Chiến lược đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế là hai nội dung lớn, thống nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh, được hình thành trên một nền tảng vững chắc. Đó là sự tiếp nhận chủ nghĩa Mác – Lênin; là chủ nghĩa yêu nước gắn liền với chủ nghĩa quốc tế chân chính; là độc lập dân tộc gắn liền bới giải phóng xã hội, giải phóng con người, vương tới chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện trải qua 80 năm, đã giành nhiều thắng lợi vẻ vang. Một trong những nhân tố tạo nên thắng lợi đó là có đường lối quốc tế đúng đắn, mà cốt lõi là chiến lược đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh. Quá trình hình thành và phát triển chiến lược đoàn kết của Hồ Chí Minh gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, gắn liền với các thời kỳ phát triển của Đảng và Cách mạng Việt Nam, gắn liền với tiến trình cách mạng thế giới. Đoàn kết quốc tế cùng với đoàn kết dân tộc thực sự trở thành chiến lược cách mạng và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta, trong bối cảnh mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, giao lưu với thế giới hiện đại, tạo nên tổng hợp lực lượng để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Cùng với những nỗ lực chủ quan, sự tăng cường, mở rộng đoàn kết, hợp tác với tất cả các nước theo nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, các bên cùng có lợi, đã tạo cho Việt Nam những nhân tố mới để phát triển. Việt Nam là thành viên trong cộng đồng quốc tế, để tăng cường sức mạnh của mình, một trong những vấn đề quan trọng là phải mở rộng đoàn kết, hợp tác theo tinh thần Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập, phát triển. Để thực hiện được mục đích trên cần có sự đoàn kết thống nhất cao độ theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
32 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 5817 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến lược đoàn kết quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Chiến lược đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế là hai nội dung lớn, thống nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh, được hình thành trên một nền tảng vững chắc. Đó là sự tiếp nhận chủ nghĩa Mác – Lênin; là chủ nghĩa yêu nước gắn liền với chủ nghĩa quốc tế chân chính; là độc lập dân tộc gắn liền bới giải phóng xã hội, giải phóng con người, vương tới chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện trải qua 80 năm, đã giành nhiều thắng lợi vẻ vang. Một trong những nhân tố tạo nên thắng lợi đó là có đường lối quốc tế đúng đắn, mà cốt lõi là chiến lược đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh. Quá trình hình thành và phát triển chiến lược đoàn kết của Hồ Chí Minh gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, gắn liền với các thời kỳ phát triển của Đảng và Cách mạng Việt Nam, gắn liền với tiến trình cách mạng thế giới. Đoàn kết quốc tế cùng với đoàn kết dân tộc thực sự trở thành chiến lược cách mạng và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta, trong bối cảnh mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, giao lưu với thế giới hiện đại, tạo nên tổng hợp lực lượng để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Cùng với những nỗ lực chủ quan, sự tăng cường, mở rộng đoàn kết, hợp tác với tất cả các nước theo nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, các bên cùng có lợi, đã tạo cho Việt Nam những nhân tố mới để phát triển. Việt Nam là thành viên trong cộng đồng quốc tế, để tăng cường sức mạnh của mình, một trong những vấn đề quan trọng là phải mở rộng đoàn kết, hợp tác theo tinh thần Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập, phát triển. Để thực hiện được mục đích trên cần có sự đoàn kết thống nhất cao độ theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
NỘI DUNG
Những nhân tố hình thành chiến lược đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh
Tiếp thu truyền thống đoàn kết của dân tộc
Vào giữa thế kỷ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thống trị ở Anh, Pháp, Đức và một số nước khác ở Tây Âu. Giai cấp tư sản tăng cường áp bức, bóc lột giai cấp công nhân làm cho mâu thuẫn cơ bản giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trở nên gay gắt, dẫn đến cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và vô sản. Chủ nghĩa Mác ra đời với Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, khẳng định quy luật diệt vong của chủ nghĩa tư bản, khẳng định sự thắng thế của chủ nghĩa cộng sản, đồng thời chỉ rõ sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản, và nên lên khẩu hiệu chiến lược; Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại!
Đến cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển sang chủ nghĩa đế quốc. Vì lợi nhuận, các nước đế quốc tranh giành nhau thuộc địa và căn bản đã hoàn thành việc phân chia thế giới khắp các châu lục. Từ đó, các nước thuộc địa bị các nước đế quốc áp bức, bóc lột với chế độ cai trị hà khắc. Vấn đề đặt ra cho các nước thuộc địa là làm thế nào để được giải phong, thế giới hình thành mâu thuẫn mới; mâu thuẫn giữa dân tộc thuộc địa và chủ nghĩa đế quốc thực dân, trở thành điều kiện khách quan cho phép phong trào các mạng mở thuộc địa gắn bó với phong trào cách mạng ở chính quốc.
Sang thế kỷ XX, nhiều sự kiện lịch sử diễn ra, dẫn đến những chuyển biến trong tình hình quốc tế, dẫn đến cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918), làm cho mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa đế quốc trở nên gay gắt. Cùng với phong trào đấu tranh của công nhân các nước đế quốc, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa bùng lên mạnh mẽ.
Trước tình hình đó, Lênin đã phân tích tình hình cụ thể, tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, đề ra lý luận cách mạng vô sản có thể thành công ở một số nước, đồng thời nêu lên nguyên lý về cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa, về sự đoàn kết giữa giai cấp vô sản ở các nước đế quốc và các dân tộc thuộc địa trong cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa đế quốc.
Trong bối cảnh chung của thế giới, Việt Nam cũng bị chi phối bởi những điều kiện lịch sử đó. Vào giữa thế kỷ XIX, đế quốc Pháp nổ súng đánh chiếm nước ta. Trước hành động của kẻ thù, chế độ phong kiến mà đại biểu là triều đình nhà Nguyễn đã hèn nhát, dâng nước ta cho Pháp. Thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa, bóc lột nhân dân ta. Dưới chế độ cai trị của đế quốc Pháp, xã hội Việt Nam có nhiều biến đổi sâu sắc. Trước tình hình đó, phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam chống Pháp phát triển mạnh mẽ theo hai khuynh hướng, khung hướng phong kiến và dân chủ tư sản. Nhưng sau một thời gian phát triển rầm rộ, các phong trào cũng nối tiếp nhau tan rã trước sự đàn áp của thực dân Pháp.
Vượt qua sự hạn chế của lịch sử, cùng với những đòi hỏi cấp bách của cách mạng Việt Nam lúc đó, Hồ Chí Minh đã tìm ra giải pháp mới cho sự nghiệp giải phóng dân tộc không chỉ ở Việt Nam mà cho cả các dân tộc thuộc địa.
Sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, chứng kiến tận mắt cuộc sống lầm than của dân ta dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, và sự thất bại của phong trào chống Pháp của các bậc tiền bối. Điều đó, giúp cho Người nhận rõ hơn bản chất dã man của bọn thực dân và cũng làm cho anh sớm nhận thấy được sức mạnh đoàn kết đấu tranh của nhân dân khi được tổ chức lại. Từ đó, Người suy nghĩ và cân nhắc đến con đường cứu nước và giải phóng dân tộc. Nguyễn Ái Quốc đã quyết chọn cho mình hướng đi mới, đến các nước phương Tây, nơi có trào lưu “tự do, bình đẳng, bác ái”, để tìm cách mới rồi về giúp đồng bào mình.
Trước lúc ra đi tìm chân lý cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu truyền thống yêu nước, đoàn kết của dân tộc, am hiểu vốn văn hoá phương Đông, một phần văn hoá phương Tây. Đó là vốn quý, là cơ sở quan trọng để tiếp thu chân lý cách mạng, là nhân tố đầu tiên của quá trình hình thành chiến lược đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh.
1.2. Thực tiễn quá trình bôn ba tìm đường cứu nước khắp các châu lục
Trước bối cảnh thế giới đầy biến động và những đòi hỏi cấp bách của cách mạng Việt Nam thì năm 1911, Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước, tìm bạn đồng minh. Động cơ thúc đẩy anh ra đi là tìm một giải pháp mới cho sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam. Ý nghĩ này xuất hiện ở anh từ rất sớm: “Khi tôi độ tuổi mười ba, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế. Và từ thủa ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy”. Đó là mục tiêu của Người, muốn “trở về giúp đồng bào”, thì trước hết phải hiểu đầy đủ kẻ thù đang áp bức dân tộc mình, nhất là từ trên mảnh đất đã sản sinh ra nó. Đây là sự khác biệt giữa Hồ Chí Minh với những người sang Pháp hồi đó.
Trong khoảng thời gian từ năm 1911 – 1920, trải qua quá trình gần 10 năm bôn ba ở nhiều nước khác nhau, được chứng kiến tận mắt cuộc sống lầm than của nhân dân ngay trên chính mảnh đất giàu có và ở ngay cả “Mẫu quốc”. Từ đó Người nhận thức rõ hơn về bộ mặt thật của chủ nghĩa đế quốc, ở Pháp Người nhận ra rằng: “ở đó cũng có những người nghèo như ở bên ta”, và Người tự hỏi: “Tại sao người Pháp không “khai hoá” đồng bào của họ trước khi đi “khai hoá” chúng ta”. Những nhận xét đó dẫn Người tới cảm nhận về lực lượng xã hội là bạn đồng minh của các dân tộc thuộc địa, là cơ sở quan trọng cho việc hình thành tư tưởng về sự đoàn kết của nhân dân Việt Nam, các nước thuộc địa với nhân dân lao động, giai cấp công nhân Pháp và các nước chính quốc trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc.
Trong quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã dừng chân lâu ở ba nước đế quốc lớn nhất thời đó là Mỹ, Anh, Pháp. Người nhận thức sâu sắc bộ mặt thật và bản chất của chủ nghĩa tư bản, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Chế độ thực dân là ăn cướp”, “là hiếp dân và giết người”, chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của nhân dân lao khổ trên toàn thế giới. Do đó, nhân dân các nước thuộc địa phải đoàn kết với nhau, tạo nên sức mạnh tổng hợp để đánh bại kẻ thù chung. Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa là một bộ phận của cách mạng vô sản, giải phóng dân phải gắn liền với giải phóng nhân dân lao động, giải phóng giai cấp công nhân.: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”.
Bên cạnh đó Người cũng nhận định rằng, “dù màu da có khác nhau, trên thế giới chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ một tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”. Đến đây, vấn đề bạn, thù ở Nguyễn Ái Quốc đã được xác định dứt khoát, rằng áp bức giai cấp và áp bức dân tộc có chung một nguồn gốc là chủ nghĩa đế quốc.
Như vậy, cuộc hành trình gần mười năm khắp các châu lục là cơ sở thực tiễn quan trọng trong quá trình hình thành chiến lược đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh.
1.3. Chủ nghĩa Mác – Lênin với đường lối của Quốc tế Cộng sản
Tham gia vào những hoạt động cách mạng, Nguyễn Ái Quốc tìm thấy vũ khí sắc bén để đấu tranh, đó là viết báo, tham gia các buổi mít tinh, thảo luận. Trong đó, Người đều đề cập đến vấn đề đoàn kết quốc tế. Người nói: “Trong các cuộc bàn cãi, người ta rất ít nói đến sự đoàn kết với các dân tộc thuộc địa. Nhưng đó lại là vấn đề mà người ta quan tâm hơn cả”.
Tại đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua tháng 12 – 1920, Nguyễn Ái Quốc đại diện cho Đông Dương thuộc địa, đồng thời là đại biểu duy nhất về vấn đề thuộc địa. Phát biểu tại Đại hội, Người yêu cầu Đảng phải đoàn kết, ủng hộ cách mạng thuộc địa: “Tôi đến đây, để cùng với các đồng chí góp phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới… Đảng phải tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong tất cả các nước thuộc địa”. Lời phát biểu ngắn gọn của Nguyễn Ái Quốc đã quán triệt tư tưởng chiến lược của Lênin về đoàn kết giữa cách mạng chính quốc với cách mạng thuộc địa.
Quyết định sáng suốt đó của Nguyễn Ái Quốc phù hợp với trào lưu phát triển của lịch sử nhân loại. Lần đầu tiên trong lịch sử thế giới hiện đại, một đại biểu của các dân tộc thuộc địa tham gia sáng lập đội tiên phong của giai cấp công nhân ở một nước đế quốcc lớn đang áp bức các dân tộc thuộc địa. Bằng những hoạt động, việc làm đó, Nguyễn Ái Quốc nêu cao ngọn cờ đoàn kết quốc tế, từ đoàn kết các dân tộc thuộc địa, mở rộng thành đoàn kết giai cấp vô sản ở chính quốc với giai cấp vô sản thế giới.
Như vậy, chủ nghĩa Mác – Lênin, và đường lối của Quốc tế Cộng sản là nhân tố quan trọng nhất, nhân tố quyết định hình thành chiến lược đoàn kết quốc tế cua Nguyến Ái Quốc. Nhưng trải qua những năm tháng bôn ba, tìm đường cứu nước, Người đã đi từ chủ yếu yêu nước đến chủ nghĩa vô sản, từ một nhà yêu nước trở thành chiến sĩ chân chính.
Những vấn đế cơ bản trong chiến lược đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Sự cần thiết xây dựng đoàn kết quốc tế
Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng.
Thực hiện đoàn kết quốc tế để tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của các trào lưu cách mạng thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp cho cách mạng chiến tháng kẻ thù là một trong những nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh và cũng là một trong những bài học kinh nghiệm quan trọng nhất, mang tính thời sự sâu sắc nhất của cách mạng Việt Nam.
Sức mạnh của dân tộc Việt Nam là sự tổng hợp của các yếu tố vật chất và tinh thần, song trước hết là sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và ý thức tự lực, tự cường dân tộc; sức mạnh của tinh thần đoàn kết; của ý chí đấu tranh anh dũng, bất khuất cho độc lập, tự do… Sức mạnh đó đã giúp cho dân tộc ta vượt qua mọi thử thách, khó khăn trong dựng nước và giữ nước.
Là một nhà yêu nước chân chính, Hồ Chí Minh luôn có niềm tin bất diệt vào sức mạnh dân tộc. Ngay trong những năm tháng đen tối của cách mạng, Người vẫn bộc lộ một niềm lạc quan tin tưởng rất mạnh mẽ và sâu sắc vào sức mạnh của dân tộc.
Trong quá trình hoạt động cách mạng, nhờ chú ý tổng kết thực tiễn dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã từng bước phát hiện ra sức mạnh vĩ đại tiềm ẩn trong các trào lưu cách mạng thế giới mà Việt Nam cần tranh thủ. Các trào lưu đó nếu được liên kết, tập hợp trong khối đoàn kết quốc tế sẽ tạo nên sức mạnh to lớn. Sức mạnh đó luôn được bổ sung những nhân tố mới, phản ánh sự vận động, phát triển không ngừng của lịch sử toàn thế giới và tiến trình chính trị quốc tế sau thắng lợi của cách mạng XHCN Tháng Mười Nga 1917.
Khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã sớm xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, cách mạng Việt Nam chỉ có thể thành công và thành công đến nơi khi thực hiện doàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới. Cùng với sự phát triển thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong quan hệ với tình hình quốc tế, tư tưởng đoàn kết với phong trào cách mạng thế giới đã được Hồ Chí Minh phát triển ngày càng đầy đủ, rõ ràng và cụ thể hơn.
Đối tượng đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng lớn. Đó là đoàn kết với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc và các nước tư bản chủ nghĩa nói chung; đoàn kết với nước Nga Xô Viết, với Liên Xô và sau này mở rộng ra tất cả các nước xã hội chủ nghĩa; đoàn kết với phong trào đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới; đặc biệt là đoàn kết với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia, hai nước cùng cảnh ngộ với Việt Nam trên bán đảo Đông Dương, thực hiện khối đoàn kết Việt – Miên – Lào trong cuộc đấu tranh cống chủ nghĩa đế quốc thực dân giành độc lập tự do cho mỗi dân tộc và hạnh phúc cho nhân dân mỗi nước.
Đánh giá vai trò của đoàn kết quốc tế với cách mạng Việt Nam, trong buổi nói chuyện với Đại sứ nước ta tại Liên Xô năm 1961, Hồ Chí Minh nói: “Có sức mạnh cả nước một lòng… lại có sự ủng hộ của nhân dân thế giới, chúng ta sẽ có một sức mạnh tổng hợp cộng với phương pháp cách mạng thích hợp, nhất định cách mạng nước ta sẽ đi đến đích cuối cùng”.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, thực hiện đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế; đại đoàn kết dân tộc phải là cơ sở cho việc thực hiện đoàn kết quốc tế. Đoàn kết dân tộc gắn liền với đoàn kết quốc tế là để kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng chiến thắng kẻ thù. Nếu đại đoàn kết dân tộc là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam, thì đoàn kết quốc tế cũng là một nhân tố thường xuyên và hết sức quan trọng giúp cho cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thực hiện đoàn kết quốc tế, nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện các mục tiêu cách mạng
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải được gắn liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản, đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế; thực hiện đoàn kết quốc tế không phải chỉ vì thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà còn vì sự nghiệp chung của nhân loại tiến bộ trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế vì các mục tiêu cách mạng của thời đại.
Thời đại mà Hồ Chí Minh sống và hoạt động chính trị là thời đại đã chấm dứt thời kỳ tồn tại biệt lập giữa các quốc gia, mở ra các quan hệ quốc tế ngày càng sâu rộng cho các dân tộc, làm cho vận mệnh của mỗi dân tộc không thể tách rời vận mệnh chung của cả loài người.
Ngay sau khi nắm được đặc điểm của thời đại mới, Hồ Chí Minh đã hoạt động không mệt mỏi để phá thế đơn độc của cách mạng Việt Nam, gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Trong suốt quá trình đó, Người không chỉ phát huy triệt để sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc trong đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc mình mà còn kiên trì đấu tranh không mệt mỏi để củng cố và tăng cường đoàn kết giữa các lực lượng cách mạng thế giới đấu tranh cho mục tiêu chung: hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hôi.
Người cho rằng, Đảng phải lấy toàn bộ thực tiễn của mình để chứng minh: Chủ nghĩa yêu nước triệt để không thể nào tách rời với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng. Trong báo cáo chính trị tại Đại hội II (2 – 1951), Người chỉ rõ: “ tinh thần yêu nước chân chính khác hẳn với tinh thần “ vị quốc” của bọn đế quốc phản động. Nó là một bộ phận của tinh thần quốc tế”.
Theo Hồ Chí Minh, muốn tăng cường đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh vì mục tiêu chung, các Đảng Cộng sản phải kiên trì chống lại mọi khuynh hướng sai lầm của chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa vị kỷ dân tộc, chủ nghĩa Sôvanh… những khuynh hướng làm suy yếu sức mạnh đoàn kết, thống nhất của các lực lượng cách mạng thế giới. Nói cách khác, các ĐCS phải tiến hành có hiệu quả việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc tế vô sản cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong mấy thập kỷ qua là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhờ kết hợp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam đã được bổ sung thêm nguồn lực mới, trở thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Nhờ dương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội, Việt Nam đã tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ quốc tế, huy động được sức mạnh của các trào lưu cách mạng thời đại, làm cho sức mạnh dân tộc được nhân lên gấp bội, chiến thắng được những kẻ thù có sức mạnh to lớn hơn mình về nhiều mặt.
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện đoàn kết quốc tế, kết hợp chặt chẽ yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản là nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng của dân tộc và thời đại. Bởi lẽ, chúng ta không chỉ chiến đấu vì độc lập, tự do của đất nước mình mà còn vì độc lập, tự do của các nước khác, không chỉ bảo vệ những lợi ích sống còn của dân tộc mình mà còn vì những mục tiêu cao cả của thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Để làm được như vậy, phải kiên quyết đấu tranh mọi biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, chống lại chủ nghĩa Sôvanh và mọi thứ chủ nghĩa cơ hội khác.
Nội dung và hình thức đoàn kết quốc tế
Các lực lượng cần đoàn kết:
Nội hàm khái niệm đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong phú, song tập trung chủ yếu vào ba lực lượng: phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và phong trào hoà bình, dân chủ thế giới, trước hết là phong trào chống chiến tranh của nhân dân các nước đang xâm lược Việt Nam.
Đối với phong trào Cộng sản và công nhân thế giới - lực lượng nòng cốt của đoàn kết quốc tế, Hồ Chí Minh cho rằng, sự đoàn kết giữa giai cấp vô sản quốc tế là một bảo đảm vững chắc cho thắng lợi của chủ nghĩa Cộng sản. Do đánh giá rất cao vai trò của khối đoàn kết của giai cấp vô sản thế giới, tháng 12 năm 1920, tại Đại hội Tua của ĐXH Pháp, Hồ Chí Minh đã lên tiếng: “Nhân danh toàn thể loài người, nhân danh tất cả các đảng viên xã hội, cả phái hữu lẫn phái tả, chúng tôi kêu gọi: Các đồng chí, hãy cứu chúng tôi”. Tiếp nhận học thuyết Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm thấy phương hướng cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, tìm thấy “cái cẩm nang thần kỳ” cho sự nghiệp cứu nước của các dân tộc bị nô dịch. Đồng thời, Người cũng tìm thấy một lực lượng ủng hộ mạnh mẽ công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Đó là phong trào Cộng sản và công nhân thế giới, là Liên Xô và sau này là các nước XHCN; là Quốc tế thứ III và sau này là Cục thông tin quốc tế. Từ đó, Người đã dành nhiều thời gian và tâm lực, phấn đấu không mệt mỏi cho việc xây dựng và củng cố khối đoàn kết, thống nhất trong phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế.
Chủ trương đoàn kết giai cấp vô sản các nước, đoàn kết giữa các Đảng Cộng sản trong tư tưởng Hồ Chí Minh xuất phát từ tính tất yếu về vai trò của giai cấp vô sản trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi t