào tốt, xấu thì phân tích báo cáo tài chính là công cụ cuối cùng để chọn ra những mã cổ phiếu tốt để đầu tư. Các chuyên gia đã kết luận rằng nhà đầu tư chuyên nghiệp muốn thành công trên thị trường chứng khoán thì không thể thiếu được khả năng phân tích báo cáo tài chính. Trong bối cảnh kinh tế hiện nay, thị trường chứng khoán đang gặp nhiều khó khăn, các Công ty Chứng khoán luôn phải cạnh tranh với nhau đặc biệt là các công ty chứng khoán mới ra đời và các công ty chứng khoán đã lớn mạnh, nhiều kinh nghiệm (hiện nay có tổng số hơn 100 công ty chứng khoán được cấp phép hoạt động), thì việc đẩy mạnh hoạt động phân tích mã cổ phiếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh là một nhiệm vụ quan trọng mà Lãnh đạo Công ty Chứng khoán hết sức quan tâm. Xuất phát từ nhận thức trên, tôi cho rằng "Hoàn thiện nội dung và phương pháp phân tích báo cáo tài chính của các Doanh nghiệp niêm yết tại các Công ty chứng khoán trên địa bàn Hà Nội"

pdf12 trang | Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 477 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tóm tắt Luận văn Hoàn thiện nội dung và phương pháp phân tích Báo cáo tài chính của các Doanh nghiệp niêm yết tại các Công ty chứng khoán trên địa bàn Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Sáu tháng đầu năm 2009 đã qua với nhưng diễn biễn phức tạp của nền kinh tế thế giới và Việt Nam. Mở đầu năm, nền kinh tế toàn cầu bước vào giai đoạn khó khăn nhất kể từ sau chiến tranh thế giới thứ 2 với nhiều nền kinh tế lớn như Mỹ, Nhật Bản, Anh và các nước trong khối EU rơi vào suy thoái nghiêm trọng, đến gần cuối quý II các tín hiệu vĩ mô trở nên tích cực hơn và nền kinh tế thế giới bắt đầu nhìn thấy ánh sáng phía cuối đường hầm. Tình hình kinh tế bi đát với viễn cảnh kinh tế không mấy sáng sủa ở giai đoạn đầu năm 2009 đã khiến hàng loạt chỉ số chứng khoán ở các nước trên thế giới và Việt Nam rơi vào vòng xoáy mất điểm. Tuy nhiên, khi các tín hiệu kinh tế vĩ mô vẫn còn đang hết sức bi quan, thị trường chứng khoán đã sớm tạo đáy và đi lên. Khi các tín hiệu vĩ mô trở nên rõ ràng hơn thì thị trường lại điều chỉnh, một phần do những động thái chính sách do lo ngại áp lực lạm phát, một phần do kinh tế vĩ mô đã hồi phục chậm hơn kỳ vọng của các nhà đầu tư . Hiện tại, cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính toàn cầu với những hệ lụy của nó vẫn còn những ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế các quốc gia trong đó có Việt Nam. Bên cạnh đó, Việt nam còn có những vấn đề cần phải đối mặt như cải thiện hiệu quả đầu tư, cải thiện môi trường kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.Tuy nhiên những tín hiệu lạc quan ban đầu cho thấy giai đoạn khó khăn nhất đã ở sau lưng. Giờ đây nền kinh tế Việt Nam đang nỗ lực hướng tới một viễn cảnh tương sáng hơn và mở ra nhiều cơ hội cho những ai biết tận dụng. Để duy trì một thị trường chứng khoán phát triển ổn định ngoài sự can thiệp của Chính phủ bằng các chính sách vĩ mô thì một điều không thể thiếu đó là cần nâng cao trình độ nhận thức cũng như kiến thức về chứng khoán cho các nhà đầu tư cũng như các nhân viên công ty chứng khoán – người tư vấn, hỗ trợ trực tiếp cho các nhà đầu tư trong việc đầu tư, kinh doanh chứng khoán. Trong đó quan trọng là kiến thức và kỹ năng phân tích các mã cổ phiếu; trong khi phân tích kỹ thuật giúp cho việc tìm thời điểm thích hợp để bắt đầu việc mua và bán chứng khoán; phân tích cơ bản là công cụ giúp cho việc đánh giá được cái cốt lõi hay chất của mỗi cổ phiếu, biết được cổ phiếu nào tốt, xấu thì phân tích báo cáo tài chính là công cụ cuối cùng để chọn ra những mã cổ phiếu tốt để đầu tư. Các chuyên gia đã kết luận rằng nhà đầu tư chuyên nghiệp muốn thành công trên thị trường chứng khoán thì không thể thiếu được khả năng phân tích báo cáo tài chính. Trong bối cảnh kinh tế hiện nay, thị trường chứng khoán đang gặp nhiều khó khăn, các Công ty Chứng khoán luôn phải cạnh tranh với nhau đặc biệt là các công ty chứng khoán mới ra đời và các công ty chứng khoán đã lớn mạnh, nhiều kinh nghiệm (hiện nay có tổng số hơn 100 công ty chứng khoán được cấp phép hoạt động), thì việc đẩy mạnh hoạt động phân tích mã cổ phiếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh là một nhiệm vụ quan trọng mà Lãnh đạo Công ty Chứng khoán hết sức quan tâm. Xuất phát từ nhận thức trên, tôi cho rằng "Hoàn thiện nội dung và phương pháp phân tích báo cáo tài chính của các Doanh nghiệp niêm yết tại các Công ty chứng khoán trên địa bàn Hà Nội" là một vấn đề có ý nghĩa khoa học và thực tiễn to lớn đối với Công ty Chứng khoán nói riêng và thị trường chứng khoán nói chung. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài này làm luận văn thạc sỹ của mình. CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH CỦA DOANH NGHIỆP Hệ thống BCTC doanh nghiệp là những thông tin cực kỳ quan trọng, phản ánh tổng hợp về tình hình tài chính của doanh nghiệp trong một thời gian cụ thể. Những thông tin được trình bày trong BCTC trước hết được phục vụ cho những người có quyền lợi trực tiếp (người góp vốn, người cho vay, đối tác đầu tư, khách hàng, CBCNV), sau nữa là những người lãnh đạo điều hành doanh nghiệp (Hội đồng quản trị (HĐQT), BGĐ), và cuối cùng là những người có quyền lợi gián tiếp (thuế vụ, tài chính, thống kê). Cơ sở dữ liệu để phân tích báo cáo tài chính của các công ty cổ phần niêm yết nói riêng và các DN nói chung trước hết chính là hệ thống báo cáo tài chính của công ty. Hệ thống báo cáo tài chính là bảo đảm trung thực, đáng tin cậy, rõ ràng và đầy đủ, các chỉ tiêu phân tích mới có thể phản ánh đúng đắn thực trạng tài chính của công ty. Vì thế, trước khi tiến hành phân tích, các nhà phân tích bao giờ cũng chú trọng xem xét nội dung và mức độ trung thực của hệ thống báo cáo tài chính. Báo cáo tài chính là một hệ thống các số liệu và phân tích cho ta biết tình hình tài sản và nguồn vốn, luồng tiền và hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp. Báo cáo tài chính có 4 loại: Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ và Thuyết minh báo cáo tài chính. Bên cạnh đó, phân tích BCTC doanh nghiệp được thực hiện thông qua các chỉ số tài chính đặc trưng. Mỗi một doanh nghiệp khác nhau có các hệ số tài chính khác nhau, thậm chí một doanh nghiệp ở những thời điểm khác nhau cũng có các hệ số tài chính không giống nhau. Do đó, người ta coi các chỉ số tài chính là những biểu hiện đặc trưng nhất về tình hình tài chính của doanh nghiệp trong một thời kì nhất định. - Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán - Nhóm chỉ tiêu phản ánh cơ cấu tài chính và cơ cấu tài sản - Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng hoạt động - Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lợi Công cụ thường được sử dụng trong phân tích báo cáo tài chính là Phân tích tỷ lệ. Việc sử dụng các tỷ lệ cho phép người phân tích đưa ra một tập hợp các con số thống kê để vạch rõ những đặc điểm chủ yếu về tài chính của một số tổ chức đang được xem xét. CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NIÊM YẾT TẠI CÁC CÔNG TY CHỨNG KHOÁN TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI Xây dựng và phát triển TTCK là mục tiêu đã được Đảng và Chính phủ Việt Nam định hướng từ những năm đầu thập kỷ 90 (thế kỷ 20) nhằm xác lập một kênh huy động vốn mới cho đầu tư phát triển. Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) được thành lập ngày 28/11/1996 theo Nghị định số 75/CP của Chính phủ, là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng tổ chức và quản lý Nhà nước về chứng khoán và TTCK. Việc thành lập cơ quan quản lý TTCK trước khi thị trường ra đời là bước đi phù hợp với chủ trương xây dựng và phát triển TTCK ở Việt Nam, có ý nghĩa quyết định cho sự ra đời của TTCK sau đó hơn 3 năm. Trong thời gian đầu, hiểu biết của công chúng về lĩnh vực chứng khoán còn rất sơ khai, các điều kiện thị trường cho TTCK hoạt động còn chưa đầy đủ, cho nên đòi hỏi phải có thời gian để hình thành các điều kiện cần thiết, cả về cơ sở vật chất, năng lưc, nhận thức, cơ chế chính sách... Trong quá trình phát triển TTCK, khuôn khổ pháp lý ngày càng hoàn thiện, cở sở vật chất ngày càng nâng cao, các doanh nghiệp, các NĐT ngày càng nhận thấy được lợi ích mang lại khi tham gia vào TTCK. Bên cạnh đó quá trình cải cách kinh tế và hội nhập cũng tác động tích cực đến TTCK. Sự phát triển này còn có tác động của những cú huých như trên đã nói là về thuế, về chính sách tạo hàng hóa, việc gia nhập WTO, tổ chức thành công hội nghị APEC, các chính sách hấp dẫn thu hút đầu tư nước ngoài... đã tác động trực tiếp đến sự phát triển và sôi động của TTCK Việt Nam. Đến nay vốn hóa TTCK Việt Nam đã đạt khoảng 45% GDP, nếu tính cả trái phiếu thì vào khoảng hơn 50% GDP. Vốn hóa TTCK sẽ đạt khoảng 60% GDP, tương đương đạt khoảng 35 - 40 tỷ USD khi Bộ Tài chính, UBCKNN và Sở GDCK Hà Nội phối hợp chặt chẽ để đưa các công ty đại chúng chưa niêm yết tham gia vào hệ thống đăng ký giao dịch của Sở GDCK Hà Nội (UPCoM). Mặc dù ra đời chưa được bao lâu song có thể nói nền tảng cơ sở vật chất, công nghệ phục vụ hoạt động của thị trường đã đáp ứng được yêu cầu thị trường, đồng thời cũng đã xây dựng được cơ sở pháp lý tương đối đầy đủ và đồng bộ như Luật Chứng khoán đã ban hành và đi vào thực hiện được gần 3 năm, các văn bản hướng dẫn dưới Luật cũng tương đối đầy đủ song chủ yếu vẫn thiên về những điều chỉnh mang tính chất pháp lý, thủ tục, cơ chế mà chưa có những văn bản mang tính chất hướng dẫn sâu về chuyên môn như về phân tích cơ bản cổ phiếu dẫn đến việc tính toán các chỉ số tài chính vẫn còn sự thiếu nhất quán giữa hai sàn giao dịch và giữa các thành viên tham gia thị trường, gây khó khăn cho các NĐT và phần nào đó ảnh hưởng tới việc thu hút hơn nữa NĐT vào TTCK. Tính đến nay tổng số tài khoản của NĐT mở tại tất cả các công ty chứng khoán tại Việt Nam khoảng 500.000 tài khoán, chiếm chưa đầy 0,6% dân số, một tỷ lệ khá khiêm tốn so với các nước trong khu vực như Thái Lan, Trung Quốc Số lượng các công ty đại chúng chưa niêm yết trên thị trường tập trung là rất lớn, có thể ví với số lượng các công ty đã niêm yết như tảng băng “1 phần nổi, 3 phần chìm”. Trong khi việc tổ chức quản lý đối với thị trường phi tập trung (OTC) hiện mới đi vào hoạt động và đang trong quá trình thử nghiệm nên các thông tin về tổ chức chưa niêm yết rất hạn chế, gây khó khăn cho việc phân tích các loại cổ phiếu này. Một doanh nghiệp có thể xây dựng được một chiến lược kinh doanh đẹp đẽ nhưng nếu không thực thi một cách hiệu quả hay nói cách khác “lời nói không đi đôi với việc làm” thì cũng chỉ là bản kế hoạch trên giấy và sẽ thể hiện ở tình hình tài chính của công ty không tốt thông qua các chỉ tiêu tài chính. Những con số trong BCTC sẽ nói lên tất cả. Chính vì vậy đây có thể xem là nội dung quan trọng nhất trong một báo cáo phân tích mà các NĐT không thể bỏ qua. Trong quá trình phân tích sử dụng nhiều phương pháp phân tích hơn và các phương pháp phân tích cũng phức tạp hơn như phương pháp tính toán sử dụng để tính các chỉ tiêu tài chính, phương pháp chi tiết theo bộ phận cấu thành chỉ tiêu áp dụng khi phân tích cơ cấu doanh thu, lợi nhuận, hay chi tiết theo thời gian khi phân tích các chỉ tiêu qua từng năm; phương pháp so sánh để so sánh giữa các năm, các ngành nghề; phương pháp đối chiếu để đối chiếu số liệu cuối kỳ này với đầu kỳ tiếp theo; phương pháp liên hệ cân đối trong cân đối giữa vốn và nguồn; cân đối doanh thu, chi phí, kết quả; phương pháp liên hệ trực tuyến khi phân tích các chỉ tiêu có quan hệ trực tuyến với nhau như P/E với EPS; P/B với BV; phương pháp đồ thị khi minh hoạ về cơ cấu doanh thu, lợi nhuậnđôi khi còn phải cần đến các thuật toán phức tạp khác. Tổng số Công ty Chứng khoán ra đời cho đến nay khoảng hơn 100 công ty, mỗi Công ty có quy mô, thị phần, nhân lực, công nghệ... khác nhau nên các sản phẩm về dịch vụ về phân tích tại mỗi Công ty cũng khác nhau trong đó có các báo cáo phân tích tài chính. Công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam là một trong những công ty Chứng khoán lớn cả về thị phần và vốn ra đời từ những năm đầu sơ khai của thị trường Chứng khoán với nền tảng nhân lực và công nghệ vững mạnh. Công ty Chứng khoán An Bình tuy mới thành lập ra đời sau nhưng Công ty với đội ngũ nhân viên năng động, hệ thống phần mềm hiện đại và sự hậu thuẫn vững chắc của tập đoàn điện lực Việt Nam EVN và ngân hàng An Bình đã có được bước đứng vững chắc trong số các Công ty Chứng khoán lớn của Việt Nam là một trong số những Công ty Chứng khoán có thị phần cao nhất. Công ty Chứng khoán Hà Nội thành lập cùng thời điểm với Công ty Chứng khoán An Bình nhưng vẫn đang trong quá trình xâm nhập thị trường vẫn là một công ty nhỏ về cả quy mô và thị phần. Ba Công ty Chứng khoán này đều có trụ sở tại địa bàn Hà Nội nhưng thuộc ba nhóm Công ty Chứng khoán khác nhau (nhóm 1: ra đời lâu, vốn lớn và có thị phần lớn, nhóm 2: mới ra đời nhưng vốn lớn và chiếm lĩnh thị phần lớn còn nhóm 3 là mới ra đời, vốn nhỏ và thị phần nhỏ) và là đại diện tiêu biểu cho mỗi nhóm. Thực tế công tác phân tích báo cáo tài chính tại của các Doanh nghiệp niêm yết tại các Công ty Chứng khoán trên địa bàn Hà Nội: Công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (VCBS), Công ty Cổ phần Chứng khoán An Bình và Công ty Cổ phần Chứng khoán Hà Nội: Tại VCBS việc phân tích báo cáo tài chính của các Doanh nghiệp niêm yết luôn được phòng nghiên cứu và phân tích cập nhật liên tục qua báo cáo VCBS ngày, báo cáo tuần VCBS, báo cáo vĩ mô quý, báo cáo công ty, báo cáo ngành và phân tích rõ nhất là trong báo cáo phân tích mã chứng khoán. Các phương pháp được Công ty sử dụng để phân tích báo cáo tài chính là: Phân tích tỷ lệ, Phân tích xu hướng, phân tích cơ cấu và phân tích Du Point. Công ty Cổ phần Chứng khoán An Bình: Với sự trợ giúp của công nghệ hiện đại và đội ngũ cán bộ có năng lực báo cáo của phòng phân tích luôn đem đến cho các nhà đầu tư các thông tin cập nhật: Morning coffee, bản tin ngày, báo cáo tư vấn đầu tư ngày, báo cáo tư vấn đầu tư tuần, báo cáo phân tích công ty. Phân tích báo cáo tài chính tại ABS chủ yếu được thực hiện thông qua báo cáo phân tích công ty dưới dạng báo cáo phân tích tóm tắt về Công ty thông qua các phương pháp tỷ lệ, phân tích xu hướng, phân tích cơ cấu và du point nhưng các phân tích này chưa được chuyên sâu mà mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra các chỉ số so sánh. Công ty Cổ phần Chứng khoán Hà Nội: mới chỉ sử dụng phương pháp tỷ lệ để phân tích các chỉ số tài chính và nhận định thị trường tổng quát theo số liệu tự lấy từ kết quả giao dịch trong ngày. Nhìn chung nội dung và chỉ tiêu phân tích cổ phiếu niêm yết do các công ty chứng khoán thực hiện về cơ bản đã tập hợp khá đầy đủ các thông tin cần thiết, phần nào đáp ứng được yêu cầu của NĐT, giúp NĐT có các quyết định đầu tư hợp lý. Song vẫn còn một số tồn tại cần phải sửa đổi để nâng cao chất lượng của sản phẩm phân tích. Về phương pháp phân tích thì đa số các công ty chứng khoán mới chỉ dừng ở mức áp dụng các phương pháp cơ bản, đơn giản. Chưa áp dụng các phương pháp phân tích đòi hỏi kỹ thuật chuyên sâu khác như phương pháp liên hệ phi tuyến, phương pháp hồi quy, phương pháp tài chính Dupont thông qua các đẳng thức Dupont để thấy tác động, ảnh hưởng qua lại giữa các chỉ tiêu. Chưa áp dụng công nghệ trong công tác phân tích như sử dụng phần mềm nhằm giảm công việc cho người làm phân tích mà lại đảm bảo độ chính xác cao. CHƯƠNG 3. HOÀN THIỆN NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NIÊM YẾT TẠI CÁC CÔNG TY CHỨNG KHOÁN TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI Thứ nhất, hoàn thiện công tác tổ chức phân tích. Nhìn chung sản phẩm phân tích của các công ty chứng khoán tại Hà nội đã tương đối hoàn chỉnh, bước đầu đáp ứng được yêu cầu của NĐT, song vẫn còn một số điểm cần phải hoàn thiện nhằm nâng cao chất lượng hơn nữa, đem lại sự khác biệt về dịch vụ phân tích cung cấp cho khách hàng, điều đó cũng đòi hỏi kỹ năng cao hơn của các chuyên gia phân tích. Vì vậy đòi hỏi cần phải hoàn thiện việc tổ chức thu thập thông tin phân tích; hoàn thiện bộ máy nhân sự và hoàn thiện các cơ chế, chính sách. Thứ hai, hoàn thiện về nội dung phân tích. Về nội dung phân tích mặc dù đã cung cấp một lượng thông tin tương đối đầy đủ về đối tượng phân tích, song cần phải bổ sung thêm một số thông tin mang tính định tính về tình hình vĩ mô, phân tích ngành; một số chỉ tiêu mang tính định lượng, một số khoản mục trọng yếu trên BCTC; thống nhất trong cách tính và thuyết minh về phương pháp ước tính các chỉ tiêu mà có thể có nhiều cách tính khác nhau. Thứ ba, hoàn thiện về phương pháp phân tích.Trong phân tích báo cáo tài chính của Doanh nghiệp niêm yết thì việc xác định giá cổ phiếu luôn là nội dung được nhiều nhà đầu tư quan tâm nhất. Do vậy cần bổ sung các phương pháp định giá cổ phiếu như: - Giá trị sổ sách (BV) - Phương pháp chiết khấu dòng cổ tức (DDM) - Phương pháp chiết khấu dòng tiền DCF Có thể nhận thấy, thông tin tài chính đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định giá trị cổ phiếu. Thông thường, việc dự đoán triển vọng của doanh nghiệp được thực hiện dựa trên phân tích và đánh giá các thông tin tài chính hiện tại và quá khứ. Vì vậy, chất lượng của thông tin tài chính, phần lớn được phản ảnh trong BCTC, có ảnh hưởng đáng kể đến độ tin cậy của kết quả định giá. Khi sử dụng BCTC để dự đoán tương lai của doanh nghiệp trong định giá cổ phiếu thì nhà phân tích thường có cái nhìn thiên về tài chính và kinh doanh, trong khi đó, các quy định về kế toán thường được xây dựng dựa trên nguyên tắc thận trọng, đôi khi mang tính cứng nhắc. Chính vì vậy, người sử dụng thông tin cần phải tìm hiểu kỹ các nghiệp vụ quan trọng và thực hiện một số điều chỉnh cần thiết để đưa các thông tin tài chính từ số liệu kế toán thuần tuý sang một “hình thái mới” để có được bức tranh phù hợp hơn về kết quả hoạt động kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp cho phù hợp với mục đích phân tích và định giá của mình. KẾT LUẬN Mặc dù còn có những khó khăn nhưng kinh tế thế giới và Việt Nam đã có những tín hiệu tích cực và đang hướng tới một viễn cảnh tương sáng hơn. Với sự phục hồi của kinh tế vĩ mô nói chung, thị trường chứng khoán – phong vũ biểu của nền kinh tế - cũng sẽ được hưởng lợi từ sự phục hồi kinh tế nhất là những ngành trực tiếp biến động theo chu kỳ kinh tế như bất động sản, nguyên vật liệu, vận tải.. Mặc dù sẽ có những biến động ngắn hạn nhưng cơ hội đang trở nên này càng rõ ràng với các nhà đầu tư có tầm nhìn và chiến lược dài hạn. Trong hoạt động đầu tư, kinh doanh chứng khoán hiện nay, để ra quyết định đầu tư không thể không dựa vào các kết quả phân tích về cổ phiếu. Phân tích báo cáo tài chính là công cụ cho phép người sử dụng đánh giá được thực chất từng cổ phiếu, đánh giá được khả năng tài chính cũng như kết quả hoạt động, mức độ sinh lời của từng doanh nghiệp (cổ phiếu); giúp cho nhà đầu tư tìm kiếm được các cổ phiếu tốt, nhất là trong việc đầu tư dài hạn.
Luận văn liên quan