Tóm tắt Luận văn Nghiên cứu thống kê đánh giá phát triển bền vững ở Việt Nam

Phát triển bền vững không chỉ đơn thuần là quá trình phát triển kinh tế, là sự gia tăng về quy mô sản lượng mà còn là phát triển mang tính bền vững, đảm bảo sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế, xã hội và sự cân bằng của môi trường sinh thái. Hiện nay, phát triển bền vững là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Để có thể giám sát tình hình phát triển của đất nước, Việt nam đã xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững với những mục tiêu cụ thể. Tuy nhiên, các chỉ tiêu trong bộ chỉ tiêu này có thể có sự biến động ngược chiều nhau. Có những chỉ tiêu phát triển tốt theo thời gian, bên cạnh đó, một số chỉ tiêu chuyển biến xấu, tác động tiêu cực tới quá trình phát triển. Điều đó gây khó khăn trong đánh giá và phân tích xu hướng phát triển bền vững. Đã có nhữngtổ chức, cá nhân quan tâm, nghiên cứu phương pháp xây dựng chỉ số tổng hợp đánh giá phát triển bền vững để có cái nhìn tổng quát về vấn đề này. Mặc dù vậy, cho đến nay vẫn chưa có hệ thống đánh giá nào được đề xuất cụ thể và áp dụng trên thực tiễn. Từ đó, tác giả thực hiện đề tài nghiên cứu "Nghiên cứu thống kê đánh giá phát triển bền vững ở Việt Nam", đề xuất phương pháp tính chỉ số tổng hợp phát triển bền vững rõ ràng, cụ thể và khả thi. Từ đó, tác giả sử dụng dữ liệu sẵn có của Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010 để tính toán thử nghiệm. Đề tài này sẽ góp phần trả lời cho câu hỏi quản lý "Làm thế nào để đánh giá thực trạng phát triển bền vững ở Việt Nam?" và “Thực tế phát triển bền vững ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010 như thế nào?”.

pdf24 trang | Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 414 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Nghiên cứu thống kê đánh giá phát triển bền vững ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Phát triển bền vững không chỉ đơn thuần là quá trình phát triển kinh tế, là sự gia tăng về quy mô sản lượng mà còn là phát triển mang tính bền vững, đảm bảo sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế, xã hội và sự cân bằng của môi trường sinh thái. Hiện nay, phát triển bền vững là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Để có thể giám sát tình hình phát triển của đất nước, Việt nam đã xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững với những mục tiêu cụ thể. Tuy nhiên, các chỉ tiêu trong bộ chỉ tiêu này có thể có sự biến động ngược chiều nhau. Có những chỉ tiêu phát triển tốt theo thời gian, bên cạnh đó, một số chỉ tiêu chuyển biến xấu, tác động tiêu cực tới quá trình phát triển. Điều đó gây khó khăn trong đánh giá và phân tích xu hướng phát triển bền vững. Đã có nhữngtổ chức, cá nhân quan tâm, nghiên cứu phương pháp xây dựng chỉ số tổng hợp đánh giá phát triển bền vững để có cái nhìn tổng quát về vấn đề này. Mặc dù vậy, cho đến nay vẫn chưa có hệ thống đánh giá nào được đề xuất cụ thể và áp dụng trên thực tiễn. Từ đó, tác giả thực hiện đề tài nghiên cứu "Nghiên cứu thống kê đánh giá phát triển bền vững ở Việt Nam", đề xuất phương pháp tính chỉ số tổng hợp phát triển bền vững rõ ràng, cụ thể và khả thi. Từ đó, tác giả sử dụng dữ liệu sẵn có của Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010 để tính toán thử nghiệm. Đề tài này sẽ góp phần trả lời cho câu hỏi quản lý "Làm thế nào để đánh giá thực trạng phát triển bền vững ở Việt Nam?" và “Thực tế phát triển bền vững ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010 như thế nào?”. 2. Mục đích nghiên cứu Mục đích chung của luận án là xây dựng phương pháp tính chỉ số tổng hợp phát triển bền vững để có thể vận dụng đánh giá thực trạng phát triển ở Việt Nam. Cụ thể, nghiên cứu sẽ: - Hệ thống hóa và làm rõ các nội dung liên quan tới phát triển bền vững, hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững - Đề xuất phương pháp tính các chỉ số riêng biệt, chỉ số thành phần, chỉ số tổng hợp đánh giá phát triển bền vững trên cơ sở hệ thống chỉ tiêu đã có ở Việt Nam 2 - Tính toán thử nghiệm chỉ số tổng hợp phát triển bền vững ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010 3. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là phát triển bền vững. Phạm vi nghiên cứu: + Luận án tổng hợp số liệu, tính toán và phân tích chỉ số tổng hợp phát triển bền vững trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam + Thời gian nghiên cứu: giai đoạn 10 năm, từ 2001 đến 2010, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm của Việt nam. Về phương pháp nghiên cứu, luận án dự kiến sẽ sử dụng một số phương pháp thống kê sau: - Phương pháp phân tích tư liệu. Đây là một trong các phương pháp thu thập thông tin trong điều tra xã hội học. Dựa trên các tài liệu đã có về phát triển bền vững cũng như cách tính các chỉ số tổng hợp, tác giả đưa ra cái nhìn tổng quát về đối tượng nghiên cứu, làm cơ sở thực hiện các đánh giá sau này. - Phương pháp bảng, đồ thị thống kê: tổng hợp và biểu diễn số liệu các chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững theo thời gian. 4. Những đóng góp mới của luận án Thông qua nghiên cứu của mình, tác giả đã có một số đóng góp tri thức mới về mặt lý luận và thực tiễn hoạt động thống kê. Cụ thể : Thứ nhất, đề tài xây dựng phương pháp tính chỉ số tổng hợp đánh giá phát triển bền vững ở Việt Nam. Trong đó nêu rõ cách thức tính từ chỉ số riêng biệt, chỉ số thành phần tới chỉ số tổng hợp, xác định rõ các cận trên, cận dưới của từng chỉ số... Đây sẽ là một đóng góp mới, tích cực về mặt lý luận cho các nghiên cứu đánh giá phát triển bền vững ở Việt Nam trong tương lai. Thứ hai, về mặt thực tiễn, đề tài đưa ra các phân tích, đánh giá tính bền vững trong phát triển của Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010. Tác giả sử dụng số liệu thực tế của Việt Nam và công thức tính chỉ số tổng hợp vừa nêu để đi vào tính toán thử nghiệm, phân tích thực trạng phát triển bền vững của Việt Nam trong 10 năm qua. Kết quả nghiên cứu sẽ giúp các cơ quan quản lý Nhà nước đưa ra phương pháp tổng hợp, đánh giá và so sánh tính bền vững trong quá trình phát triển của 3 đất nước. Ngoài ra, đề tài cũng mở ra hướng nghiên cứu tiếp về việc hoàn thiện hơn nữa hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững đã có cũng như lựa chọn phương pháp đánh giá cụ thể trong giai đoạn phát triển mười năm tới. 5. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu đề cập đến sự cần thiết, mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, nội dung chính của đề tàiđược chia làm 3chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về phát triển bền vững Chương 2: Xây dựng phương pháp tính chỉ số tổng hợp đánh giá phát triển bền vững ở Việt Nam Chương 3: Tính toán thử nghiệm và phân tích biến động chỉ số tổng hợp phát triển bền vững ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010 4 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀPHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 1.1.Khái niệm phát triển và phát triển bền vững 1.1.1.Khái niệm phát triển Phát triển là thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến trong các văn bản, tài liệu và trong sinh hoạt hàng ngày. Theo các giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử, các nhà nghiên cứu kinh tế trên thế giới đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về phát triển. Cùng với quá trình phát triển của xã hội loài người, khái niệm phát triển đã dần được hoàn thiện. Hiện nay, về cơ bản, khái niệm phát triển vẫn giữ nguyên nội dung của thập niên trước nhưng trong đó nhấn mạnh hơn quyền của con người. Phát triển kinh tế bao hàm tăng trưởng về kinh tế, tiến bộ về cơ cấu kinh tế và sự tiến bộ về xã hội. 1.1.2.Khái niệm phát triển bền vững Thuật ngữ "phát triển bền vững" xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung rất đơn giản: "Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học" [41, tr.18-19]. Khái niệm này được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 nhờ Báo cáo Brundtland (còn gọi là báo cáo Tương lai chung của chúng ta) của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới(WCED) thuộc Liên hiệp quốc. Báo cáo này ghi rõ "phát triển bền vững là sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai" [42, tr.37]. Phát triển bền vững được biết đến ở Việt Nam vào khoảng cuối thập niên 80 đầu thập niên 90. Trên cơ sở những khái niệm trên và từ sự phát triển thực tế của đất nước, các nhà nghiên cứu kinh tế của Việt Nam đã đưa ra khái niệm về phát triển bền vững là cơ sở để thực hiện những mục tiêu phát triển của đất nước. Đó là sự phát triển lành mạnh, trong đó sự phát triển của cá nhân này không làm thiệt hại đến lợi ích của các cá nhân khác, sự phát triển của cá nhân không làm thiệt hại đến lợi ích của cộng đồng, sự phát triển của cộng đồng 5 người này không làm thiệt hại đến lợi ích của cộng đồng người khác, sự phát triển của thế hệ hôm nay không xâm phạm đến lợi ích của các thế hệ mai sau và sự phát triển của loài người không đe doạ sự sống còn hay làm suy giảm nơi sinh sống của các sinh vật khác trên hành tinh. 1.2.Sự cần thiết phải thực hiện phát triển bền vững Mọi người trên trái đất này luôn mong muốn hoàn thiện hơn cuộc sống của mình để tạo nên những phát triển thần kỳ chưa từng có. Nhưng trái đất của chúng ta với các điều kiện tự nhiên lại không thể đáp ứng được những mong muốn vô hạn ấy của con người. Các nguồn tài nguyên chỉ là hữu hạn nên có thể cạn kiện dần, điều kiện thiên nhiên có thể khắc nghiệt hơn... Điều này tạo nên mâu thuẫn gay gắt, đòi hỏi vừa phải phát triển, vừa phải duy trì sự hài hoà giữa con người với môi trường sống của mình. Do vậy, thực hiện phát triển bền vững được coi như là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu của mỗi quốc gia. Các tổ chức và các quốc gia tuỳ theo những mục tiêu khác nhau mà đưa ra sự cần thiết phải phát triển bền vững và các nội dung khác nhau về phát triển bền vững. Ở Việt Nam, vấn đề phát triển bền vững đã được thể hiện rõ ràng, chi tiết trong các Văn kiện chính trị, đặc biệt, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản toàn quốc lần thứ IX đã nêu rõ Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010: “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”; “Phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học” [36]. Với giai đoạn 10 năm tiếp theo, từ 2011 - 2020, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược kinh tế - xã hội mà Đại hội đại biểu lần thứ XI của Đảng cộng sản Việt Nam đề ra: "Phát triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo nguồn lực cho phát triển bền vững. Phát triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế-xã hội" [38]. 1.3.Nội dung của phát triển bền vững 1.3.1.Nội dung phát triển bền vững theo một số tổ chức quốc tế Hội nghị thượng đỉnh Trái đất về môi trường và phát triển (Rio de Janero 6/1992) và diễn đàn thanh niên ASEM thống nhất phát triển bền vững gồm bốn nội dung: kinh tế, xã hội, môi trường và thể chế. Thể chế của mỗi quốc gia là cơ 6 sở lập các kế hoạch, chính sách, đề ra các mục tiêu hướng tới cũng như phổ biến hành động cho toàn dân. Chính vì vậy, hai tổ chức này đã đưa thể chế là một nội dung ngang hàng với ba yếu tố chính tạo nên phát triển bền vững (kinh tế, xã hội và môi trường). Theo quan điểm khác, hai nhà môi trường học Canada là Jacobs và Sadler tiếp cận phát triển bền vững theo bản chất của nó là sự phát triển có tính tổng hợp và tính hệ thống. Theo mối quan hệ không tách rời nhau giữa ba nhân tố kinh tế, xã hội và môi trường, Jacobs và Sadler đưa ra nội dung của phát triển bền vững là ba đỉnh của một tam giác: môi trường, kinh tế và xã hội; trong đó, môi trường được đặt lên hàng đầu và nhân tố thể chế được gộp trong xã hội. Mô hình này đã được Mohan Munasingle, chuyên gia của Ngân hàng thế giới (WB) phát triển thành sơ đồ ba cực. Quan điểm này hiện nay được áp dụng phổ biến trên toàn thế giới. Đó là sự kết hợp của ba nhân tố với sức mạnh tổng hợp để tạo nên được sự ổn định, bền vững của mỗi quốc gia. 1.3.2. Việt Nam Năm 2004, Việt Nam đã xây dựng được cho mình chương trình phát triển bền vững riêng, mang tên AGENDA-21. Trong đó, Việt Nam nêu rõ mục tiêu tổng quát của phát triển bền vững là “đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự giàu có về văn hoá và tinh thần, sự bình đẳng của các công dân và sự đồng thuận của xã hội, sự hài hoà giữa con người và tự nhiên; phát triển phải kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà được ba mặt là phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường”. Từ đó, nội dung phát triển bền vững gồm ba nhân tố cụ thể: về kinh tế, xã hội và môi trường. 1.4.Hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững 1.4.1.Một số vấn đê chung về hệ thống chỉ tiêu thống kê Hệ thống chỉ tiêu là một tập hợp nhiều chỉ tiêu nhưng không phải là các chỉ tiêu bất kỳ nào đó mà là một tập hợp có tính hệ thống nhằm phản ánh hai nội dung lớn: về các mặt, các tính chất quan trọng nhất của tổng thể và về mối liên hệ cơ bản giữa các mặt trong tổng thể cũng như giữa tổng thể nghiên cứu và hiện tượng có liên quan (trong phạm vi mục đích nghiên cứu). 7 Để có được hệ thống chỉ tiêu thống kê phù hợp, có thể sử dụng để đánh giá tình hình phát triển thực tế, hệ thống chỉ tiêu cần đáp ứng bốn yêu cầu: mục đích nghiên cứu, đặc điểm phản ánh, tính khả thi và số lượng chỉ tiêu. Dựa vào các yêu cầu này, luận án sẽ đánh giá tính hợp lý, khả thi của hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững áp dụng vào Việt Nam sau này. 1.4.2.Các nghiên cứu về hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững trên thế giới Bắt đầu vào năm 1995, đáp ứng yêu cầu của Hội đồng phát triển bền vững của Liên hợp quốc (UN CSD), Ủy ban kinh tế và các vấn đề xã hội Liên hợp quốc hợp tác với các chuyên gia từ các tổ chức quốc tế và các thành viên khác đã xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê gồm 134 chỉ tiêu quốc gia về phát triển bền vững. Năm 2001, UN CSD đã đưa ra hệ thống chỉ tiêu khuyến nghị gồm 15 chủ đề chính, 38 chủ đề nhánh và 58 chỉ tiêu. Hệ thống chỉ tiêu này được sửa đổi một lần nữa vào năm 2006, là cơ sở để các quốc gia xây dựng hệ thống chỉ tiêu phát triển bền vững cho riêng mình. Các tổ chức khác của Liên hợp quốc cũng như các tổ chức xã hội và phi chính phủ cũng nghiên cứu và giới thiệu các chỉ số quốc gia như chỉ số phát triển con người, chỉ số Dấu chân sinh thái... Nhiều quốc gia cũng đưa ra các chiến lược phát triển bền vững AGENDA-21 cùng hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững với số lượng và nội dung khác nhau: Indonesia (21 chỉ tiêu), Trung Quốc (80 chỉ tiêu), Anh (15 chỉ tiêu), Mỹ (32 chỉ tiêu)... 1.4.3.Các nghiên cứu vềhệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững ở Việt Nam Theo xu hướng thế giới, Việt Nam đã nghiên cứu để xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững cho riêng mình. Quá trình này được các Bộ, ban, ngành và các tổ chức rất quan tâm. Kết quả là có nhiều hệ thống chỉ tiêu được đưa ra. Theo thời gian, hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững dần được hoàn thiện và đi vào thực tế. Với mong muốn có được hệ thống chỉ tiêu thống kê thống nhất, ngày 12/4/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 432/QĐ-TTg năm 2012 phê duyệt Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020. Theo đó, hệ thống chỉ tiêu giám sát và đánh giá phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 đưa ra gồm 30 chỉ tiêu với nguồn số liệu và lộ trình thực hiện, cụ thể ở bảng 1.1. 8 Bảng 1.1. Hệ thống chỉ tiêu thống kê giám sát và đánh giá phát triển bền vững của Việt Nam TT Chỉ tiêu Cơ quan chịu trách nhiệm thu thập, tổng hợp Lộ trình I Các chỉ tiêu tổng hợp 1 GDP xanh (VND hoặc USD) Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Tổng cục Thống kê) 2015 2 Chỉ số phát triển con người (HDI) (0-1) Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Tổng cục Thống kê) 2015 3 Chỉ số bền vững môi trường (0-1) Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Tổng cục Thống kê) 2015 II Các chỉ tiêu kinh tế 4 Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (ICOR) (số đồng vốn đầu tư thực hiện tăng thêm 1 đồng GDP) Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Tổng cục Thống kê) 2011 5 Năng suất lao động xã hội (USD/lao động) Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Tổng cục Thống kê) 2011 6 Tỷ trọng đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp vào tốc độ tăng trưởng chung (%) Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Tổng cục Thống kê) 2015 7 Mức giảm tiêu hao năng lượng để sản xuất ra một đơn vị GDP (%) Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Tổng cục Thống kê) 2015 8 Tỷ lệ năng lượng tái tạo trong cơ cấu sử dụng năng lượng (%) Bộ Công Thương 2011 9 Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) (% so với tháng 12 năm trước) Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Tổng cục Thống kê) 2011 10 Cán cân vãng lai (tỷ USD) Ngân hàng Nhà nước 2011 11 Bội chi ngân sách Nhà nước (%/GDP) Bộ Tài chính 2011 12 Nợ của Chính phủ (%/GDP) Bộ Tài chính 2011 13 Nợ nước ngoài (%/GDP) Chủ trì: Bộ Tài chính 2011 Phối hợp: Ngân hàng Nhà nước III Các chỉ tiêu về xã hội 14 Tỷ lệ nghèo (%) Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Tổng cục Thống kê) 2011 15 Tỷ lệ thất nghiệp (%) Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Tổng cục Thống kê) 2011 9 TT Chỉ tiêu Cơ quan chịu trách nhiệm thu thập, tổng hợp Lộ trình 16 Tỷ lệ lao động đang làm việc trong nền kinh tế đã qua đào tạo (%) Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Tổng cục Thống kê) 2011 17 Hệ số bất bình đẳng trong phân phối thu nhập (hệ số Gini) (lần) Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Tổng cục Thống kê) 2011 18 Tỷ số giới tính khi sinh (trai/100 gái) Bộ Y tế 2011 19 Số sinh viên/10.000 dân (SV) Bộ Giáo dục và Đào tạo 2011 20 Số thuê bao Internet (số thuê bao/100 dân) Bộ Thông tin và Truyền thông 2011 21 Tỷ lệ người dân được hưởng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp (%) Bảo hiểm xã hội Việt Nam 2011 22 Số người chết do tai nạn giao thông (người/100.000 dân/năm) Bộ Công an 2011 23 Tỷ lệ số xã được công nhận đạt tiêu chí nông thôn mới (%) Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 2015 IV Các chỉ tiêu về tài nguyên và môi trường 24 Tỷ lệ che phủ rừng (%) Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 2011 25 Tỷ lệ đất được bảo vệ, duy trì đa dạng sinh học (%) Bộ Tài nguyên và Môi trường 2011 26 Diện tích đất bị thoái hóa (triệu ha) Bộ Tài nguyên và Môi trường 2015 27 Mức giảm lượng nước ngầm, nước mặt (m3/người/năm) Bộ Tài nguyên và Môi trường 2011 28 Tỷ lệ ngày có nồng độ các chất độc hại không khí vượt quá tiêu chuẩn cho phép (%) Bộ Tài nguyên và Môi trường 2011 29 Tỷ lệ các đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp xử lý chất thải rắn, nước thải đạt tiêu chuẩn hoặc quy chuẩn kỹ thuật quốc gia tương ứng (%) - Chủ trì: Bộ Xây dựng 2011 - Phối hợp: Bộ Tài nguyên và Môi trường; Bộ Công Thương 30 Tỷ lệ chất thải rắn thu gom, đã xử lý đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia tương ứng (%) - Chủ trì: Bộ Xây dựng 2011 - Phối hợp: Bộ Tài nguyên và Môi trường (Nguồn:Quyết định 432/QĐ-TTg do Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 12/4/2012) 10 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Nội dung chương 1 đã trình bày tổng quan về phát triển bền vững, bao gồm khái niệm, sự cần thiết và nội dung của phát triển bền vững. Phát triển bền vững là sự kết hợp chặt chẽ, là mối quan hệ qua lại giữa phát triển kinh tế với các vấn đề xã hội và các yếu tố của môi trường một cách hài hoà, ổn định, linh hoạt. Đây là yêu cầu cấp thiết của mỗi quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Nội dung của phát triển bền vững tập trung vào ba lĩnh vực chính, đó là kinh tế, xã hội và môi trường, không thiên lệch bất kỳ lĩnh vực nào. Những nội dung này là cơ sở cho việc xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Từ đó, chương 1 giới thiệu một số hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững đã có và đi sâu phân tích hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững của Việt Nam hiện nay. Đây là hệ thống chỉ tiêu mới nhất do Chính phủ ban hành, có sự có mặt của một số chỉ tiêu mang tính tổng hợp, đánh giá nhiều lĩnh vực. Phần cuối của chương phân tích những điểm giống và khác nhau giữa hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững ở Việt Nam và hệ thống chỉ tiêu phát triển bền vững do Hội đồng phát triển bền vững của Liên hợp quốc khuyến nghị. Bên cạnh đó, tác giả cũng một số hạn chế trong hệ thống chỉ tiêu cần khắc phục trong thời gian tới. Với hệ thống chỉ tiêu thống kê đưa ra, việc đánh giá sẽ được thực hiện theo từng chỉ tiêu riêng biệt, phản ánh từng mặt, từng khía cạnh của phát triển bền vững. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở đó, nghiên cứu chưa thể đưa đến kết luận tổng quát về kết quả thực hiện chiến lược phát triển bền vững của đất nước. Cần phải có một đánh giá chung về quá trình phát triển bền vững của đất nước theo thời gian để có thể so sánh và rút ra những kinh nghiệm cho phát triển. Đó chính là khoảng trống về mặt lý thuyết cũng như thực tế mà luận án sẽ đi sâu nghiên cứu. 11 CHƯƠNG 2.XÂY DỰNG PHƯƠNG PHÁP TÍNH CHỈ SỐ TỔNG HỢP ĐÁNH GIÁ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM 2.1. Tổng quan nghiên cứu về phương pháp xây dựng chỉ số tổng hợp Có nhiều phương pháp khác nhau được đưa ra để tính toán chỉ số tổng hợp này. Cụ thể: Thứ nhất, để tính chỉ số phát triển con người (HDI), chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) đã tính theo công thức bình quân nhân giản đơn của 3 chỉ số thành phần: HDI ൌ I୐୧୤ୣଵ/ଷI୉ୢ୳ୡୟ୲୧୭୬ଵ/ଷI୍୬ୡ୭୫ୣଵ/ଷ Trong công thức tính chỉ số tổng hợp, các ch
Luận văn liên quan