rong bối cảnh chung của cuộc khủng hoảng và suy thoái toàn cầu,
NHĐTPTVN bị tác động sớm và cũng gặp không ít khó khăn. Bên cạnh đó, để
tiến hành chuyển đổi từ NHTM nhà nước sang NHTMCP, NHĐTPTVN đã tiến
hành sắp xếp lại mô hình tổ chức, tăng cường công tác quản lý đặc biệt chú trọng
đến hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ. Với tham vọng trở thành một tập đoàn
tài chính ngân hàng, việc kiểm soát nội bộ và tổ chức hạch toán kế toán là vấn đề
cần được quan tâm, giải quyết nhằm tạo ra một sự minh bạch, thông tin cung cấp
cho những người quan tâm là kịp thời và đáng tin cậy. Đó chính là ý nghĩa và
thực tiễn của đề tài “Hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán với việc tăng
cường kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
15 trang |
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 443 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tóm tắt Luận văn Hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán với việc tăng cường kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i
MỞ ĐẦU
1.Sự cần thiết của Đề tài
Trong bối cảnh chung của cuộc khủng hoảng và suy thoái toàn cầu,
NHĐTPTVN bị tác động sớm và cũng gặp không ít khó khăn. Bên cạnh đó, để
tiến hành chuyển đổi từ NHTM nhà nước sang NHTMCP, NHĐTPTVN đã tiến
hành sắp xếp lại mô hình tổ chức, tăng cường công tác quản lý đặc biệt chú trọng
đến hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ. Với tham vọng trở thành một tập đoàn
tài chính ngân hàng, việc kiểm soát nội bộ và tổ chức hạch toán kế toán là vấn đề
cần được quan tâm, giải quyết nhằm tạo ra một sự minh bạch, thông tin cung cấp
cho những người quan tâm là kịp thời và đáng tin cậy. Đó chính là ý nghĩa và
thực tiễn của đề tài “Hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán với việc tăng
cƣờng kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng Đầu tƣ và Phát triển Việt Nam.
2. Mục đích nghiên cứu của Đề tài
Đưa ra các giải pháp hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán với việc tăng
cường hệ thống kiểm soát nội bộ tại NHĐTPTVN.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là tổ chức hạch toán kế toán với việc tăng cường kiểm
soát nội bộ. Phạm vi nghiên cứu là Hội sở chính NHĐTPTVN.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng kết hợp xem
xét các vấn đề trên các quan điểm duy vật lịch sử, đồng thời vận dụng phương
pháp khảo sát, phân tích các tình hình dữ liệu và vận dụng vào điều kiện cụ thể,
cơ chế cụ thể đối với NHĐTPTVN.
5. Bố cục của Đề tài
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Lý luận chung về tổ chức hạch toán kế toán với kiểm soát nội
bộ tại các ngân hàng;
Chƣơng 2: Thực trạng tổ chức hạch toán kế toán với kiểm soát nội bộ tại
NHĐTPTVN;
Chƣơng 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện tổ chức hạch toán kế
toán nhằm tăng cường kiểm soát nội bộ tại NHĐTPTVN.
ii
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC HẠCH TOÁN
KẾ TOÁN VỚI HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ
TẠI CÁC NGÂN HÀNG
1.1. Lý luận chung về tổ chức hạch toán kế toán và kiểm soát nội bộ
1.1.1. Lý luận chung về tổ chức hạch toán kế toán
1.1.1.1. Ý nghĩa, nhiệm vụ của tổ chức hạch toán kế toán
Hạch toán kế toán là hệ thống thông tin và kiểm tra, kiểm soát tài sản và hoạt
động của mỗi đơn vị. Đối tượng của hạch toán kế toán là tài sản trong mối quan
hệ với nguồn hình thành và quá trình vận động của tài sản. Để nghiên cứu đối
tượng của mình, hạch toán kế toán đã sử dụng hệ thống phương pháp nghiên cứu
khoa học gồm bốn yếu tố (phương pháp cụ thể) là chứng từ, đối ứng TK, tính
giá, tổng hợp - cân đối kế toán.
Để tổ chức hạch toán kế toán được thực hiện tốt thì trước hết cần phải dựa
trên các nhiệm vụ cơ bản mà bản thân kế toán cần phải thực hiện. Đó là: Thu
thập, xử lý thông tin, số liệu kế toán theo đối tượng và nội dung công việc kế
toán; kiểm tra, giám sát các khoản thu, chi tài chính, các nghĩa vụ, thu nộp thanh
toán nợ; kiểm tra việc quản lý, sử dụng tài sản và nguồn hình thành tài sản; phát
hiện và ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật về tài chính, kế toán; phân tích
thông tin, số liệu kế toán; tham mưu, đề xuất các giải pháp phục vụ yêu cầu quản
trị và quyết định kinh tế, tài chính của đơn vị kế toán; cung cấp thông tin, số liệu
kế toán theo quy định của pháp luật.
1.1.1.2. Nội dung của tổ chức hạch toán kế toán
Tổ chức hệ thống chứng từ kế toán: Mọi nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong
các đơn vị đều phải được phản ánh, ghi chép trong kế toán. Cơ sở duy nhất để ghi
vào TK kế toán hay sổ kế toán là các chứng từ hợp lệ, hợp pháp. Tổ chức vận dụng
hợp lý hệ thống chứng từ và ghi chép ban đầu có ý nghĩa quan trọng trong việc thu
nhận được thực tế về các hoạt động sử dụng tài sản, vật tư và nguồn kinh phí trong
quá trình hoạt động của các đơn vị. Trong thực tế, căn cứ vào hệ thống chứng từ kế
toán do BTC ban hành, mỗi đơn vị lựa chọn những chứng từ kế toán cần vận dụng
phù hợp với đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị.
Tổ chức hệ thống TK kế toán: TK kế toán được sử dụng để phán ánh tình
hình biến động của từng tài sản, nguồn vốn của đơn vị. Để đảm bảo cung cấp
đầy đủ các thông tin cho quản lý thì đơn vị phải xây dựng được một hệ thống
TK phù hợp với quy định chung và đặc điểm hoạt động của đơn vị. Chính vì
iii
vậy, nội dung cơ bản của tổ chức hệ thống TK kế toán là lựa chọn những TK
kế toán do Nhà nước ban hành phù hợp với điều kiện của đơn vị để sử dụng.
Với các TK sử dụng cần thiết phải chi tiết cho quản lý của đơn vị thì tiến hành
mở chi tiết thành các TK cấp III, cấp IV... Từ đó hình thành hệ thống TK
riêng cho đơn vị mình.
Tổ chức hệ thống sổ kế toán: Tất cả các đơn vị thuộc mọi thành phần kinh
tế đều phải mở, ghi chép, quản lý, lưu trữ và bảo quản sổ kế toán theo quy định
của Luật Kế toán và theo quy định của BTC. Mỗi hình thức kế toán được quy
định một hệ thống sổ kế toán liên quan. Do vậy, khi tổ chức hệ thống sổ kế toán,
đơn vị cần phải lựa chọn hình thức kế toán phù hợp với đơn vị đồng thời đơn vị
cụ thể hóa các sổ kế toán theo hình thức kế toán đã lựa chọn, phù hợp với quy
mô, đặc điểm hoạt động của sản xuất kinh doanh, yêu cầu quản lý, trình độ
nghiệp vụ của cán bộ kế toán, điều kiện trang bị kỹ thuật tính toán.
Tổ chức hệ thống báo cáo kế toán: Hệ thống báo cáo kế toán của đơn vị
gồm hệ thống báo cáo kế toán tài chính và hệ thống báo cáo kế toán quản trị. Các
đơn vị bắt buộc phải lập, cung cấp báo cáo tài chính cho các đối tượng theo yêu
cầu của Luật Kế toán, Chuẩn mực Kế toán và Chế độ Kế toán.
Báo cáo kế toán quản trị là báo cáo phản ánh số liệu kế toán chi tiết theo
từng đơn vị. Tuy nhiên, các báo cáo quản trị này có vai trò quan trọng trong việc
cung cấp thông tin phục vụ cho quản trị nội bộ đơn vị.
Tổ chức bộ máy kế toán: Tuỳ theo yêu cầu quản lý, mỗi đơn vị cần xây
dựng công nghệ kế toán từ chứng từ đến tổng hợp cân đối, cần quán triệt trong
từng phần hành kế toán và cả trong bộ máy kế toán. Nội dung của tổ chức bộ
máy bao gồm xác định mô hình tổ chức bộ máy kế toán và phân công lao động
trong bộ máy ấy. Việc tổ chức thực hiện các chức năng nhiệm vụ hạch toán kế
toán trong một đơn vị hạch toán kế toán do bộ máy kế toán đảm nhiệm. Do vậy,
cần thiết phải tổ chức hợp lý bộ máy kế toán cho đơn vị trên cơ sở định hình
được khối lượng công tác kế toán cũng như chất lượng cần phải đạt về hệ thống
thông tin kế toán. Hiện nay tổ chức bộ máy kế toán ở các đơn vị được tổ chức
theo 2 mô hình cơ bản: Mô hình tổ chức bộ máy kế toán tập trung và Mô hình tổ
chức bộ máy kế toán phân tán. Trên cơ sở hai mô hình cơ bản có thể kết hợp tổ
chức theo mô hình kế toán hỗn hợp.
1.1.1.3. Những nguyên tắc của tổ chức hạch toán kế toán
Tổ chức hạch toán kế toán cần phải tuân thủ các nguyên tắc kế toán chung đã
được thừa nhận như: Nguyên tắc thực thể kinh doanh, nguyên tắc hoạt động liên
iv
tục, nguyên tắc thước đo tiền tệ, nguyên tắc kỳ kế toán, nguyên tắc khách quan,
nguyên tắc chi phí, nguyên tắc doanh thu thực hiện, nguyên tắc phù hợp, nguyên tắc
nhất quán, nguyên tắc công khai, nguyên tắc thận trọng, nguyên tắc trọng yếu.
Ngoài ra, để thực hiện tốt được vai trò của mình trong công tác quản lý, đòi hỏi tổ
chức hạch toán kế toán ở đơn vị còn phải tuân theo các nguyên tắc đặc thù khác.
1.1.2 .Lý luận chung về kiểm soát nội bộ
1.1.2.1 .Tổng quan về kiểm soát nội bộ trong quản lý
Quản lý là một quá trình định hướng và tổ chức thực hiện các hướng đã định
trên cơ sở những nguồn lực xác định nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Quá trình này
bao gồm nhiều chức năng và có thể chia thành nhiều giai đoạn: Lập kế hoạch tổ
chức, cung cấp các nguồn lực, kiểm soát và điều hành. Để đảm bảo hiệu quả hoạt
động, tất yếu ở mỗi đơn vị đều phải tự kiểm tra mọi hoạt động của mình trong tất
cả các khâu: Rà soát các tiềm năng, xem xét lại các dự báo, các mục tiêu và định
mức, đối chiếu và truy tìm các thông số về sự kết hợp, soát xét lại các thông tin
thực hiện để điều chỉnh kịp thời trên quan điểm bảo đảm hiệu năng của mọi
nguồn lực và hiệu quả kinh tế cuối cùng của các hoạt động. Công việc rà soát
này có tên gọi là kiểm soát. Như vậy, kiểm soát luôn luôn tồn tại và được thực
hiện ở tất cả các giai đoạn của quá trình quản lý. Do đó, kiểm soát là một chức
năng gắn với mọi giai đoạn của quá trình quản lý. Trong các đơn vị có quy mô
lớn, kiểm soát nội bộ được tổ chức thành một hệ thống.
1.1.2.2. Các loại kiểm soát nội bộ
Kiểm soát gắn liền với quản lý trong từng cấp, từng đơn vị cụ thể. Do đó
kiểm soát có thể có nhiều cách phân loại khác nhau. Trong quan hệ với Đề tài có
thể khái quát các phân loại chủ yếu sau: Trong quan hệ với quản lý một đơn vị
cụ thể, kiểm soát được phân thành kiểm soát tổ chức và kiểm soát kế toán; Trong
quan hệ với thời điểm thực hiện hoạt động có kiểm soát trước, kiểm soát hiện
hành và kiểm soát sau.
1.1.2.3. Các yếu tố cấu thành hệ thống kiểm soát nội bộ
Hệ thống kiểm soát nội bộ được hình thành trong các đơn vị có quy mô lớn và
được cấu thành bởi ba yếu tố cơ bản: Thứ nhất là môi trường kiểm soát;Thứ hai là
hệ thống chứng từ chủ yếu là thông tin kế toán; Thứ ba là thủ tục kiểm soát là
những kỹ thuật (cách thức) kiểm soát được thực hiện theo một trình tự xác định.
1.1.3. Mối quan hệ giữa kiểm soát nội bộ với tổ chức hạch toán kế toán
Trong mọi hoạt động của đơn vị, chức năng kiểm tra, kiểm soát luôn giữ vai
trò quan trọng trong quá trình quản lý và được thực hiện chủ yếu bởi hệ thống kiểm
v
soát của đơn vị. Để thực hiện chức năng của mình kiểm soát nội bộ được tiến hành
bằng nhiều cách thức và thực hiện trên mọi lĩnh vực cũng như trong tất cả các giai
đoạn của quá trình quản lý, trong mọi bộ phận trong đó có cả bộ phận kế toán của
đơn vị. Hệ thống kế toán của đơn vị cũng là một mắt xích, một yếu tố quan trọng
của hệ thống kiểm soát nội bộ. Tổ chức hạch toán kế toán tốt sẽ cung cấp các thông
tin tin cậy, kịp thời phục vụ cho việc quản lý đồng thời còn có tác dụng kiểm soát
chặt chẽ nhiều mặt hoạt động của đơn vị, từ đó giúp cho hoạt động kiểm soát nội bộ
chặt chẽ hơn, đầy đủ và toàn diện hơn, giúp cho các quyết định của nhà quản lý đưa
ra có hiệu quả, thiết thực hơn. Như vậy, tổ chức hạch toán kế toán có vai trò quan
trọng trong quá trình cung cấp thông tin phục vụ quản lý, điều hành của đơn vị cũng
như góp phần quan trọng trong việc tăng cường kiểm soát nội bộ nhằm đảm bảo
thực hiện có hiệu quả các mục tiêu của đơn vị đã đề ra. Chính vì vậy, việc xác lập
và duy trì tổ chức hạch toán kế toán thích hợp, kết hợp với những yếu tố kiểm soát
nội bộ khác là bổn phận của các nhà lãnh đạo đơn vị.
1.2. Tổng quan về tổ chức hạch toán kế toán với kiểm soát nội bộ tại các
ngân hàng thƣơng mại
1.2.1. Đặc điểm chung về tổ chức và hoạt động của các ngân hàng thƣơng
mại có ảnh hƣởng đến tổ chức hạch toán kế toán và kiểm soát nội bộ
Các NHTM đều có những đặc điểm chung ảnh hưởng đến kiểm soát nội bộ và
tổ chức hạch toán kế toán. Đó là:
Thứ nhất: Hoạt động của ngân hàng liên quan đến đại bộ phận hoạt động
kinh tế, tài chính của nền kinh tế thông qua các quan hệ tiền tệ, tín dụng, thanh
toán giữa các ngân hàng với các doanh nghiệp, các đơn vị TCKT, các cá
nhân...Do vậy, những chỉ tiêu thông tin kế toán ngân hàng cung cấp những chỉ
tiêu thông tin tài chính quan trọng giúp quản lý, điều hành nền kinh tế. Từ đặc
điểm này đòi hỏi ngoài việc thực hiện các phương pháp, các chuẩn mực chung
thì ngành ngân hàng cần xây dựng một chế độ kế toán phù hợp để vừa phản ánh
đầy đủ hoạt động của bản thân ngân hàng, vừa phản ánh được hoạt động của nền
kinh tế. Vì vậy, trong mọi hoạt động của ngân hàng cũng như trong quá trình tổ
chức hạch toán kế toán công tác kiểm soát nói chung và kiểm soát nội bộ nói
riêng cần được quan tâm đúng mức đảm bảo các thông tin kế toán ngân hàng
cung cấp chính xác và trung thực.
Thứ hai: Hoạt động của ngân hàng đã dẫn đến ngân hàng tập trung được
một khối lượng vốn tiền tệ rất lớn của xã hội, số vốn này thường xuyên biến
động. Vì vậy, tổ chức hạch toán kế toán ngân hàng phải đảm bảo có độ chính xác
và kịp thời rất cao đáp ứng yêu cầu hạch toán của ngân hàng cũng như toàn bộ
vi
nền kinh tế. Khi tiếp nhận chứng từ, nhân viên kế toán ngân hàng kiểm soát
chứng từ; nếu chứng từ đảm bảo hợp lệ, hợp pháp thì cho hoàn thành nghiệp vụ
và phản ánh ngay vào sổ kế toán thích hợp để kiểm soát số dư TK hạn mức tín
dụng để chuẩn bị sẵn sàng cho giao dịch mới. Như vậy, tổ chức hạch toán tại các
đơn vị ngân hàng sẽ tiến hành đồng thời giữa kiểm soát, ghi sổ kế toán ngay khi
có nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
1.2.2. Đặc điểm của hệ thống kiểm soát nội bộ trong các ngân hàng thƣơng mại
Hệ thống kiểm soát nội bộ của các ngân hàng cũng được cấu thành bởi các yếu
tố như: Môi trường kiểm soát, hệ thống thông tin kế toán, các thủ tục kiểm soát.
Thứ nhất: Môi trường kiểm soát: Môi trường kiểm soát của ngân hàng cũng
chịu tác động của các nhân tố bên trong đơn vị như: Đặc thù quản lý và cơ cấu tổ
chức; Chính sách nhân sự; Công tác kế hoạch; Ủy ban kiểm soát; Kiểm soát nội bộ.
Môi trường kiểm soát bên ngoài: Các NHTM theo Điều lệ Tổ chức và Hoạt động
chịu chỉ đạo, giám sát của NHNN. Ngoài ra, các ngân hàng còn phải tuân thủ các chế
độ tài chính, kế toán do NHNN hoặc BTC ban hành; đồng thời chịu sự kiểm tra,
thanh tra tài chính của chính phủ, chịu sự kiểm tra, giám sát của NHNN và các bộ,
ngành chức năng khác theo quy định của pháp luật của từng quốc gia.
Thứ hai: Hệ thống thông tin kế toán trong các NHTM. Các NHTM với
chức năng kinh doanh, trực tiếp phục vụ nền kinh tế nên đặc trưng của đối tượng
hạch toán kế toán là tạo vốn khả dụng và các hoạt động kinh doanh phục vụ
khách hàng. Chính vì vậy, ngành ngân hàng không những không thể sử dụng hệ
thống TK thống nhất trong nền kinh tế mà xây dựng hệ thống TK riêng.
Thứ ba: Các thủ tục kiểm soát. Để điều hành và kiểm soát các hoạt động
trong toàn hệ thống, các ngân hàng cũng có những nguyên tắc riêng về hệ thống
kiểm soát nội bộ. Dựa trên các nguyên tắc chung của việc xây dựng thủ tục kiểm
soát nội bộ như nguyên tắc phân công, phân nhiệm; bất kiêm nhiệm; ủy quyền và
phê chuẩn phù hợp với đặc thù của lĩnh vực có nhiều rủi ro nên nguyên tắc cơ
bản trên cũng cần được cụ thể hóa thêm.
1.2.3. Tổ chức hạch toán kế toán với hệ thống kiểm soát nội bộ tại các ngân
hàng thƣơng mại
1.2.3.1. Yêu cầu của tổ chức hạch toán kế toán tại ngân hàng thƣơng mại
Tổ chức hạch toán kế toán tại ngân hàng là việc vận dụng Luật Kế Toán, các
chuẩn mực, chế độ kế toán cho phù hợp với điều kiện về tổ chức hoạt động của
ngân hàng, trình độ quản lý, trình độ nghiệp vụ cụ thể của đơn vị. Tổ chức hạch
toán kế toán tại ngân hàng khoa học và hợp lý cần phải đáp ứng các yêu cầu sau:
Đảm bảo thu nhận và hệ thống hóa thông tin về toàn bộ hoạt động kinh tế, tài
vii
chính ở ngân hàng; phù hợp với quy mô và đặc điểm tổ chức hoạt động kinh
doanh, phân cấp quản lý của đơn vị ngân hàng; phù hợp với trình độ, khả năng
của đội ngũ cán bộ kế toán và trình độ trang bị các phương tiện kỹ thuật tính
toán, ghi chép của ngân hàng; phù hợp với chế độ kế toán ngân hàng hiện hành.
1.2.3.2. Nội dung của tổ chức hạch toán kế toán với việc tăng cƣờng kiểm
soát nội bộ tại các ngân hàng thƣơng mại
Thứ nhất: Tổ chức bộ sổ kế toán phù hợp với việc hệ thống phương pháp kế
toán. Cụ thể:
Một là, Tổ chức hệ thống chứng từ kế toán: Các chứng từ ngân hàng trước khi
hạch toán vào các loại sổ sách luôn được kiểm soát kỹ về tính hợp lệ, hợp pháp của
nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh, tính chính xác của số liệu ghi trên chứng từ.
Đặc biệt, quá trình luân chuyển chứng từ luôn được chú trọng và được quy định cụ
thể từ khâu tiếp nhận và kiểm soát chứng từ, xử lý chứng từ, xử lý chứng từ, hạch
toán vào sổ sách kế toán, đóng chứng từ, xử lý chứng từ thành tập nhật ký đến khâu
cuối cùng là lưu trữ, bảo quản chứng từ. Việc quy định hệ thống chứng từ phù hợp
đã đảm bảo các nghiệp vụ kinh tế phát sinh được kiểm soát chặt chẽ và sử lý kịp
thời, đảm bảo độ chính xác góp phần cung cấp các thông tin nhanh và chính xác
phục vụ kiểm soát nội bộ tại các ngân hàng.
Hai là, Tổ chức hệ thống TK kế toán: Hệ thống TK kế toán ngân hàng là
công cụ để ghi chép phản ánh hàng ngày đối với hoạt động nguồn vốn và sử
dung vốn tại các ngân hàng. Hệ thống TK kế toán áp dụng cho NHNN riêng và
hệ thống TK áp dụng cho các ngân hàng trung gian riêng.
Ba là, Tổ chức hệ thống sổ kế toán chi tiết chi phí và lãi suất vay: Trong các
ngân hàng hệ thống sổ sách được gắn với hai bộ phận là hạch toán chi tiết và
hạch toán tổng hợp. Sổ kế toán chi tiết theo dõi các đối tượng kế toán cụ thể như
từng khách hàng, từng loại vốn, tài sản, thu nhập, chi phí...Sự đối chiếu giữa sổ
tổng hợp và chi tiết trong các ngân hàng đảm bảo sự chính xác giữa thông tin
tổng hợp và chi tiết, cung cấp các thông tin cho quản lý cũng như kiểm soát nội
bộ đơn vị chi tiết đến tổng hợp một cách chính xác, đầy đủ.
Bốn là, Tổ chức hệ thống báo cáo kế toán: Hệ thống báo cáo kế toán của
ngân hàng cũng gồm có báo cáo tài chính và báo cáo quản trị.
Thứ hai: Tổ chức bộ máy kế toán với tăng cường kiểm soát nội bộ: Mô hình tổ
chức bộ máy kế toán trong các ngân hàng có thể thực hiện theo mô hình kế toán phân
tán, mô hình kế toán tập trung, mô hình kế toán vừa tập trung, vừa phân tán.
viii
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC HẠCH TOÁN KẾ TOÁN
VỚI KIỂM SOÁT NỘI BỘ TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƢ VÀ
PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
2.1. Đặc điểm cơ bản của Ngân hàng Đầu tƣ và Phát triển Việt Nam với tổ
chức hạch toán kế toán theo yêu cầu của kiểm soát nội bộ
2.1.1. Đặc điểm cơ bản về hình thành và phát triển của Ngân hàng Đầu tƣ
và Phát triển Việt Nam
NHĐTPTVN được thành lập theo Nghị định Số 177/TTg ngày 26 tháng 4
năm 1957 của Thủ tướng Chính phủ. Bốn mươi ba năm qua NHĐTPTVN đã có
những tên gọi: Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam từ ngày 26/4/1957; Ngân hàng
Đầu tư và Xây dựng Việt Nam từ ngày 24/6/1981; NHĐTPTVN từ ngày
14/11/1990
NHĐTPTVN là một doanh nghiệp nhà nước hạng đặc biệt, được tổ chức
theo mô hình tổng công ty nhà nước (tập đoàn) mang tính hệ thống thống nhất
bao gồm hơn 112 chi nhánh và các công ty trong toàn quốc, có 3 đơn vị liên
doanh với nước ngoài (2 ngân hàng và 1 công ty), hùn vốn với 5 TCTD. Trọng
tâm hoạt động và nghề nghiệp truyền thống của NHĐTPTVN là phục vụ đầu tư
phát triển, các dự án thực hiện các chương trình phát triển kinh tế then chốt của
đất nước. Thực hiện đầy đủ các mặt nghiệp vụ của ngân hàng phục vụ các thành
phần kinh tế, có quan hệ hợp tác chặt chẽ với các doanh nghiệp, tổng công ty.
NHĐTPTVN không ngừng mở rộng quan hệ đại lý với hơn 400 ngân hàng và
quan hệ thanh toán với 50 ngân hàng trên thế giới. NHĐTPTVN là một ngân
hàng chủ lực thực thi chính sách tiền tệ quốc gia và phục vụ đầu tư phát triển.
Quá trình 43 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển luôn gắn liền với từng
giai đoạn lịch sử của đất nước.
2.1.2. Đặc điểm về tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Đầu tƣ và Phát
Triển Việt Nam
2.1.2.1.Mô hình tổ chức hệ thống Ngân hàng Đầu tƣ và Phát triển Việt Nam
NHĐTPTVN là một trong những ngân hàng có mạng lưới phân phối lớn
nhất trong hệ thống các ngân hàng tại Việt Nam, chia thành hai khối gồm
Khối Kinh doanh và Khối Sự nghiệp. Khối Kinh doanh bao gồm Ngân hàng
thương mại với 103 chi nhánh cấp 1, 5 Công ty trực thuộc; 5 công ty liên
doanh. Khối Sự nghiệp gồm Trung tâm Đào tạo (BTC) và Trung tâm Công
nghệ thông tin (BITC).
ix
2.1.2.2.Mô hình tổ chức Hội sở chính Ngân hàng Đầu tƣ và Phát triển Việt Nam
Bộ máy quản lý và điều hành của HSC NHĐTPTVN gồm có: Hội đồng
Quản trị, Ban Tổng giám đốc và bộ máy điều hành.
Hội đồng Quản trị có 6 thành viên, trong đó có Chủ tịch Hội đồng Quản trị
và 5 uỷ viên. Trực thuộc Hội đồng Quản trị có Ban kiểm soát và Hội đồng Xử lý
Rủi ro. Ban Tổng giám đốc chịu trách nhiệm điều hành hoạt động hàng ngày của
Ngân hàng. B