Các ngân hàng thương mại (NHTM) nói chung và Ngân hàng Thương mại cổ
phần (TMCP) Đông Nam Á nói riêng là những trung gian tài chính quan trọng trong
nền kinh tế. Hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ và dịch vụ ngân hàng, quản lý một khối
lượng lớn vốn và tài sản, các NHTM không thể tránh khỏi những rủi ro trong hoạt động
tín dụng, thanh toán, nguồn vốn, quỹ Để ngăn ngừa rủi ro, hoàn thiện tổ chức kiểm
toán nội bộ (KTNB) là một yêu cầu cũng như một nhân tố góp phần vào sự ổn định và
phát triển của các NHTM.
Đối với Ngân hàng TMCP Đông Nam Á, bộ phận KTNB được thành lập ngày
ngày 15/2/2007 theo Quyết định số 54/2007/QĐ –HĐQT ngày 12/02/2007, tuy nhiên
trong thực tế hiện nay, hoạt động KTNB đang gặp nhiều khó khăn, bất cập. Khó khăn
lớn nhất mà KTNB trong các NHTM đang gặp phải là thiếu chiến lược rõ ràng và dài
hạn cho KTNB; việc tổ chức KTNB chưa đảm bảo tính hợp lý và hiệu quả, có quy
trình KTNB chưa phù hợp. Do đó, việc nghiên cứu Đề tài “Tổ chức kiểm toán nội bộ
trong Ngân hàng Thương mại cổ phần Đông Nam Á” mang tính cấp bách trong hoạt
động kinh doanh của Ngân hàng hiện nay.
Ngoài Lời mở đầu và Kết luận, nội dung Luận văn gồm ba phần chính được
trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của tổ chức kiểm toán nội bộ trong ngân hàng thương
mại;
Chương 2: Thực trạng tổ chức kiểm toán nội bộ trong Ngân hàng Thương mại
cổ phần Đông Nam Á;
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện tổ chức kiểm toán nội bộ
trong Ngân hàng Thương mại cổ phần Đông Nam Á
16 trang |
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 466 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tóm tắt Luận văn Tổ chức kiểm toán nội bộ trong Ngân hàng Thương mại cổ phần Đông Nam Á, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i
TÓM TẮT LUẬN VĂN
Các ngân hàng thương mại (NHTM) nói chung và Ngân hàng Thương mại cổ
phần (TMCP) Đông Nam Á nói riêng là những trung gian tài chính quan trọng trong
nền kinh tế. Hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ và dịch vụ ngân hàng, quản lý một khối
lượng lớn vốn và tài sản, các NHTM không thể tránh khỏi những rủi ro trong hoạt động
tín dụng, thanh toán, nguồn vốn, quỹĐể ngăn ngừa rủi ro, hoàn thiện tổ chức kiểm
toán nội bộ (KTNB) là một yêu cầu cũng như một nhân tố góp phần vào sự ổn định và
phát triển của các NHTM.
Đối với Ngân hàng TMCP Đông Nam Á, bộ phận KTNB được thành lập ngày
ngày 15/2/2007 theo Quyết định số 54/2007/QĐ –HĐQT ngày 12/02/2007, tuy nhiên
trong thực tế hiện nay, hoạt động KTNB đang gặp nhiều khó khăn, bất cập. Khó khăn
lớn nhất mà KTNB trong các NHTM đang gặp phải là thiếu chiến lược rõ ràng và dài
hạn cho KTNB; việc tổ chức KTNB chưa đảm bảo tính hợp lý và hiệu quả, có quy
trình KTNB chưa phù hợp. Do đó, việc nghiên cứu Đề tài “Tổ chức kiểm toán nội bộ
trong Ngân hàng Thương mại cổ phần Đông Nam Á” mang tính cấp bách trong hoạt
động kinh doanh của Ngân hàng hiện nay.
Ngoài Lời mở đầu và Kết luận, nội dung Luận văn gồm ba phần chính được
trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của tổ chức kiểm toán nội bộ trong ngân hàng thương
mại;
Chương 2: Thực trạng tổ chức kiểm toán nội bộ trong Ngân hàng Thương mại
cổ phần Đông Nam Á;
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện tổ chức kiểm toán nội bộ
trong Ngân hàng Thương mại cổ phần Đông Nam Á.
ii
Trong Chương 1, Cơ sở lý luận của tổ chức kiểm toán nội bộ trong ngân
hàng thương mại, Luận văn trình bày những nội dung sau đây:
Thứ nhất, vai trò và nội dung của kiểm toán nội bộ nói chung và kiểm toán
nội bộ trong các ngân hàng thương mại nói riêng.
KTNB chính thức ra đời năm 1941 tại Hoa Kỳ với sự ra đời của Viện Kiểm toán
nội bộ (IIA). Trong quá trình hình thành và phát triển, vai trò của KTNB dần được phát
triển theo các khái niệm của các tổ chức, hiệp hội nghề nghiệp kế toán – kiểm toán.
Theo khái niệm được sử dụng phổ biến hiện nay thể hiện trong các chuẩn mực thực
hành KTNB do IIA ban hành vào năm 1999 thì KTNB là hoạt động đưa ra sự đảm bảo
và tư vấn mang tính độc lập và khách quan được thiết kế nhằm mang lại giá trị và tăng
cường hoạt động của một tổ chức. KTNB trợ giúp một tổ chức đạt được các mục tiêu
của mình thông qua phương pháp tiếp cận có hệ thống và có nguyên tắc để đánh giá và
tăng cường tính hiệu quả của công tác quản trị rủi ro, của hệ thống kiểm soát nội bộ
(KSNB) và của các chu trình quản lý. Cùng với sự phát triển không ngừng và ngày
một phức tạp của nền kinh tế, vai trò của KTNB trong việc kiểm soát rủi ro đã dần
được công nhận và phát triển từ vai trò đảm bảo sang cả hỗ trợ, tư vấn và gia tăng giá
trị.
Ở Việt Nam, trong lĩnh vực kiểm tra, kiểm soát Luật Doanh nghiệp nhà nước năm
1995 đã có quy định liên quan đến KTNB và ban kiểm soát do hội đồng quản trị thành
lập. Tuy nhiên chức năng nhiệm vụ của các bộ phận này chưa rõ ràng, chưa đề cập cụ
thể đến hoạt động của KTNB. Trong lĩnh vực ngân hàng, để tạo điều kiện phát huy hơn
nữa hiệu quả hoạt động của hệ thống KTNB, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban
hành Quyết định Số 37/2006/QĐ –NHNN ngày 01/08/2006 về Quy chế mới của
KTNB của tổ chức tín dụng (TCTD). Theo đó, KTNB trong các TCTD là hoạt động
kiểm tra, rà soát, đánh giá một cách độc lập, khách quan đối với hệ thống kiểm tra,
KSNB; đánh giá độc lập về tính thích hợp và sự tuân thủ các chính sách, thủ tục quy
trình đã được thiết lập trong TCTD, thông qua đó đơn vị thực hiện KTNB đưa ra các
iii
kiến nghị, tư vấn nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các hệ thống, các
quy trình, quy định, góp phần đảm bảo TCTD hoạt động an toàn, hiệu quả, đúng pháp
luật.
Thứ hai, về đặc điểm tổ chức kiểm toán nội bộ trong NHTM. Hoạt động kinh
doanh của ngân hàng rất đa dạng bao gồm hoạt động huy động vốn, hoạt động tín
dụng, hoạt động đầu tư, hoạt động dịch vụ thanh toán, hoạt động ngân quỹ và các hoạt
động khác. NHTM phải đối mặt rất nhiều rủi ro: các rủi ro về sản phẩm – dịch vụ và
các rủi ro hoạt động như rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối, rủi ro thanh
khoản. NHTM với những đặc điểm kinh doanh như sự phân tán địa điểm giao dịch, sự
phức tạp trong hệ thống KSNB, mục tiêu doanh số lợi nhuận cao có ảnh hưởng lớn
đến hoạt động của KTNB.
Để thực hiện vai trò của mình, KTNB trong các NHTM thực hiện ba loại kiểm
toán gồm kiểm toán hoạt động, kiểm toán báo cáo tài chính và báo cáo quản trị, kiểm
toán tuân thủ. Tùy theo yêu cầu của ban lãnh đạo và đơn vị được kiểm toán, tùy năng
lực và hoàn cảnh, KTNB có thể thực hiện ba hoặc một trong ba công việc hoạt động
kiểm toán trên. Tổ chức KTNB gồm 2 nội dung: tổ chức công tác KTNB và tổ chức
bộ máy KTNB.
Trong mọi trường hợp, tổ chức công tác kiểm toán được tiến hành theo một quy
trình chung với bốn bước cơ bản: Chuẩn bị kiểm toán, thực hiện kiểm toán, kết thúc
kiểm toán và cuối cùng là theo dõi thực hiện khuyến nghị. Bước chuẩn bị kiểm toán
bao gồm việc KTNB phải xác định, phân tích, đánh giá những rủi ro và xây dựng hồ
sơ rủi ro cho từng hoạt động của TCTD. Đây chính là căn cứ để KTNB lập kế hoạch
kiểm toán hàng năm và kế hoạch cho từng cuộc kiểm toán và trình hội đồng quản trị
thông qua. Trong quá trình thực hiện kiểm toán, chương trình kiểm toán sẽ được lập
đối với mỗi nội dung kiểm toán gồm thủ tục kiểm toán thực hiện, mục tiêu, quy mô,
nội dung chính cần đạt đượcKết quả của cuộc kiểm toán được thể hiện trên hồ sơ
kiểm toán và được lập thành báo cáo kiểm toán trong giai đoạn kết thúc kiểm toán.
iv
Khác với các cuộc kiểm toán thông thường, tổ chức KTNB không chỉ dừng lại ở lập
báo cáo kiểm toán mà còn có trách nhiệm theo dõi việc khắc phục, chỉnh sửa của đơn
vị được kiểm toán để hạn chế tối đa nhất rủi ro mà TCTD có thể gặp phải.
Căn cứ quy mô, mức độ và đặc điểm hoạt động của TCTD và trên cơ sở đề nghị
của Ban Kiểm soát, Hội đồng quản trị quyết định tổ chức bộ máy của KTNB. Bộ máy
KTNB trong NHTM thường phân theo ngành dọc, theo khu vực địa lý (như miền Bắc,
Trung, Nam) hoặc theo nghiệp vụ (tín dụng, kế toán, rủi ro). Để bộ phận KTNB có
thể thực hiện đầy đủ nhiệm vụ và chức năng của mình, bộ máy kiểm toán phải có
nguồn lực và nhân lực đầy đủ và có khả năng. Tiêu chuẩn đặt ra đối với kiểm toán viên
(KTV) bao gồm tính trung thực, tính khách quan, kiến thức chuyên môn và khả năng
phân tích, đánh giá, tổng hợp. Ngoài ra, TCTD được thuê các chuyên gia, tổ chức bên
ngoài có đủ khả năng để thực hiện một phần công việc nếu cần thiết. Tổ chức bộ máy
kiểm toán cần có sự luân chuyển KTV nội bộ định kỳ nhằm tăng cường tính khách
quan và độc lập của bộ phận KTNB.
Cuối cùng, về kinh nghiệm quốc tế, kết quả khảo sát của Ủy ban giám sát ngân
hàng Basel và Viện kiểm toán nội bộ Hoa kỳ đã khái quát những đặc điểm tổ chức
KTNB về phạm vi, vai trò, nguyên tắc và quy trình KTNB tại một số NHTM lớn trên
thế giới. Qua đó, NHTM Việt Nam nói chung và Ngân hàng TMCP Đông Nam Á nói
riêng có thể rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu về tổ chức KTNB như việc nhận
thức đúng về vị trí và lợi ích của KTNB cũng như xây dựng lộ trình để tổ chức KTNB
tốt nhất, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Như vậy, những cơ sở lý luận chung được trình bày trong chương 1 giúp chúng ta
hình dung tổng quan về tổ chức kiểm toán nội bộ nói chung và kiểm toán nội bộ trong
ngân hàng thương mại nói riêng. Đặc biệt, Luận văn còn nêu được những kinh nghiệm
quốc tế trong các ngân hàng trên thế giới về tổ chức kiểm toán nội bộ.
v
Trong Chương 2, thực trạng tổ chức kiểm toán nội bộ trong Ngân hàng
TMCP Đông Nam Á, Luận văn trình bày những nội dung sau:
Thứ nhất, đặc điểm chung của Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á
với tổ chức kiểm toán nội bộ.
Ngân hàng TMCP Đông Nam Á tên giao dịch quốc tế là Southeast Asia Bank
(SeABank) được NHNN cấp giấy phép thành lập ngày 25/3/1994. Trải qua hơn 15 năm
phát triển, SeABank đã có những bước phát triển vượt bậc về vốn điều lệ, tài sản, mạng
lưới hoạt động và đạt được những thành công hết sức khả quan. SeAbank hiện đang là
một trong tốp 10 ngân hàng TMCP lớn nhất Việt Nam với số vốn điều lệ là 5.068 tỷ
đồng, 1.100 nhân viên và gần 80 điểm giao dịch trên toàn quốc.
Là một NHTM đa năng, SeABank cung ứng đầy đủ và phong phú các sản phẩm
dịch vụ ngân hàng truyền thống và hiện đại như các dịch vụ nhận tiền gửi, dịch vụ tín
dụng, dịch vụ thẻ, dịch vụ thanh toán, kinh doanh tiền tệvà hoạt động đầu tư ở các
công ty con. Năm 2009, SeAbank đã đạt được những thành công đáng ghi nhận qua
mức lợi nhuận trước thuế đạt 600,3 tỷ đồng, tăng 152% so với năm 2008; sức sinh lời
vốn, tài sản đạt mức cao và các giải thưởng trong và ngoài nước.
Với chiến lược kinh doanh mới tập trung bán lẻ, quy mô vốn lớn, SeAbank càng
mở rộng mạng lưới giao dịch; các hình thức huy động vốn, cho vay, thanh toán, kinh
doanh tiền tệ...với loại hình, tính chất đa dạng. Huy động vốn luôn có tốc độ tăng
nhanh qua các năm do SeAbank liên tục mở ra các chương trình khuyến mãi, ưu đãi
khách hàng như Mừng xuân sang đón lộc vàng, Mùa hè tuyệt vời, lộc vàng nhân
đôi...Từ nghiệp vụ cho vay truyền thống, đến nay, SeAbank có thể cung cấp hầu hết
các dịch vụ tài chính ngân hàng hiện có tại Việt Nam. Đặc biệt đối với nhóm khách
hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhóm khách hàng cá nhân, SeAbank phát triển hàng
loạt sản phẩm mới đa dạng, hấp dẫn, phù hợp khả năng từng đối tượng, giúp khách
hàng dễ dàng tiếp cận được nguồn vốn với chi phí hợp lý. Tổng dư nợ của SeAbank
năm 2009 đạt gần 25.000 tỷ đồng, tăng 43% so với năm 2008. Ngoài ra, hoạt động thẻ
vi
ATM và hoạt động thanh toán quốc tế mới ra đời nhưng đã đạt được những thành tựu
đáng khích lệ như SeAbank trở thành thành viên chính thức của Master Card và Visa
Card, đạt giải thanh toán quốc tế xuất sắc do CityBank trao tặng...
Vì số lượng giao dịch của SeAbank ngày càng tăng, tính chất các giao dịch ngày
càng phức tạp cho nên khả năng xảy ra rủi ro, sai sót và gian lận trong các hoạt động
của ngân hàng tương đối cao. Điều này đỏi hỏi SeAbank phải thiết lập và vận hành hữu
hiệu hệ thống KSNB. Và vai trò của KTNB tại Ngân hàng là kiểm tra, rà soát và đánh
giá một cách độc lập, khách quan đối với hệ thống KSNB; đánh giá về tính thích hợp
và sự tuân thủ các chính sách, thủ tục quy trình đã được thiết lập tại SeAbank.
Trong mô hình tổ chức hoạt động của Ngân hàng TMCP Đông Nam Á, Hội đồng
quản trị là cơ quan quyền lực cao nhất của Ngân hàng. Ban Tổng giám đốc chịu trách
nhiệm trước Hội đồng quản trị, trước pháp luật về việc điều hành trực tiếp hoạt động
các phòng ban Hội sở cũng như toàn bộ các chi nhánh và phòng giao dịch. Ban kiểm
soát SeAbank được thành lập nhằm trợ giúp hội đồng quản trị kiểm tra, giám sát tất cả
các hoạt động của Ngân hàng theo quy định hiện hành thông qua hoạt động của bộ
phận KTNB.
Thứ hai, về tổ chức kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng Thương mại cổ phần
Đông Nam Á hiện nay. Bắt đầu hoạt động từ năm 2004, Ngân hàng TMCP Hải Phòng
(tiền thân của SeABank) đã tổ chức hoạt động kiểm tra, KTNB theo quy định của
NHNN. Tiền thân của phòng KTNB hiện nay là phòng kiểm tra, KTNB và phòng kiểm
tra, KSNB trực thuộc ban Tổng giám đốc nên tính độc lập chưa cao. Chuẩn theo quyết
định số 37/2006/QĐ –NHNN ngày 01/08/2006 do NHNN đã ban hành, SeAbank đã
xây dựng và tổ chức phòng KTNB. Phòng KTNB ra đời ngày 15/2/2007 theo Quyết
định số 54/2007/QĐ –HĐQT ngày 12/02/2007, gồm 8 thành viên, được tổ chức thành
một phòng KTNB đặt tại Hội sở chính. Từ đây, công tác KTNB đã dần thực hiện đúng
chức năng vốn có của mình, bộ máy KTNB càng ngày càng được nâng cao cả về số
vii
lượng lẫn chất lượng, đáp ứng được yêu cầu đặt ra của Hội đồng quản trị, Ban kiểm
soát và Ban tổng giám đốc.
Ngay từ khi thành lập phòng KTNB, Ngân hàng TMCP Đông Nam Á đã ban hành
quy trình và quy chế KTNB làm cơ sở, hành lang hoạt động và định hướng thống nhất
trong hoạt động KTNB tại SeAbank. Theo đó, KTNB có vai trò rất quan trọng gồm xác
nhận và báo cáo Hội đồng quản trị, ban lãnh đạo Ngân hàng về chất lượng và độ tin
cậy các thông tin kinh tế, tài chính và phi tài chính; về chấp hành pháp luật và các quy
định nội bộ của SeAbank; phát hiện và chỉ ra nguyên nhân của những sơ hở, yếu kém
trong hoạt động, từ đó đề xuất và tư vấn với Hội đồng quản trị, ban lãnh đạo SeAbank
các biện pháp, giải pháp để cải tiến, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động của
SeAbank, giúp SeAbank đạt được mục tiêu của mình; đóng góp giá trị tăng thêm để cải
thiện, nâng cao chất lượng hoạt độ thông qua việc hoàn thiện môi trường quản lý rủi ro
và hệ thống KSNB của SeAbank.
Để thực hiện vai trò của mình, KTNB tại SeAbank thực hiện bốn chức năng gồm
kiểm tra, đánh giá, xác nhận, tư vấn và luôn đảm bảo tính khách quan, trung thực, công
bằng, không định kiến khi thực hiện nhiệm vụ KTNB. Với chức năng kiểm tra, KTNB
sử dụng các biện pháp kỹ thuật để xem xét, đối chiếu mức độ trung thực của các thông
tin, tài liệu và tính hợp pháp của việc thực hiện các nghiệp vụ hay việc lập các bản khai
tài chính. Với chức năng đánh giá, thông qua kiểm tra, nhân viên KTNB đánh giá tính
đúng đắn, trung thực và hợp pháp của các số liệu, thông tin, tài liệu được kiểm tra. Với
chức năng xác nhận, thông qua kiểm tra, đánh giá nhân viên KTNB xác nhận thực
trạng các thông tin đã kiểm tra về tính đúng đắn, trung thực và hợp pháp của các thông
tin đó. Và cuối cùng với chức năng tư vấn, trên cơ sở những phát hiện trong quá trình
kiểm tra, đánh giá, nhân viên KTNB đánh giá mức độ đầy đủ, tính hiệu lực và hiệu
quả của hệ thống KSNB; đề xuất và tư vấn các giải pháp, biện pháp để khắc phục sai
sót, vi phạm, cải tiến và hoàn thiện hệ thống KSNB nhằm đảm bảo an toàn và nâng cao
hiệu quả hoạt động của SeAbank, giúp SeAbank đạt được mục tiêu của mình.
viii
Quy chế KTNB của SeAbank quy định nhiệm vụ của hệ thống KTNB bao gồm
kiểm tra các hoạt động nghiệp vụ của Ngân hàng; kiểm tra tính tuân thủ chấp hành các
quy định của pháp luật cũng như của SeAbank; trực tiếp hoặc phối hợp với ban kiểm
soát kiểm tra công tác quản lý và điều hành; rà soát hệ thống các quy định để kiến nghị
sửa đổi, bổ sung; thực hiện chế độ thông tin báo cáo và các nhiệm vụ khác do trưởng
ban kiểm soát giao.
Khác với kiểm tra KSNB, nguyên tắc hoạt động của bộ phận KTNB là tính độc
lập tuyệt đối. Về tổ chức, bộ phận KTNB độc lập với các đơn vị, các bộ phận điều
hành, tác nghiệp của SeAbank. Về hoạt động, KTNB độc lập với các hoạt động điều
hành, tác nghiệp của SeABank và không thuộc bộ máy điều hành do Ban tổng giám
đốc lãnh đạo. Bộ phận KTNB cũng phải đảm bảo tính khách quan, trung thực, công
bằng, không định kiến khi thực hiện nhiệm vụ KTNB. Trong công tác KTNB,
SeAbank thường xuyên luân chuyển KTV nội bộ, hạn chế mối quan hệ giữa KTV và
đơn vị được kiểm toán, ảnh hưởng đến tính khách quan.
Quy trình KTNB tại SeAbank gồm 4 bước: Lập kế hoạch kiểm toán, thực hiện
kiểm toán, lập báo cáo kiểm toán và kiểm tra việc thực hiện các kiến nghị của KTNB.
Kế hoạch KTNB bao gồm kế hoạch kiểm toán hàng năm và kế hoạch kiểm toán
cho từng cuộc kiểm toán. Nội dung trong kế hoạch KTNB năm thường bao gồm tên
các Phòng, ban tại hội sở, tên các đơn vị SeAbank dự kiến kiểm toán trong năm; nội
dung nghiệp vụ, hoạt động dự kiến kiểm toán và thời gian thực hiện kiểm toán dự kiến.
Năm 2009, phòng KTNB Ngân hàng TMCP Đông Nam Á đã lập kế hoạch kiểm toán
năm với 18 cuộc kiểm tra toàn diện tại 18 chi nhánh, kiểm tra đột xuất an toàn kho quỹ,
tài sản đảm bảo là hàng hóa và kiểm tra quyết toán cuối năm. Cơ sở để bộ phận KTNB
xây dựng kế hoạch là tất cả các tài liệu liên quan đến ngân hàng.
Luận văn đi vào cụ thể về quy trình KTNB do Phòng KTNB Hội sở SeABank
thực hiện tại chi nhánh Hà Nội trong năm 2009.
ix
Để lập kế hoạch KTNB cụ thể cho cuộc kiểm toán tại chi nhánh Hà Nội, bộ phận
KTNB tiến hành khảo sát, nghiên cứu, phân tích và thu thập thông tin về đơn vị được
kiểm toán bao gồm các thông tin về môi trường kinh doanh, luật pháp, các nhân tố nội
tại, tình hình kinh doanh để xác định các loại rủi ro có thể có cũng như quy mô, mức
độ ảnh hưởng. Từ kế hoạch cho từng cuộc kiểm toán, trưởng đoàn nhóm KTNB sẽ lập
chương trình kiểm toán, mô tả chi tiết phạm vi công việc thực hiện trong những phạm
vi kiểm toán nhằm đảm bảo cho công việc kiểm toán được thực hiện theo đúng yêu cầu
về thời gian, thủ tục và hiệu quả.
Thực hiện kiểm toán chủ yếu tập trung vào đánh giá hệ thống của đơn vị được
kiểm toán trên các mặt nghiệp vụ thông qua các thử nghiệm kiểm soát. Việc thực hiện
các thủ tục khảo sát kiểm soát được thực hiện trước tiên nhằm đánh giá về hệ thống
KSNB tại đơn vị. Các thủ tục thường được KTV lựa chọn là phỏng vấn, quan sát, tìm
hiểu quy trình, thực hiện lại quy trình hay kiểm tra chứng từ sổ sách. Dựa vào đánh giá
được mức độ rủi ro kiểm soát cao hay thấp, KTNB quyết định mức độ tập trung của
nhóm kiểm toán trong việc thực hiện các thử nghiệm cơ bản và quy mô mẫu chọn cho
các nghiệp vụ cụ thể. Các nghiệp vụ đó bao gồm: hoạt động tín dụng, hoạt động kế
toán, kho quỹ, hoạt động thanh toán...Việc kiểm toán các quy trình nghiệp vụ do bộ
phận KTNB của SeAbank tiến hành trước tiên tập trung đánh giá chất lượng hoạt động
của hệ thống kiểm soát cho quy trình nghiệp vụ đó, sau đó đánh giá tính tuân thủ các
quy định và chất lượng hoạt động qua việc kiểm tra chi tiết các mẫu chọn.
Nghiệp vụ tín dụng là hoạt động mang đến 70% lợi nhuận cho SeAbank nhưng
cũng là hoạt động xảy ra nhiều rủi ro hiện hữu và tiềm ẩn nhất. Trước tiên, KTNB đánh
giá tổng quan về chất lượng tín dụng và đánh giá chất lượng của hệ thống kiểm soát tín
dụng tại chi nhánh Hà Nội. Dựa trên số liệu truy xuất từ phần mềm, KTNB đánh giá và
chọn mẫu kiểm tra chi tiết các khoản vay. Sau khi hoàn tất, nhóm kiểm toán tập hợp
các bằng chứng thu thập được, tổng hợp các vấn đề đã phát hiện trong quá trình kiểm
toán để chuẩn bị lập báo cáo kiểm toán.
x
Khác với kiểm toán nghiệp vụ tín dụng, kiểm toán nghiệp vụ huy động vốn
không tập trung vào kiểm tra chi tiết chứng từ, sổ sách mà chủ yếu là đánh giá hệ
thống KSNB áp dụng trong hoạt động huy động vốn tại chi nhánh được kiểm toán.
Rủi ro của hoạt động kế toán giao dịch thường là các rủi ro tác nghiệp do thanh toán
viên hoặc người kiểm soát không thực hiện đúng các qui trình nghiệp vụ hoặc xảy ra
gian lận từ phía khách hàng về chứng từ, chữ ký... hoặc thanh toán nhầm lẫn.
Với nghiệp vụ kế toán tài chính, KTNB tập trung kiểm tra và đánh giá việc tổ
chức và thực hiện công tác kế toán, công tác kiểm soát tài chính của Chi nhánh, việc
tuân thủ pháp luật, chế độ chi tiêu tài chính kế toán theo quy định của Nhà nước và
của SeABank. KTV nội bộ không kiểm toán số liệu trên báo cáo tài chính, kiểm toán
các số dư khoản mục trên các báo cáo tài chính nhằm xác minh và bày tỏ ý kiến về sự
trung thực và hợp lý của báo cáo kế toán như kiểm toán độc lập.
Sau khi kết thúc mỗi cuộc kiểm toán, trưởng đoàn KTNB tổng hợp kết quả làm
việc của các KTV, trao đổi với đơn vị kiểm toán những vấn đề phát hiện trong cuộc
kiểm toán và đi đến thống nhất nội dung của báo cáo kiểm toán. Báo cáo kiểm toán
trình bày nội dung kiểm toán, phạm vi kiểm toán, thời gian thực hiện kiểm toán; đánh
giá tổng quan về đơn vị được kiểm toán về tình hình hoạt động kinh doanh, tổ chức
nhân sự; đánh giá kết luận về nội dung được kiểm toán và cơ sở đưa ra các ý kiến này;
các yếu kém, vi phạm, sai sót và giải trình của đối tượng kiểm toán; kiến nghị các biện
pháp khắc phục sai sót và xử lý gian lận, đề xuất các giải pháp cần thiết để hoàn thiện
hệ thống KSNB, cải tiến quy trình nghiệp vụ, hoàn thiện cơ cấu bộ máy, từ đó nâng
cao chất lượng, an toàn bền vững và hiệu quả hoạt động củ