Năm 2009 được dự báo là một năm khó khăn đối với nền kinh tế nói chung cũng như đối với ngành kinh doanh dịch vụ nhà hàng khách sạn nói riêng. Thị trường thu hẹp, chi phí tăng cao, nhiều doanh nghiệp đối mặt với cảnh giải thể hoặc cắt giảm nhân công. Trước những khó khăn đó, để có thể duy trì sự ổn định thời gian trước mắt cũng như phát triển trong tương lai, các đơn vị kinh doanh cần xem xét kỹ lưỡng các hoạt động của mình, phát hiện những thiếu sót và hạn chế để tìm ra hướng đi mới, đảm bảo hiệu quả cho việc quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh.
Vấn đề tiền lương là một nhân tố thực sự quan trọng quyết định sự sống còn của các đơn vị kinh doanh. Tổ chức tốt công tác trả lương giúp cho việc quản lý lao động của doanh nghiệp ngày càng hoàn thiện hơn. Người lao động được tạo động lực hăng say làm việc, năng suất cao hơn và chấp hành tốt kỷ luật lao động. Quan trọng hơn, tổ chức công tác tiền lương tốt đồng nghĩa với quản lý tốt một trong những chi phí quan trọng, đặc biệt đối với các doanh nghiệp kinh doanh loại hình dịch vụ. Tổ chức tốt vấn đề trả lương, quản lý tốt quỹ lương và đảm bảo các khoản trợ cấp, Bảo hiểm xã hội sẽ tạo cơ sở cho phân bổ chi phí nhân công vào giá thành được chính xác. Đặt trong bối cảnh nền kinh tế khó khăn, quản lý tốt các khoản chi phí đồng thời duy trì tiền lương của người lao động hợp lý chính là vấn đề then chốt duy trì năng lực của đơn vị kinh doanh. Điều này đảm bảo chi phí cắt giảm hợp lý, đồng thời người lao động được đãi ngộ xứng đáng, duy trì tính tích cực lao động trong hoàn cảnh kinh tế khó khăn.
73 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2304 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vấn đề trả lương tại nhà khách tổng liên đoàn lao động trong bối cảnh nền kinh tế khó khăn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC BẢNG BIỂU
i
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ii
LỜI MỞ ĐẦU
iv
Phần 1
ẢNH HƯỞNG CỦA SUY THOÁI KINH TẾ
TỚI VẤN ĐỀ TRẢ LƯƠNG CỦA DOANH NGHIỆP
1
1.1
Ảnh hưởng của suy thoái kinh tế đối với doanh nghiệp Việt Nam
1
1.2
Những tác động xấu của khủng hoảng kinh tế tới người lao động trong doanh nghiệp
4
1.3
Yêu cầu của việc trả lương trong điều kiện kinh tế khó khăn
8
Phần 2
THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRẢ LƯƠNG
TẠI NHÀ KHÁCH TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG
11
2.1
Một số đặc điểm về Nhà khách Tổng Liên Đoàn Lao Động
21
2.1.1
Quá trình hình thành và phát triển
11
2.1.2
Đặc điểm kinh doanh dịch vụ
12
2.1.3
Đặc điểm cơ sở vật chất và tài sản
15
2.1.4
Kết quả kinh doanh giai đoạn 2005-2008 và kế hoạch phát triển Nhà khách Tổng Liên Đoạn giai đoạn 2009-2014
18
2.1.5
Đặc điểm về cơ cấu lao động
23
2.2
Thay đổi trong hoạt động Nhà khách đáp ứng vấn đề trả lương trong hoàn cảnh kinh tế khó khăn
27
2.2.1
Xác định lại quỹ tiền lương cho cán bộ công nhân viên theo hướng giảm tiền thưởng, tăng tỷ lệ tiền lương cho người lao động
27
2.2.2
Tái cơ cấu bộ máy quản lý và lao động theo hướng tinh gọn, giảm chi phí
28
2.2.3
Thay đổi trong hạch toán tiền lương và xác định hệ số cấp bậc công việc theo hướng đảm bảo tiền lương cho người lao động
34
2.2.4
Kiểm soát chặt chẽ và tiết kiệm các chi phí sản xuất kinh doanh nhưng vẫn đảm bảo ổn định tiền lương
39
2.2.5
Những chi phí tính khác tính theo lương cán bộ công nhân viên
40
2.3
Đánh giá kết quả của những thay đổi trong vấn đề trả lương
43
2.3.1
Những ưu điểm đạt được
43
2.3.2
Những hạn chế cần khắc phục
46
Phần 3
XÂY DỰNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VẤN ĐỀ TRẢ LƯƠNG
TẠI NHÀ KHÁCH TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG
48
3.1
Quan điểm và nguyên tắc cơ bản trong công tác hoàn thiện vấn đề trả lương tại Nhà khách Tổng Liên Đoàn
48
3.1.1
Chính sách tiền lương đảm bảo nguyên tắc chi phí sản xuất trong kinh tế thị trường
48
3.1.2
Đảm bảo tiền lương của người lao động trong hoàn cảnh kinh tế khó khăn
49
3.1.3
Tiền lương trả cho người lao động phải đảm bảo được sự công bằng cho người lao động
49
3.1.4
Vấn đề trả lương phải phù hợp với mục tiêu quản lý nguồn nhân lực cũng như định hướng phát triển của Nhà khách trong tương lai
50
3.2
Một số giải pháp cụ thể
51
3.2.1
Duy trì quỹ lương ổn định bằng cách tiết kiệm các khoản chi phí không cần thiết
51
3.2.2
Chia nhỏ và xây dựng lại các hệ số tham gia vào việc trả lương của người lao động
51
3.2.3
Hoàn thiện việc đánh giá cấp bậc và chất lượng công việc
53
3.2.4
Đánh giá thực hiện công việc một cách khoa học
57
3.3
Một số kiến nghị khác đối với Nhà khách Tổng Liên Đoàn và cơ quan Tổng Liên Đoàn Lao Động
61
3.3.1
Một số kiến nghị với Nhà khách Tổng Liên Đoàn
61
3.3.2
Một số kiến nghị với cơ quan Tổng Liên Đoàn Lao Động
62
KẾT LUẬN
63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
64
NHẬN XÉT CỦA NHÀ KHÁCH TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG PHẢN BIỆN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NKTLĐ
Nhà khách Tổng Liên Đoàn
L
Lương
TLV1
Tiền lương theo các lần tính 1
DG
Đơn giá
TLV2
Tiền lương theo các lần tính 2
t
Thời gian làm việc
HSLCB
Hệ số lương cơ bản tính theo thang lương của Nhà nước
LCB
Lương cấp bậc
H
Hệ số cấp bậc công việc
Q
Mức sản lượng
ΣQL
Tổng Quỹ Lương
Lsp
Lương theo sản phẩm
TLKQ
Tiền lương theo kết quả
LNCN
Lương cho nhóm công nhân
TLCĐ
Tiền lương theo chế độ
Lth
Lương theo sản phẩm có thưởng
HSTL
Hệ số tiền lương theo quy định mới
M
Số máy phục vụ cùng loại
Hcv
Hệ số công việc
HTN
Hệ số thâm niên công tác
HCM
Hệ số chuyên môn kỹ thuật được đào tạo
HNN
Hệ số ngoại ngữ
DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ
TÊN BẢNG & BIỂU ĐỒ
TRANG
Bảng 01– Các hoạt động thường xuyên đem lại lợi nhuận cho Nhà khách
13
Bảng 02 – Cơ cấu tài sản tại Nhà khách TLĐ
16
Bảng 03 – Kết quả hoạt động kinh doanh năm 2005 - 2006
18
Bảng 04 – Kết quả kinh doanh năm 2007
18
Bảng 05 – Giá trị sản xuất kinh doanh năm 2008
20
Bảng 06 - Kế hoạch kinh doanh giai đoạn 2010 – 2014
22
Bảng 07 – Cơ cấu lao động tại Nhà khách Tổng Liên Đoàn
23
Bảng 08 – Trình độ đào tạo của cán bộ công nhân viên từ năm 2006 đến 2008
25
Bảng 09 – Hệ số công việc
37
Bảng 10 – Các hệ số tham gia vào việc trả lương
38
Bảng 11 – Chi phí sản xuất kinh doanh giai đoạn 2006-2008
39
Bảng 12 – Báo cáo lao động và thu nhập năm 2007 và 2008
44
Bảng 13 - Mẫu điểm áp dụng xây dựng cấp bậc công việc.
55
Bảng 14 - Phương pháp bảng điểm - đồ thị.
56
Bảng 15 - Bảng chấm công thi đua
58
Bảng 16 - So sánh về hiệu quả lao động
60
Hình 01 – Thâm hụt ngân sách Nhà nước giai đoạn 1995 -2008
02
Hình 02 – Tốc độ tăng thu nhập của người lao động so với lạm phát
07
Hình 03 – Doanh thu các quý từ năm 2005-2008
21
Hình 04 – Cơ cấu lao động theo độ tuổi tại Nhà khách năm 2008
24
Hình 05 – Trình độ lao động năm 2008
26
Hình 06 – Cơ cấu bộ máy tổ chức Nhà khách trước tháng 4-2008
32
Hình 07 – Cơ cấu tổ chức Nhà khách từ tháng 4 năm 2008
33
Hình 08 – Biểu đồ tiền lương giai đoạn 2005 - 2008
44
LỜI MỞ ĐẦU
Năm 2009 được dự báo là một năm khó khăn đối với nền kinh tế nói chung cũng như đối với ngành kinh doanh dịch vụ nhà hàng khách sạn nói riêng. Thị trường thu hẹp, chi phí tăng cao, nhiều doanh nghiệp đối mặt với cảnh giải thể hoặc cắt giảm nhân công. Trước những khó khăn đó, để có thể duy trì sự ổn định thời gian trước mắt cũng như phát triển trong tương lai, các đơn vị kinh doanh cần xem xét kỹ lưỡng các hoạt động của mình, phát hiện những thiếu sót và hạn chế để tìm ra hướng đi mới, đảm bảo hiệu quả cho việc quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh.
Vấn đề tiền lương là một nhân tố thực sự quan trọng quyết định sự sống còn của các đơn vị kinh doanh. Tổ chức tốt công tác trả lương giúp cho việc quản lý lao động của doanh nghiệp ngày càng hoàn thiện hơn. Người lao động được tạo động lực hăng say làm việc, năng suất cao hơn và chấp hành tốt kỷ luật lao động. Quan trọng hơn, tổ chức công tác tiền lương tốt đồng nghĩa với quản lý tốt một trong những chi phí quan trọng, đặc biệt đối với các doanh nghiệp kinh doanh loại hình dịch vụ. Tổ chức tốt vấn đề trả lương, quản lý tốt quỹ lương và đảm bảo các khoản trợ cấp, Bảo hiểm xã hội sẽ tạo cơ sở cho phân bổ chi phí nhân công vào giá thành được chính xác. Đặt trong bối cảnh nền kinh tế khó khăn, quản lý tốt các khoản chi phí đồng thời duy trì tiền lương của người lao động hợp lý chính là vấn đề then chốt duy trì năng lực của đơn vị kinh doanh. Điều này đảm bảo chi phí cắt giảm hợp lý, đồng thời người lao động được đãi ngộ xứng đáng, duy trì tính tích cực lao động trong hoàn cảnh kinh tế khó khăn.
Với định hướng trên, thông qua quá trình nghiên cứu thực tế tại Nhà khách Tổng Liên Đoàn, với kiến thức đã có trong quá trình học tập và sự hướng dẫn tận tình của PSG.TS.Lê Công Hoa và cán bộ nhân viên phòng Tổ chức hành chính Nhà khách Tổng Liên Đoàn, tác giả đã chọn luận văn tốt nghiệp với đề tài:
“Vấn đề trả lương tại Nhà Khách Tổng Liên Đoàn Lao Động trong bối cảnh nền kinh tế khó khăn”
Kết hợp thực tế trong quá trình thực tập tại phòng Tổ chức hành chính và kiến thức tổng hợp, luận văn hướng tới việc tìm hiểu công tác trả lương tại Nhà khách Tổng Liên Đoàn Lao Động, phát hiện những điểm tích cực cũng như những thiếu sót của công tác trả lương, từ đó xây dựng các giải pháp nhằm thực hiện tốt vấn đề trả lương tại Nhà khách Tổng Liên Đoàn trên cơ sở các nguyên tắc và định hướng của ban lãnh đạo.
Luận văn áp dụng một số phương pháp nghiên cứu bao gồm: phương pháp thống kê, phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp logic, phương pháp tiếp cận thực tiễn các vấn đề và quá trình tham khảo ý kiến của toàn thể cán bộ phòng Tổ chức hành chính trên cơ sở kết hợp với lý luận được tiếp thu để đưa ra một số giải pháp thích hợp cho vấn đề trả lương tại Nhà khách Tổng Liên Đoàn, giúp cho Nhà khách ngày càng phát triển hơn nữa.
Trên những cơ sở đó, luận văn có kết cấu gồm 3 phần:
Phần một: Ảnh hưởng của suy thoái kinh tế tới vấn đề trả lương của doanh nghiệp.
Phần hai: Thực trạng vấn đề trả lương tại Nhà khách Tổng Liên Đoàn.
Phần ba: Xây dựng giải pháp hoàn thiện vấn đề trả lương tại Nhà khách Tổng Liên Đoàn.
PHẦN 1
ẢNH HƯỞNG CỦA SUY THOÁI KINH TẾ
TỚI VẤN ĐỀ TRẢ LƯƠNG CỦA DOANH NGHIỆP
1.1.Ảnh hưởng thoái kinh tế đối với Doanh nghiệp Việt Nam.
Năm 2008 và những tháng đầu năm 2009 chứng kiến nền kinh tế thế giới đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính và suy thoái lớn nhất trong 70 năm trở lại đây. Theo nhiều chuyên gia dự báo, khủng hoảng còn tồi tệ hơn và chỉ có thể chấm dứt vào năm 2011. Trong hoàn cảnh đó, nền kinh tế Việt Nam cũng chịu nhiều ảnh hưởng:
Vào thời điểm cuối năm 2008, Chính Phủ Việt Nam vẫn đặt mục tiêu tăng trưởng 6-7% cho năm 2009, World Bank và IMF thì dự báo mức độ tăng trưởng của Việt Nam sẽ là 5%, còn Deutsch Bank đánh giá là Việt Nam sẽ tăng trưởng quãng 4%. Hầu hết các nước khác cũng được dự báo là mức tăng trưởng trong năm 2009 sẽ giảm đi. Ví dụ nước Đức (nước có nền kinh tế mạnh nhất châu Âu) được dự báo suy thoái với GDP tăng trưởng -2.2%. Tăng trưởng của Trung Quốc cũng được dự báo sẽ giảm từ 9% còn 6%.Và vì "khi Trung Quốc hắt hơi thì Việt Nam cảm cúm", nên độ tăng trưởng của Việt Nam cũng có nguy cơ giảm trên 3%, và như vậy dự báo 4% là hợp lý.. Điều này thể hiện qua nhiều mặt:
Thâm hụt ngân sách nhà nước tăng. Những năm vừa qua trung bình thâm hụt ngân sách khoảng 5% GDP một năm. Tuy nhiên năm 2009 thâm hụt ngân sách có nguy cơ tăng lên mạnh. Lượng thuế thu từ cuối 2008 có chiều hướng giảm, trong khi nhu cầu chi tiêu tăng lên, đặc biệt là nhu cầu cho chính sách kích thích nền kinh tế.
Hình 01 – Thâm hụt ngân sách Nhà nước giai đoạn 1995 -2009 (nghìn tỷ đồng)
Các thị trường xuất khẩu truyền thống của Việt Nam sẽ có nhiều khó khăn. Trên thực tế, kim ngạch xuất khẩu những tháng cuối năm 2008 đã giảm đi, không chỉ ở Việt Nam mà cả ở Trung Quốc và những nước khác. Mức tiêu thụ ở các thị trường chính như Mỹ, châu Âu, Nhật Bản đều giảm . Đồng thời, giá cả cũng có xu hướng đi xuống (thiểu phát tháng 11/2008 ở Mỹ là 1.7%). Điều tất yếu là cán cân thương mại của Việt Nam sẽ tiếp tục chênh lệch cao. Thâm hụt cán cân thương mại của Việt Nam có thể bị tiếp tục tăng lên đáng kể, từ mức hơn 17 tỷ USD năm 2008 lên đến mức 20-25 tỷ USD vào năm 2009. Đối phó với hoàn cảnh đó, nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn tại các thị trường xuất khẩu tìm cách quay trở lại thị trường trong nước nhưng cũng gặp nhiều khó khăn do kinh tế nước ta đang suy giảm nghiêm trọng, thị trường trở nên khó tiêu thụ hơn. Kết quả là doanh nghiệp không thể tồn tại trên ngay thị trường trong nước hoặc kinh doanh rất khó khăn.
Các nguồn đầu tư vào Việt Nam, kể cả trực tiếp hay gián tiếp, dài hạn hay ngắn hạn đều có xu hướng giảm trong năm 2009. Lượng FDI và ODA vào Việt Nam giảm di nhiều nước tài trợ gặp khó khăn không thể tiếp tục tài trợ Việt Nam (Nhật Bản có thời điểm đã ngừng tài trợ nguồn vốn ODA cho Việt Nam). Thậm chí nguồn kiều hối hàng năm ở mức 6-7 tỉ USD một năm cũng có thể giảm xuống do người Việt Nam ở nước ngoài cũng gặp khó khăn do tình hình tại nước sở tại.
Cùng với đó, nguồn vốn cho kinh doanh trong nước gặp nhiều khó khăn. Trong khi thị trường chứng khoán chịu ảnh hưởng của suy thoái tài chính sụt giảm mạnh (VNINDEX giảm từ mốc 1100 điểm còn 300 điểm vào cuối năm 2008 và hồi phục rất chậm từ đầu năm tới nay), nhà đầu tư không dám bỏ vốn đầu tư vào các doanh nghiệp thì hệ thống ngân hàng cũng bị thiếu thanh khoản trong nhiều tháng. Có khi lãi suất qua đêm lên đến 43% vào đầu năm 2009. Lãi suất quá cao trong năm 2008 càng góp phần tạo khó cho phần lớn các doanh nghiệp trong việc tiếp cận nguồn vốn. Hệ quả là, theo hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ, thì vào tháng 10/2008 có đến 80% các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp khó khăn, trong đó có 20% có nguy cơ đóng cửa, 60% còn lại có sản xuất sút kém. Đến khi lãi suất giảm vào cuối 2008 thì các ngân hàng lại đứng trước một khó khăn mới, là đã có thời gian vay vào với lãi suất cao (gần 20% cho tiền gửi 1 năm), và bây giờ cho vay ra với lãi suất thấp hơn (khoảng 13%) nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn sợ không dám vay, và tiền ứ đọng trong ngân hàng (vào thời điểm 11/2008 thừa gần 100 nghìn tỷ VND không có người vay).
Trong năm 2008, lạm phát trung bình cao 22% (có thời điểm là 30%). Năm 2009, lạm phát tuy chỉ được dự báo ở mức 8-11% nhưng đó là một dự báo tương đối lạc quan. Trên thực tế, lạm phát có thể tăng cao hơn nữa, nhất là sau khi Nhà nước điều chỉnh lương cơ bản của cán bộ công nhân viên từ 540.000đ lên 650.000đ. Lạm phát cao tạo áp lực lên thị trường, làm giảm sức mua của người tiêu dùng.Không những thế, giá cả đầu vào tăng làm giảm sức cạnh tranh cũng như lợi nhuận của doanh nghiệp. Và như vậy, doanh nghiệp đối mặt với cùng lúc nhiều khó khăn, khi vẫn phải giảm giá để thu hút khách hàng mà vẫn phải đảm bảo lợi nhuận sau khi trừ chi phí cao của đầu vào.
1.2.Những tác động xấu của khủng hoảng kinh tế tới người lao động trong doanh nghiệp.
Sức ép khổng lồ trong bối cảnh nêu trên buộc các doanh nghiệp phải có những ứng phó nhất định để tồn tại trong khó khăn kinh tế. Một số doanh nghiệp nhỏ chọn phương pháp sát nhập với doanh nghiệp khác để có thể đứng vững trước cơn bão khủng hoảng, điển hình là các công ty tài chính và các quỹ đầu tư chứng khoán. Các doanh nghiệp trước nay vẫn sản xuất hàng xuất khẩu thì nay cũng xác lập thị phần của mình tại thị trường trong nước như may mặc, giầy da...Tuy nhiên, một xu thế chung đối với hầu hết các doanh nghiệp là cắt giảm các khoản chi phí đầu vào như chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công. Ngoài ra, do thị trường bị thu hẹp tạo ra hệ quả là các doanh nghiệp không sử dụng hết khả năng sản xuất kinh doanh. Điều này có nghĩa là việc duy trì số lượng lớn lao động thường xuyên và đảm bảo tiền lương của người lao động sẽ tạo gánh nặng và áp lực rất lớn cho các doanh nghiệp nói chung. Xu thế được đa phần doanh nghiệp áp dụng là cắt giảm chi phí nhân sự, trong đó bao gồm cắt giảm nhân công, tái cơ cấu tổ chức bộ máy tinh gọn và hiệu quả, cắt giảm các khoản chi phí như chi phí hành chính hoặc “đóng băng” tiền lương ở những khu vực nhất định trong doanh nghiệp để giảm chi phí.
Qua khảo sát của một số chuyên gia, đa phần các công ty vẫn duy trì số nhân viên như cũ hoặc tuyển dụng bổ sung nhưng không nhiều. Tuy nhiên, những công ty đang tuyển dụng gặp khó khăn khi tuyển các vị trí chuyên viên và quản lý cấp cao của ngành tài chính, kinh doanh và marketing. Về nhân sự, tỷ lệ nhân viên nghỉ việc của tất cả các ngành là 16,4%, trong đó ngành dược phẩm và chăm sóc sức khỏe có tỉ lệ nhân viên nghỉ việc cao nhất với 23,3%. Về dự kiến tuyển dụng lao động trong 12 tháng tới, kết quả khảo sát cho thấy, 50% công ty duy trì lực lượng lao động, 40% công ty tuyển thêm nhân viên và 10% có kế hoạch cắt giảm. Nhu cầu tuyển dụng sẽ tập trung vào các ngành dược phẩm, chăm sóc sức khỏe, hàng tiêu dùng và công nghệ cao.
Tuy nhiên, theo Bộ Lao động thương binh và xã hội, tình trạng mất việc trong các doanh nghiệp lại đang gia tăng. Nếu trong năm 2008, cả nước có gần 30.000 lao động trong các doanh nghiệp mất việc làm thì trong năm 2009, con số này có thể tăng lên nhanh chóng. Theo dự báo sẽ có khoảng 150.000 lao động thất nghiệp, nâng con số lao động thất nghiệp lên thành 180.000 người. Nếu chỉ tính riêng một số tỉnh tập trung nhiều khu công nghiệp ở phía Nam và phía Bắc, từ đầu năm 2009, đã có 22.000 lao động nghỉ việc. Thống kê của Ban quản lý Các khu công nghiệp - khu chế xuất thành phố Hà Nội cho thấy, 3-4 tháng gần đây, rất nhiều doanh nghiệp đã thông báo cắt giảm lao động do sản xuất kinh doanh gặp khó, như Công ty Canon (khu công nghiệp Thăng Long và Quế Võ), với khoảng hơn 2.000 lao động, Công ty Nissei Electric khoảng 300 lao động...hoặc tạm ngưng việc hoặc nghỉ việc ăn lương từ 50-70%. Công ty Cổ phần Sữa Hanoimilk cũng vừa cho nghỉ việc gần 250 lao động, trong đó phần lớn là người của địa phương đã nhận vào theo cam kết. Bên cạnh đó, theo Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Nguyễn Thị Kim Ngân, còn khoảng 10.000 lao động Việt Nam thất nghiệp ở nước ngoài sẽ về nước trong năm nay, tham gia cạnh tranh ở thị trường lao động, làm tình trạng thất nghiệp của nước ta trở nên xấu hơn.
Để hỗ trợ người lao động mất việc làm, Nhà nước và Chính phủ đã cho thực hiện Bảo hiểm thất nghiệp bắt đầu từ ngày 1/1/2009. Doanh nghiệp có trách nhiệm đóng 1% Bảo hiểm thất nghiệp, Nhà nước chi 1% từ Ngân sách Nhà nước tạo quỹ bảo hiểm thất nghiệp. Tuy nhiên theo quy định hiện hành, phải đóng bảo hiểm trong 1 năm mới được nhận trợ cấp thất nghiệp. Điều này có nghĩa là đến đầu năm 2010, người lao động mới có thể nhận trợ cấp thất nghiệp, những trường hợp thất nghiệp ở trước thời điểm này không thể nhận bảo hiểm thất nghiệp. Do đó, sa thải công nhân trong hoàn cảnh hiện tại thực sự là việc làm tăng sự khó khăn cho người lao động.
Ở một góc độ khác, nhiều doanh nghiệp khác cắt giảm chi phí nhân sự thông qua cắt giảm chi phí hành chính, thay đổi trong chính sách đãi ngộ, đặc biệt là cắt giảm lương của người lao động. Thông thường, cắt giảm tiền lương là biện pháp cuối cùng đối với nhà quản lý nhân sự. Biện pháp này vừa không không đáp ứng được yêu cầu kinh tế cho người lao động, vừa có tác dụng không tốt tới tâm lý làm việc của họ. Tuy nhiên, với nhiều doanh nghiệp Việt Nam, cắt giảm tiền lương vẫn là biện pháp được sử dụng nhiều nhất hiện nay.
Nếu như năm 2008, tỉ lệ lạm phát ở Việt Nam khá cao dẫn đến nhiều công ty buộc phải tăng lương để giúp nhân viên có cuộc sống ổn định thì trong năm 2009, tình hình kinh tế toàn cầu biến động và bất ổn về tài chính buộc nhiều công ty tiến hành cắt giảm chi phí. Trên thực tế, nhiều công ty chứng khoán đã cắt giảm lương thưởng chỉ còn từ 50 – 70%. Điều này là dễ lý giải, vì theo như nghiên cứu của các chuyên gia, giải pháp thay đổi hệ thống lương, thưởng và chế độ đãi ngộ lao động có thể giảm từ 20 – 30% tổng chi phí. Với những chiến lược giảm chi phí như vậy, thu nhập của người lao động sẽ không còn tăng cao như những năm vừa qua. Kết quả khảo sát cho thấy, mức tăng lương trung bình sẽ ở mức 13,1% (giảm 2,2% so với năm trước). Trong năm 2008, chỉ có 1.6% trong tổng số công ty cho biết sẽ không tăng lương thì năm nay, có đến 9% công ty không tăng lương. Trong số đó, 7% công ty cho biết việc “đóng băng” lương xảy ra ở tất cả các cấp; một số DN còn lại là từ cấp bậc chuyên viên trở lên. Riêng với nhiều công ty có tăng lương, mức tăng sẽ thấp hơn năm ngoái trung bình 20%. Tương tự, mức thưởng cũng sẽ thấp hơn so với năm 2008.
Hình 02 -Tốc độ tăng thu nhập của người lao động so với lạm phát
(Nguồn : Tổng cục thống kế Việt Nam)
Điều đáng lưu ý là vấn đề cắt giảm nhân công hay giảm tiền lương lao động là một vấn đề nhạy cảm. Người lao động trong doanh nghiệp không tập trung tinh thần làm việc cho doanh nghiệp do lo lắng về tương lai của mình, dẫn đến bầu không khí làm việc trong doanh nghiệp trở nên xấu đi, làm việc không hiệu quả. Hơn nữa, những biện pháp đó còn ảnh hưởng đến chính sách lâu dài của doanh nghiệp khi nền kinh tế hồi phục, doanh nghiệp cần nguồn nhân lực có khả năng và thích hợp với công việc. Khi đó, chi phí tuyển dụng và đào tạo lại công nhân cũng là một chi phí không nhỏ mà doanh nghiệp cần tí