Đạo đức cách mạng là một trong những bộ phận quí giá nhất của di sản Hồ Chí Minh, nó tạo nên vẻ đẹp rực rỡ, độc đáo của phong cách Hồ Chí Minh, một phong cách có sức cuốn hút kỳ diệu, không chỉ đối với những người cộng sản mà đối với các tầng lớp xã hội, không chỉ là một tấm gương sáng đối với dân tộc Việt Nam, mà còn thu hút được sư cảm phục của các dân tộc trên thê giới; không chỉ tranh thủ tranh thủ được trái tim của những người lao động bình thường, mà còn có sức thuyết phục to lớn đối với trí tuệ của nhiều chính khách và của nhà lãnh đạo các quốc gia; một phong cách mà ngay cả kẻ thù cũng phải cảm phục.
Nguyên tắc này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn ngày càng to lớn. Ngày nay, khi những chủ trương, chính sách đổi mới về kinh tế và xã hội đã đươc thực tiễn xác nhận, thì nhiệm vụ nâng cao đạo đức cách mạng, làm trong sạch đội ngũ của Đảng là nhiệm vụ hàng đầu để tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân, đưa sự nghiệp đổi mới tới được thắng lợi lớn hơn nữa.
Với ý nghĩa to lớn của tư tưởng đạo đức tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, có thể và cần phải đưa những tư tưởng này vào cương lĩnh và điều lệ mới của đảng. Nói cách khác phải thể chế hóa tư tưởng đạo đức củaHồ Chí Minh thành những nguyên tắc của tổ chức Đảng. Phải trở lại với quan điểm của Bác, đặt lên hàng đầu nhiệm vụ giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, xứng đáng với niềm tin của bác: “đảng ta là đạo đức,văn minh”.
13 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 7603 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng và sự vận dụng tư tưởng đó và xây dựng đạo đức lối sống của sinh viên hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ TÀI
Tư tưởng Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng và sự vận dụng tư tưởng đó và xây dựng đạo đức lối sống của sinh viên hiện nay.
Bằng lý luận và thực tiễn, phân tích và chứng minh luận điểm «Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc » là một sáng tạo lớn của Hồ Chí Minh
HỒ CHÍ MINH
(1890-1969)
“…Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”
Trích “Tuyên ngô độ lập”- Hồ Chính Minh,1945
I.Tư tưởng Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng.
1.1. Quan điểm của HCM về vai trò của đạo đức cách mạng
Đạo đức cách mạng là một trong những bộ phận quí giá nhất của di sản Hồ Chí Minh, nó tạo nên vẻ đẹp rực rỡ, độc đáo của phong cách Hồ Chí Minh, một phong cách có sức cuốn hút kỳ diệu, không chỉ đối với những người cộng sản mà đối với các tầng lớp xã hội, không chỉ là một tấm gương sáng đối với dân tộc Việt Nam, mà còn thu hút được sư cảm phục của các dân tộc trên thê giới; không chỉ tranh thủ tranh thủ được trái tim của những người lao động bình thường, mà còn có sức thuyết phục to lớn đối với trí tuệ của nhiều chính khách và của nhà lãnh đạo các quốc gia; một phong cách mà ngay cả kẻ thù cũng phải cảm phục.
Nguyên tắc này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn ngày càng to lớn. Ngày nay, khi những chủ trương, chính sách đổi mới về kinh tế và xã hội đã đươc thực tiễn xác nhận, thì nhiệm vụ nâng cao đạo đức cách mạng, làm trong sạch đội ngũ của Đảng là nhiệm vụ hàng đầu để tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân, đưa sự nghiệp đổi mới tới được thắng lợi lớn hơn nữa.
Với ý nghĩa to lớn của tư tưởng đạo đức tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, có thể và cần phải đưa những tư tưởng này vào cương lĩnh và điều lệ mới của đảng. Nói cách khác phải thể chế hóa tư tưởng đạo đức củaHồ Chí Minh thành những nguyên tắc của tổ chức Đảng. Phải trở lại với quan điểm của Bác, đặt lên hàng đầu nhiệm vụ giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, xứng đáng với niềm tin của bác: “đảng ta là đạo đức,văn minh”.
1.2. Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng
1.2.1 Trung với nước, hiếu với dân
Đạo nho phải dạy người quân tử phải trung quân ái quốc - trung với vua là yêu nước. Còn chữ Hiếu nghĩa là hết lòng thờ kính cha mẹ, ông bà người trên của mình. Từ "trung hiếu" trong đạo nho đã được Bác tiếp thu, kế thừa và phát triển lên thành phạm trù mới của đạo đức cách mạng. Hồ Chí Minh đã đưa vào khái niệm cũ một nội dung mới mang tính cách mạng đó là "trung với nước hiếu với dân". Đây là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Từ chỗ trung với với vua, hiếu với cha mẹ đến trung với nước hiếu với dân và một cách mạng trong quan niệm về đạo đức.
Theo người trung với nước là:
+ Trong mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng và xã hội, phải đặt lợi ích của Đảng của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết, trước hết.
+ Quyết tâm phấn đấu mục tiêu cách mạng.
+ Thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà Nước.
Theo người, hiếu với dân là:
+ Khẳng định vai trò sức mạnh thực sự của nhân dân.
+ Tin dân, học dân, lắng nghe ý kiến của dân, gắn bó mật thiết với dân, tổ chức, vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà Nước.
+ Chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Trung với nước - Hiếu vời dân là phẩm chất hàng đầu của người cách mạng. Song, ở mỗi con người, trong mỗi hoàn cảnh khác nhau, ở mỗi vị trí khác nhau phải hiểu thấu đáo phạm trù đạo đức này.
Trong chiến tranh vệ quốc, khi kẻ thù thực hiện âm mưu và hành động cướp nước, giày xéo quê hương, thì mỗi người thực hiện Trung với nước - Hiếu với dân là sẵn sàng gia nhập lực lượng vũ trang, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân.
Trong xây dựng đất nước hiện nay, cũng rất cần thiết có sự hi sinh vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và sự bình yên của nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ XHCN mà nhân dân ta xây dựng , đồng thời vô cùng cần thiết là sự cống hiến trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Trung với nước hiếu với dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện trong mọi công việc cách mạng của đảng, trong từng việc làm từng suy nghĩ của mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân. Vì vậy trong suốt quá trình xây dựng Đảng lãnh đạo cách mạng, Bác thường xuyên quan tâm đến việc nâng cao tinh thần trung hiếu ở mỗi người dân Việt Nam yêu nước nói chung, cán bộ đảng viên nói riêng, và đòi hỏi họ ghi sâu trong lòng chữ "trung với nước, hiếu với dân".
Tấm gương trong sáng hết lòng vì Tổ quốc vì nhân dân của Bác kính yêu cũng bắt đầu, cũng từ sự biểu hiện của những điều bình dị nhất, gần gũi nhất, cụ thể nhất nhưng thật là vĩ đại soi cho chúng ta noi theo.
1.2.2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Cần, kiệm, liêm, chính là đạo đức lớn mà Bác Hồ đã dạy chúng ta từ cách đây gần 60 năm và còn nhắc lại trong Di chúc của Người năm 1969: "Đảng ta là một đảng cầm quyền, Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự "cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư". Cuối tháng 5 đầu tháng 6 năm 1949, để cổ vũ phong trào Thi đua ái quốc và xây dựng đời sống mới, Bác viết bài "Cần, Kiệm, Liêm, Chính", chỉ rõ rằng: "...Cần, Kiệm, Liêm, Chính là nền tảng của Đời sống mới, nền tảng của Thi đua ái quốc”
Cần, kiệm,liêm, chính là những điều người xưa từng nói, sách xưa từng viết. Nhưng Bác Hồ đã làm cho tất cả đó đều chứa đựng một nội hàm mới, vừa có kế thừa, vừa có phát triển, có bổ sung và điều chỉnh cho phù hợp với việc xây dựng con người mới trong thời đại mới.
Cần là siêng năng, chăm chỉ. Cần thì việc gì, dù khó khăn đến mấy, cũng làm được. Chữ cần chẳng những có nghĩa “tay siêng làm thì hàm siêng nhai”. Mà còn nghĩa là mọi người đểu phải Cần, cả nước đều phải Cần. Muốn cho chữ Cần có nhiều kết quả hơn thì phải có kế hoạch cho mọi công việc. Cần và chuyên phải đi đôi với nhau.
Kiệm tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi. Cần và Kiệm, phải đi đôi với nhau. Cần mà không Kiệm thì "làm chừng nào, xào từng ấy". Kiệm mà không Cần thì không phát triển được. Tiết kiệm về vật chất phải đi đôi với tiết kiệm về thời giờ. "Thời giờ là tiền bạc".
Liêm là trong sạch, không tham lam. Cán bộ thi đua thực hành liêm khiết, thì sẽ gây được tính liêm khiết trong nhân dân. Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ.
Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không đứng đắn, thẳng thắn, tức là tà. Cần, Kiệm, Liêm là gốc rễ của Chính. Một người phải Cần, Kiệm, Liêm là gốc rễ của Chính. Một người cần phải Cần, Kiệm, Liêm nhưng còn phải Chính mời là người hoàn toàn.
Về Chí công vô tư, là không nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc,vì đồng bào; là đặt lợi ích của cách mạng, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Thực hành chí công vô tư cũng có nghĩa là phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng. Người còn chỉ ra mối quan hệ: Cần, Kiệm, Liêm Chính tốt sẽ dẫn tới chí công vô tư, và chí công vô tư, một lòng vì dân, vì nước thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính.
Những lời nói của Bác về cần kiệm liêm chính, chí công vô tư cho đến này vẫn còn nguyên giá trị. Đặc biệt là tấm gương của Bác về thực hành cần kiệm liêm chính vẫn mãi mãi để cán bộ, đảng viên và nhân dân ta noi theo.
1.2.3 Thương yêu con người
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh chúng ta thấy rõ sự thể hiện nhất quán giữ tư tưởng chung với nước, hiếu với dân, yêu thương con người, Đó là cốt lõi trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Đó là yêu người lao động, cần lao, cùng khổ, người bị bóc lột, những người bị đàn áp. Tình yêu thương con người còn thể hiện đối với những người có sai lầm khuyết điểm nhưng đã nhận rõ khuyết điểm sai lầm và cố gắng sửa chữa, kể cả những người lầm đường lạc lối đã hối cải, kể cả đối với kẻ thù bị thương, bị bắt và quy hàng. Bác Hồ kết luận : "chỉ có một mối tình hữu ái thật mà thôi, đó là tình hữu ái vô sản". Hồ Chí Minh thương yêu con người với một với một tình cảm sâu sắc, vừa bao la rộng lớn, vừa gần gũi thân thương đối với từng số phận con người.
Song trên tất cả, điều làm ta phải suy nghĩ và xúc động là trước khi ra đi, Bác còn dặn dò cả việc đối với những nạn nhân của xã hội cũ như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu... thì Nhà Nước ta vừa phải giáo dục, vừa phải dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên người lương thiện. Có thể nói trong muôn vàn tình thương yêu của Người, Bác Hồ không để sót một ai, không quên một ai, có quên chăng chỉ là quên mình!
1.2.4 Tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung
Tu tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là sự mở rộng những quan niệm đạo đức nhân đạo, nhân văn của Người ra phạm vi toàn nhân loại, vì Người là "người Việt Nam nhất" đồng thời là nhà văn hóa kiệt xuất của thế giới, anh hùng giải phóng dân tộc, chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế.
Quan niệm đạo đức về tình đoàn kết quốc tế trong sáng của HCM thể hiện trong các điểm sau:
+ Đoàn kết với nhân dân lao động các nước vì mục tiêu chung đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức bóc lột. Quá trình tìm đường cứu nước HCM giúp người đồng cảm và nhận thức rõ: Nơi đâu cũng có người nghèo như ở xứ mình dù các nước thuộc địa hay chính quốc, họ đều bị áp bức, bóc lột tàn nhẫn bởi chủ nhĩa thực dân tàn ác. Người đi tới kết luận: Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái thật: tình hữu ái vô sản.
+ Đoàn kết quốc tế giữa những người vô sản toàn thế giới vì một mục tiêu chung, "bốn phương vô sản đều là anh em". Hành trình qua các nước vào những năm đầu của thế kỉ XX giúp HCM nhận thấy rằng phải có được quan hệ hợp tác giúp đỡ giữa cách mạng chính quốc và cách mạng thuộc địa. Người đã chứng minh được bọn đế quốc không chỉ áp bức bóc lột nhân dân các nước thuộc địa mà còn thống trị nhân dân lao động và giai cấp vô sản chính quốc.
+ Đoàn kết với nhân loại tiến bộ vì hòa bình, công lí và tiến bộ xã hội. Theo HCM chủ nghĩa đế quốc vô sản gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Trong bài " tinh thần yêu nước và tinh thần quốc tế" (1953), Người đã nhấn mạnh: "tinh thần yêu nước và tinh thần quốc tế liên hệ khăng khít với nhau. Vì lẽ đó ta vừa ra sức kháng chiến, vừa tham gia phong trào ủng hộ hòa bình thế giới". Nếu tinh thần yêu nước không chân chính và tinh thần quốc tế không trong sáng thì có thể dẫn đến chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi hoặc chủ nghĩa bành trướng bá quyền, kì thị chủng tộc... Những khuynh hướng sai lệch ấy có thể dẫn đến chỗ phá vỡ một quốc gia dân tộc hay một liên bang đa quốc gia dân tộc, phá vỡ tình đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh chung, thậm chí có thể đưa đến tình trạng đối đầu đối địch. Đây là một thực tế đã diễn ra ở châu Âu và nhiều khu vực trên thế giới hiện nay.
1.3. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng vấn đề xây dựng đạo đức cách mạng, coi đạo đức là cái gốc, cái nền tảng của người cách mạng. Người nhấn mạnh: cũng như sông phải có nguồn, cây phải có gốc.
Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Hiện nay yêu cầu của thực tiễn là phải xây dựng một nền đạo đức mới ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. Vì vậy học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là hết sức cần thiết. Song bài này chỉ đề cập tới những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới.
1.3.1 Nói phải đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình,Hồ Chí Minh luôn luôn nêu gương sáng về đạo đức, Người nói ít làm nhiều, có nhiều vấn đề về đạo đức Người làm mà không nói, phải đi sâu nghiên cứu hành vi đạo đức của Người mới thấy được bản chất sâu xa của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh là tấm gương chung cho cả dân tộc, cho các thế hệ mai mãi về sau. Nhưng còn nhiều tấm gương của các vị anh hùng, chiến sỹ thi đua nhứng tấm gương của những người tiêu biểu cho từng ngành, từng cấp, những tấm gương "Người tốt việc tốt" rất gần gũi trong đời thường có ở mọi lúc mọi nơi mà chúng ta không thể coi thường. Về vấn đề này Hồ Chí Minh đã nói: "Người tốt, việc tốt nhiều lắm ở đâu cũng có. Ngành nào, giới nào, địa phương nào, lứa tuổi nào cũng có" (2).
1.3.2 Xây đi đôi với chống
Theo Hồ Chí Minh trong đời sống hàng ngày cái tốt, cái xấu, đạo đức, phi đạo đức luôn luôn đan xen lẫn nhau. Chính vì vậy vừa phải xây dựng đạo đức mới, vừa phải chống cái phi đạo đức. Muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích cho xây. Cũng vì vậy Hồ Chí Minh căn dặn toàn Đảng: "Phải cương quyết quýet sạch chủ nghĩa cá nhân nâng cao đạo đức cách mạng bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và kỷ luật"(3). Vấn đề quan trọng trong việc giáo dục đạo đức là phải khơi dạy ý thức đạo đức lành mạnh ở mọi người để mọi người tự giác nhận thức được trách nhiệm đạo đức của mình. Khi xây dựng, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức mới phải gắn liền chống lại cái xấu, cái sai, cái vô đạo đức thường diễn ra hàng ngày.
Muốn xây dựng đạo đức mới, chung quy lại phải chống cho được chủ nghĩa cá nhân. Trong tác phẩm: Nâng cao đạo đức cách mạng quýet sạch chủ nghĩa cá nhân được công bố vào ngày 3/2/1969, nhân kỷ niệm lần thứ 39 ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam đã mang ý nghĩa xây đi đôi với chống. Muốn nêu cao đạo đức cách mạng phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân.
1.3.3 Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
Người đã nhiều lần chỉ rõ: Mỗi con người phải thường; xuyên chăm lo tu dưỡng đạo đức như việc rửa mặt hàng ngày đấy cũng là công việc phải kiên trì bền bỉ suốt đời, không người nào có thể chủ quan tự mãn. Theo Người: "Đạo đức cách mạng không phải trên trời xa xuống. Nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong"(4). Theo quan điểm của Hồ Chí Minh thì mỗi con người đều có cái tốt, cái xấu vấn đề là không tự lừa dối mình mà nhìn thẳng vào mình thấy rõ cái tốt, cái thiện để phát huy, thấy cái xấu, cái ác để khắc phục. Vì vậy việc tu dưỡng rèn luyện phải được thực hiện trong hoạt động thực tiễn. Thấm nhuần tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, Tại hội nghị TW 6(lần 2) khoá VIII (tháng 2/1999) của Đảng cộng sản Việt nam đã đề ra cuộc vận động và xây dựng chỉnh đốn Đảng. Trong đó Đảng đặc biệt chú trọng các nguyên tắc về xây dựng đạo đức mới mà Hồ Chí Minh đã đưa ra. Để làm tốt cuộc vận động các tổ chức Đảng cần tăng cường công tác giáo dục trong toàn Đảng về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, đường lối chính sách của Đảng, nhiệm vụ đạo đức của người đảng viên.
Học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần gắn việc học tập với giải quyết những vấn đề thực tiễn đang đặt ra trong các cơ quan, đơn vị, nhằm phê phán những biểu hiện tiêu cực đang diễn ra giúp cho cán bộ, đảng viên nâng cao nhận thức, giác ngộ trước những lỗi lầm sai phạm, tự giác thực hành sửa chữa, đồng thời phát hiện những nhân tố mới, những điển hình người tốt, việc tốt, những tấm gương sáng tiêu biểu để nhân rộng, tạo nên một phong trào sống chiến đấu, lao động và học tập theo đạo đức Hồ Chí Minh mang đầy đủ ý nghĩa thực tiễn và có sức thuyết phục.
II. Vận dụng những chuẩn mực đạo đức cách mạng vào việc xây dựng đạo đức, lối sống của sv hiện nay
2.1. Một số nét khái quát về đạo đức, lối sống của SV hiện nay
- Vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên mấy năm gần đây đã trở thành điểm nóng không chỉ của ngành giáo dục mà còn của toàn xã hội. Các hành vi lệch chuẩn về đạo đức trong học sinh, sinh viên ngày càng gia tăng. Ở đâu một hình mẫu lý tưởng cho tuổi học trò? Và làm thế nào để các em học sinh, sinh viên định hình cho mình một phong cách sống phù hợp với chuẩn mực đạo đức đúng lứa tuổi?
Giới trẻ, trong đó có sinh viên – đối tượng sinh ra và lớn lên trong thời kỳ đổi mới với những biến đổi vô cùng nhanh chóng, cả về đời sống vật chất lẫn đời sống tinh thần xã hội, đang là đối tượng nhạy cảm nhất trước những biến chuyển của kinh tế - xã hội. Sự thay đổi của đời sống vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực đến đạo đức sinh viên hiện nay.
Sinh viên là những trí thức trẻ tương lai, không ai hết mà chính họ sẽ là những người đóng vai trò chủ chốt trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thế kỷ XXI là thế kỷ của văn minh trí tuệ, của sự phát triển khoa học kỹ thuật, nên rất cần có những con người trẻ tuổi, có trình độ và năng lực sáng tạo cao, có khả năng tiếp nhận cái mới rất nhanh và biết thay đổi linh hoạt, thích nghi kịp thời với sự thay đổi nhanh chóng của xã hội hiện đại, đại diện cho một thế hệ tiên tiến mới.
Sinh viên trước hết mang đầy đủ những đặc điểm chung của con người. Nhưng bên cạnh đó, họ còn mang những đặc điểm riêng: trẻ, có tri thức, dễ tiếp thu cái mới, nhạy cảm với các vấn đề chính trị - xã hội,… Đặc điểm rất đáng chú ý đang hình thành trong những người trẻ hôm nay, liên quan đến sự phát triển của công nghệ thông tin với tư cách là một cuộc cách mạng. Hình thành một phương thức tư duy của thời đại công nghệ thông tin: ngôn ngữ ngắn gọn, có tính logic, chính xác, hệ thống, hạn chế sự bay bổng về mặt hình tượng trực quan.
Sinh viên hiện nay, nổi bật lên khả năng tự ý thức cá nhân và ít chịu ảnh hưởng bởi dư luận như trước, tạo điều kiện phát huy sức sáng tạo cá nhân, chủ động và nhanh chóng tiếp cận với những cái mới trong khoa học, kỹ thuật và công nghệ, chịu khó học hỏi kiến thức phục vụ cho nghề nghiệp và công việc. Làm được điều đó một cách triệt để nhất, rõ ràng nhất, không ai khác ngoài sinh viên – đối tượng trẻ có tri thức, lớn lên trong môi trường mới, đi đầu tiếp thu cái mới, chấp nhận những giá trị mới trong một môi trường năng động và thay đổi liên tục.
Bên cạnh đặc điểm cơ bản là dễ dàng tiếp thu cái mới, sinh viên hôm nay còn được trang bị ngoại ngữ, tin học, với sự hỗ trợ của các phương tiện thông tin hiện đại và việc mở rộng, đa dạng hóa tiến trình giao lưu quốc tế,… điều này mở ra được một dòng chảy mới trong quá trình hội nhập, là thước đo của tính đúng đắn và bền vững. Các quan niệm đạo đức của mỗi cộng đồng, bên cạnh cái riêng của mình, đang xuất hiện những cái chung hòa nhập cùng thế giới, mở ra những cơ hội giao lưu, học hỏi. Có thể dự đoán về xu hướng đạo đức được quốc tế hóa, vừa trên cơ sở thống nhất những quy tắc đạo đức chung của con người, vừa giữ được truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Những quan niệm về tốt, xấu, công bằng, bình đẳng,… cũng đang có sự dịch chuyển nhất định. Những dịch chuyển này tạo ra một sự giải phóng về mặt tư tưởng quan niệm, hướng sinh viên đến sự chuẩn bị cho những hành động có tính hiệu quả sau này. Những quy tắc ứng xử vì thế cũng biến đổi, sự điều chỉnh hành động tuân theo nguyên tắc thiết thực, hiệu quả, phù hợp với yêu cầu mới của thời đại công nghiệp. Những rào cản đạo đức nào không phù hợp trong việc điều chỉnh hành vi sẽ bị vượt qua, thể hiện khá rõ nét ở sinh viên.
Điều đáng chú ý là vẫn với những yếu tố tác động có tính tích cực trên, ở một số bộ phận SV đã xuất hiện việc lệch chuẩn, nghiêng sang khía cạnh tiêu cực.
Tác động tiêu cực rõ nét nhất là biểu hiện cá nhân thực dụng trong quan niệm đạo đức và hành vi ứng xử trong một bộ phận không nhỏ sinh viên hôm nay. Trào lưu dân chủ hoá, làn sóng công nghệ thông tin và việc nâng cao dân trí đã làm ý thức cá nhân ngày càng rõ, đặc biệt là sinh viên. Họ tự ý thức cao về bản thân mình và muốn thể hiện vai trò cá nhân. Cái cá nhân nhiều khi đã lấn át cái cộng đồng, lợi ích cá nhân quan trọng hơn tất cả. Dần dần, nó hình thành một thái độ bàng quan đối với những người xung quanh, cho dù các phong trào tình nguyện gần đây được phát động khá rầm rộ trong sinh viên, nhằm giáo dục và tuyên truyền tinh thần vì cộng đồng. Sự hy sinh và quan tâm đến người khác thấp đi, và nếu có thì thường được đánh giá dưới góc độ kinh tế thực dụng hơn là tình cảm và sự chia sẻ