Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á, thường được biết đến là ASEAN, là một liên minh chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của 10 quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, được thành lập ngày 08/08/1967 bởi các quốc gia Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan. Brunei gia nhập vào ngày 08/01/1984, Việt Nam vào ngày 28/07/1995, Lào và Myanmar vào ngày 23/07/1997 và cuối cùng là Campuchia vào ngày 30/04/1999.
Thành lập ASEAN (1967)
Tính đến thời điểm năm 2006, khu vực ASEAN có tổng dân số vào khoảng 560 triệu người, diện tích là 4,5 triệu km2, tổng GDP gần bằng 1100 tỉ USD và tổng giao dịch thương mại vào khoảng 1400 tỉ USD.
43 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2421 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Việt Nam - Asean 13 năm hội nhập và phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. ASEAN:
1. THÀNH LẬP ASEAN:
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á, thường được biết đến là ASEAN, là một liên minh chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của 10 quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, được thành lập ngày 08/08/1967 bởi các quốc gia Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan. Brunei gia nhập vào ngày 08/01/1984, Việt Nam vào ngày 28/07/1995, Lào và Myanmar vào ngày 23/07/1997 và cuối cùng là Campuchia vào ngày 30/04/1999.
Thành lập ASEAN (1967)
Tính đến thời điểm năm 2006, khu vực ASEAN có tổng dân số vào khoảng 560 triệu người, diện tích là 4,5 triệu km2, tổng GDP gần bằng 1100 tỉ USD và tổng giao dịch thương mại vào khoảng 1400 tỉ USD.
2. MỤC TIÊU:
Tuyên ngôn của ASEAN tuyên bố rằng mục tiêu và mục đích của Hiệp hội là: (1) làm tăng tốc độ phát triển kinh tế, tiến trình xã hội và phát triển văn hoá trong khu vực (2) khuyến khích hoà bình và ổn định trong khu vực thông qua việc tôn trọng vĩnh viễn sự công bằng và luật pháp trong mối quan hệ giữa các quốc gia trong khu vực và việc tôn trọng triệt để đến những điều lệ của Hiến chương Liên Hiệp Quốc.
Tầm nhìn ASEAN 2020, theo hội nghị các nhà lãnh đạo ASEAN trong kỉ niệm 30 năm thành lập hiệp hội, thống nhất về một tầm nhìn ASEAN như một khối hoà hợp giữa các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, cùng nhìn xa hơn, sống trong hoà bình, ổn định và thịnh vượng, cùng ràng buột bởi mối quan hệ đồng minh trong sự phát triển năng động và trong một cộng đồng của những xã hội quan tâm đến nhau.
Năm 2003, Ban lãnh đạo ASEAN đã quyết định rằng một cộng đồng ASEAN phải bao gồm ba cột trụ, Cộng đồng an ninh ASEAN, Cộng đồng kinh tế ASEAN và Cộng đồng văn hoá-xã hội ASEAN.
3. NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN:
Những quốc gia thành viên của khối ASEAN cùng chấp nhận và thực hiện theo những nguyên tắc cơ bản trong mối quan hệ với từng thành viên khác, được nêu rõ trong Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Đông Nam Á (TAC):
Cùng tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc dân tộc của tất cả các dân tộc;
Quyền của mọi quốc gia được lãnh đạo hoạt động của dân tộc mình, không có sự can thiệp, lật đổ hoặc cưỡng ép của bên ngoài;
Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau;
Giải quyết bất đồng hoặc tranh chấp bằng biện pháp hoà bình, thân thiện;
Không đe doạ hoặc sử dụng vũ lực;
Hợp tác với nhau một cách có hiệu quả.
Thêm vào đó, có 3 nguyên tắc cơ bản điều phối hoạt động của các quốc gia thành viên ASEAN, đó là nguyên tắc nhất trí, nguyên tắc bình đẳng và nguyên tắc 6X.
4. CẤU TRÚC ASEAN:
AEM
: Bộ trưởng kinh tế ASEAN
AMM
: Hội nghị cấp bộ trưởng ASEAN
AFMM
: Hội nghị bộ trưởng tài chính ASEAN
SEOM
: Hội nghị viên chức kinh tế cấp cao
ASC
: Ủy ban thường trực ASEAN
SOM
: Hội nghị viên chức cấp cao
ASFOM
: Hội nghị viên chức tài chính cấp cao ASEAN
Cơ quan ra quyết định cao nhất của ASEAN là Hội nghị những người đứng đầu Nhà nước và Chính phủ của các nước ASEAN. Hội nghị thượng đỉnh ASEAN được triệu tập mỗi năm. Cho đến nay đã có 13 hội nghị cấp cao được tổ chức. Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 14 sẽ được tổ chức tại Thái Lan vào ngày 15/12/2008.
Theo Tuyên bố Băng cốc năm 1967, Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN (AMM) là hội nghị hàng năm của các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN có trách nhiệm đề ra và phối hợp các hoạt động của ASEAN. Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN được tổ chức hàng năm.
Hội nghị bộ trưởng kinh tế ASEAN (ASEAN Economic Ministers-AEM):AEM họp chính thức hàng năm và có thể họp không chính thức khi cần thiết. Trong AEM có hội đồng AFTA được thành lập theo quyết định của hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 4 tại Singapore.
Cuộc họp các quan chức cao cấp (Senior Officials Meeting-SOM) được chính thức coi là một bộ phận của cơ cấu trong ASEAN tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 3 tại Manila 1987. SOM chịu trách nhiệm về hợp tác chính trị ASEAN và họp khi cần thiết; báo cáo trực tiếp cho AMM.
Cuộc họp các quan chức kinh tế cao cấp (Senior Economic Officials Meeting-SEOM): SEOM cũng đã được thể chế hoá chính thức thành một bộ phận của cơ cấu ASEAN tại Hội nghị Cấp cao Manila 1987. Tại hội nghị Cấp cao ASEAN 4 năm 1992, 5 uỷ ban kinh tế ASEAN đã bị giải tán và SEOM được giao nhiệm vụ theo dõi tất cả các hoạt động trong hợp tác kinh tế ASEAN .
Cuộc gặp gỡ của các bộ trưởng về các lĩnh vực sau cũng được tổ chức đều đặn: nông lâm nghiệp, kinh tế (thương mại), năng lượng, môi trường, tài chính, y tế, thông tin, đầu tư, lao động, luật, các bất ổn trong khu vực, phát triển nông thôn và xóa đói giảm nghèo, khoa học công nghệ, sự thịnh vượng xã hội, thông tin liên lạc, tội phạm quốc tế, giao thông vận tải, du lịch, thanh thiếu niên. Tháp tùng theo các phái đoàn bộ trưởng là các công chức cấp cao, các nhóm chuyên viên và các lực lượng đặc nhiệm.
Uỷ ban thường trực ASEAN (ASEAN Standing Committee-ASC): ASC bao gồm chủ tịch là Bộ trưởng Ngoại giao của nước đăng cai Hội nghị AMM sắp tới, Tổng thư ký ASEAN và Tổng Giám đốc của các Ban thư ký ASEAN quốc gia. ASC thực hiện công việc của AMM trong thời gian giữa 2 kỳ họp và báo cáo trực tiếp cho AMM.
Tổng thư ký của ASEAN được chọn dựa trên công trạng và được chấp thuận bởi các bộ trưởng. Tổng thư ký ASEAN, người sẽ có nhiệm kỳ 5 năm, được uỷ nhiệm đề xướng, khuyến nghị, sắp xếp và thi hành các hoạt động của ASEAN. Các chuyên viên của cơ quan thư ký ASEAN được chọn dựa trên nguyên tắc tuyển dụng không hạn chế và cạnh tranh không giới hạn trong khu vực. Tiến sĩ Surin Pitsuwan được giới thiệu bởi Chính phủ Thái Lan và được tán thành bởi Ban lãnh đạo ASEAN để trở thành Tổng thư ký ASEAN trong nhiệm kì 2008-2012.
ASEAN có một số đoàn và sự sắp xếp riêng biệt nhằm củng cố sự hợp tác của các chính phủ trong rất nhiều lĩnh vực như sau: Trung tâm phát tiển nông nghiệp ASEAN, Trung tâm quản lý ASEAN – EC, Trung tâm năng lượng ASEAN, Trung tâm thông tin về động đất ASEAN, Quỹ tài trợ ASEAN, Trung tâm nghiên cứu và huấn luyện về gia cầm ASEAN, Trung tâm bảo tồn sự đa dạng sinh thái khu vực ASEAN, Trung tâm phát triển thanh niên ở nông thôn, Trung tâm chuyên về khí tượng học ASEAN, Trung tâm công nghệ trồng rừng ASEAN, Trung tâm thông tin du lịch ASEAN, Mạng lưới các trường đại học ASEAN.
Ngoài ra, ASEAN còn đẩy mạnh các cuộc đối thoại và hội đàm với các chuyên gia và tổ chức kinh tế với các ý định và mục đích có liên quan, như ASEAN – phòng thương mại và Công nghiệp, Diễn đàn kinh tế ASEAN, Hợp tác du lịch ASEAN, Ủy ban dầu mỏ ASEAN, Hợp tác hàng hải ASEAN, Liên đoàn các công ty tàu biển ASEAN, Liên đoàn người lao động ASEAN, Liên đoàn đánh cá ASEAN, CLB dầu thực vật ASEAN, Hợp tác sở hữu trí tuệ ASEAN, và Học viện về các nghiên cứu quốc tế và chiến lược ASEAN. Ngoài ra, còn có 58 tổ chức phi chính phủ (NGOs) đã sát nhập chính thức với ASEAN.
Trụ sở ASEAN tại Jakarta, khánh thành ngày 09/05/1981
5. CỘNG ĐỒNG ASEAN:
5.1.Cộng đồng an ninh ASEAN:
Thông qua các cuộc đối thoại chính trị và xây dựng lòng tin, không còn căng thẳng leo thang trong các cuộc đối đầu vũ trang giữa các quốc gia thành viên ASEAN kể từ khi ASEAN được thành lập hơn 3 thập niên trước.
Để đạt được những gì đã xây dựng được trong những năm vừa qua trong lĩnh vực hợp tác an ninh và chính trị, Ban lãnh đạo ASEAN đã đồng ý thành lập Cộng đồng an ninh ASEAN (ASEAN Security Community - ASC). ASC sẽ nhắm đến mục tiêu chung sống hòa bình giữa các nước trong khu vực với nhau và với thế giới trong môi trường công bình, dân chủ và hòa hợp.
Các thành viên của cộng đồng cam kết tin tưởng vào diễn biến hòa bình trong việc dàn xếp các mối bất hòa khu vực và xem an ninh của các quốc gia cơ bản có mối quan hệ với nhau và bị ràng buộc bởi vị trí địa lý, tầm nhìn và mục tiêu chung. Việc này bao gồm các yếu tố sau: diễn biến chính trị, sự hình thành và phân chia các quy tắc, ngăn ngừa xung đột, giải quyết xung đột, xây dựng hòa bình sau chiến tranh và cơ chế thực hiện. Nó được xây dựng dựa trên nền tảng vững chắc của các cơ cấu, hiệp định, nguyên tắc và các thủ tục pháp lý của ASEAN, đã được phát triển nhiều năm và bao gồm các hiệp định chính sau đây:
Tuyên ngôn ASEAN, Bangkok, 08/08/1967.
Tuyên ngôn của khu vực hòa bình, tự do và trung lập, Kuala Lumpur, 27/11/1971.
Tuyên bố về Sự hoà hợp ASEAN, Bali, 24/02/1976.
Hiệp ước hữu nghị và hợp tác khu vực Đông Nam Á, Bali, 24/02/1976.
Tuyên ngôn ASEAN về vùng biển Nam Trung Quốc, Manila, 22/07/1992
Tầm nhìn ASEAN 2020, Kuala Lumpur, 15/12/1997.
Tuyên bố về Sự hoà hợp ASEAN II, Bali, 07/10/2003.
Với việc công nhận về việc phụ thuộc lẫn nhau trong an ninh ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, ASEAN đã thiết lập Diễn đàn khu vực ASEAN (ASEAN Regional Forum -ARF) vào 1994. Chương trình nghị sự của ARF hướng đến mục tiêu đưa ra 3 giai đoạn chính, cụ thể là sự phát triển của việc xây dựng lòng tin, sự phát triển của các biện pháp ngoại giao ngăn ngừa và các soạn thảo giải quyết xung đột.
Các thành viên hiện tại của ARF gồm: Australia, Brunei Darussalam, Campuchia, Canada, Trung Quốc, Cộng đồng chung Châu Âu, Ấn Độ, Indonesia, Nhật Bản, Dân chủ Cộng hòa Hàn Quốc,Cộng hòa Hàn Quốc, Lào, Malaysia, Mongolia, Myanmar, New Zealand, Pakistan, Papua New Guinea, Philippines, Liên bang Nga, Singapore,Thái Lan, Hoa Kỳ, và Việt Nam.
ARF bàn bạc với nhau về các vấn đề an ninh khu vực chủ yếu, bao gồm mối quan hệ giữa các cường quốc, vấn đề chậm phát triển ở các nước, chống khủng bố, tội phạm quốc tế, vùng biển phía Nam Trung Quốc và Bán đảo Triều Tiên.
5.2. Cộng đồng kinh tế ASEAN:
Cộng đồng kinh tế ASEAN sẽ là mục tiêu cuối của thước đo về sự hòa hợp kinh tế như đã được phác thảo trong tầm nhìn ASEAN 2020. Mục đích của Cộng đồng kinh tế ASEAN là tạo ra một khu vực kinh tế ASEAN cạnh tranh cao, thịnh vượng và ổn định, ở đó sẽ có những luồng đầu tư, dịch vụ và hàng hóa tự do và tự phát triển kinh tế công bằng, lý tưởng, giảm được nghèo khó và chênh lệch giàu nghèo vào năm 2020.
Cộng đồng kinh tế ASEAN sẽ tạo dựng ASEAN như một thị trường đơn lẻ và có nền tảng là sản xuất hàng hóa, biến đổi tính đa dạng tiêu biểu cho khu vực thành cơ hội cho việc kinh doanh bổ sung và xây dựng ASEAN thành một phân khúc năng động và vững chắc hơn trong dây chuyền cung ứng toàn cầu.
Trong quy trình tiến đến việc thành lập Cộng đồng kinh tế ASEAN, ASEAN đã thông qua các điều khoản sau:
Xây dựng cơ chế mới và đánh giá để củng cố việc thi hành các sáng kiến kinh tế hiện tại bao gồm: khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định khung về E của ASEAN, Khu vực đầu tư ASEAN (AIA).
Tăng cường sự thống nhất trong khu vực trong các lĩnh vực tiên phong sau đây trước năm 2020: hàng không, nông phẩm, máy móc tự động, thương mại điện tử, thiết bị điện tử, công nghiệp đánh cá, chăm sóc sức khỏe, các sản phẩm cao su, dệt may, du lịch, sản phẩm gỗ.
Tạo điều kiện cho sự phát triển của các cá thể kinh doanh, đào tạo lao động và nhân tài.
Củng cố bộ máy lãnh đạo của ASEAN, bao gồm việc cải thiện cơ chế giải quyết bất hào hiện nay của ASEAN, đảm bảo cách giải quyết nhanh chóng và có tính ràng buộc về pháp lý trong bất kỳ tranh chấp về kinh tế nào.
Những hoạt động chính liên quan đến việc thống nhất kinh tế khác của ASEAN bao gồm:
Hướng dẫn cho việc thống nhất về tiền tệ và tài chính của ASEAN trong 4 lĩnh vực, cụ thể là: phát triển thị trường vốn, sự mở rộng tự do tài khoản vốn, sự mở rộng tự do của các dịch vụ tài chính và hợp tác tiền tệ.
Hệ thống vận chuyển xuyên ASEAN bao gồm các con đường quốc lộ giữa các bang và mạng lưới đường sắt, ồm tuyến đường Singapore-Kunning, các cảng biển chính và đường quy định của tàu biển cho giao thông trên biển, vận chuyển trên đường sông nội địa và các tuyến đường hàng không dân sự.
Hướng dẫn trong lĩnh vực hợp nhất du lịch hàng không.
Sự tương vận và liên kết nội bộ của các dịch vụ và thiết bị viễn thông quốc gia, bao gồm Thỏa thuận chứng nhận hợp chuẩn thiết bị viễn thông của ASEAN (ATRC-MRA) trong việc đánh giá mức độ phù hợp của các thiết bị viễn thông.
Mạng lưới năng lượng xuyên ASEAN, bao gồm Hệ thống điện năng ASEAN và Dự án đường ống dẫn ga xuyên ASEAN.
Sáng kiến liên kết ASEAN (IAI) tập trung vào cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực, công nghệ thông tin liên lạc và sự hợp nhất về kinh tế của khu vực, chủ yếu là các nước CLMV.
Cuộc vận động đến thăm ASEAN và Chương trình ASEAN Hip-Hop Pass nhằm phát triển du lịch ở các nước ASEAN.
Hiệp định về dự trữ an ninh lương thực ASEAN.
5.2.1. Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA):
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) là một khối thương mại được thành lập bởi Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á nhằm hỗ trợ sản xuất ở những nước ASEAN.
Hiệp định AFTA được kí vào 28/01/1992 ở Singapore. Khi hiệp định AFTA được bắt đầu kí kết, ASEAN có 6 thành viên gồm Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thailand. Vietnam đã tham gia vào năm 1995, Lào và Mianma tham gia vào năm 1997, Campuchia năm 1999. Bây giờ AFTA gồm có 10 nước ASEAN. Tất cả 4 nước đến sau đã được yêu cầu kí vào hiệp định AFTA để tham gia vào ASEAN nhưng được cho phép có một khung thời gian dài hơn để đáp ứng giao ước giảm thuế quan của AFTA.
Mục đích chủ yếu mà AFTA nhắm vào là:
Tăng lợi thế cạnh tranh của ASEAN như một trung tâm sản xuất trên thị trường thế giới, thông qua việc loại trừ hàng rào thuế quan và phi thuế quan trong nội bộ ASEAN.
Thu hút nhiều đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ASEAN.
Cơ cấu chủ yếu của việc đạt được mục đích trên là Ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT), thiết lập một lộ trình bắt đầu vào năm 1992 với mục đích là tăng “lợi thế cạnh tranh của khu vực như một trung tâm sản xuất cho thị trường thế giới”.
Kể từ 1/1/2005, mức thuế đánh trên gần 99% các loại sản phẩm có tên trong Danh mục cắt giảm thuế của ASEAN-6 (Brunây, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, và Thái Lan) đã được cắt giảm xuống dưới 5%. Hơn 60% các sản phẩm này không bị đánh thuế. Mức thuế trung bình của ASEAN-6 đã được hạ từ hơn 12% xuống 2% ngày nay khi AFTA đi vào hoạt động. Đối với những thành viên mới, cụ thể là Campuchia, Lào, Việt Nam, mức thuế đối với 81% sản phẩm trong Danh mục cắt giảm thuế đã được hạ xuống trong mức 0-5%.
Thành viên
Những quốc gia đồng ý loại bỏ thuế quan giữa họ :
Brunei
Indonesia
Malaysia
Philippines
Singapore
Thailand
Quan sát viên thường trực:
Papua New Guinea
East Timor
Những nước sẽ tham gia vào năm 2012:
Myanmar
Cambodia
Laos
Vietnam
Những nước quan sát những cuộc họp ASEAN gần đây:
People's Republic of China
Pakistan
India
South Korea
Japan
Australia
New Zealand
5.2.1.1.Lịch sử
Lời đề nghị thành lập một khu vực mậu dịch tự do ở ASEAN lần đầu tiên nêu ra bởi thủ tướng Thái Lan Anand Panyarachun và lời đề nghị của Thái Lan đã được đồng ý với những bổ sung trong suốt cuộc họp chính thức cấp cao ASEAN (AEM) ở Kuala Lumpur. Vào tháng 01/1992, những thành viên của ASEAN đã kí Tuyên bố Singapore với nội dung trung tâm là sáng lập ra AFTA trong 15 năm. Đây là một chương trình bao hàm việc giảm thuế quan trong khu vực, thực hiện theo từng giai đoạn xuyên suốt đến năm 2008. Hạn cuối này đã được gia hạn liên tục và AFTA đã hoạt động trọn vẹn vào ngày 01/01/2003.
Trong suốt tiến trình vài năm, chương trình ban đầu của việc giảm thuế quan đã được mở rộng và tăng nhanh hơn và những hoạt động “ AFTA cộng” khác đã được khởi xướng. Điều này bao gồm tất cả những nỗ lực để gỡ bỏ những hàng rào phi thuế quan, sự hài hòa phong tục, giá trị và thủ tục và chất lượng sản phẩm được chứng nhận chung giữa các nước.
Với dân số trên 550 triệu, hiện nay những công ty có thể khai thác những cơ hội tạo ra bởi một thị trường đã hợp nhất với những khách hàng ngày càng giàu có.
5.2.1.2.Ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT)
Không giống EU, AFTA không áp dụng một thuế quan bên ngoài chung trên hàng hoá nhập khẩu. Mỗi thành viên ASEAN có thể đánh thuế quan trên những hàng hóa đi vào từ bên ngoài ASEAN dựa trên lộ trình quốc gia của nó. Tuy nhiên, những hàng hóa có nguồn góc từ trong ASEAN, những thành viên của ASEAN áp dụng một tỉ lệ thuế quan từ 0 đến 5% ( nhiều thành viên gia nhập sau như Campuchia, Lào, Myanma và Việt Nam, còn được gọi là những đất nước CMLV, được tăng thêm thời gian để thi hành đầy đủ tỉ lệ giảm thuế quan). Ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) là như vậy.
Những thành viên ASEAN có thể chọn lựa việc ngăn chặn những sản phẩm được áp dụng CEPT trong 3 trường hợp :(1)Những ngăn chặn tạm thời; (2). Những sản phẩm nông nghiệp nhạy cảm; (3). Những sự loại trừ chung. Những ngăn chặn tạm thời quy cho những sản phẩm mà những thuế quan sau cùng sẽ được giảm xuống 0 đến 5%, nhưng đang được bảo vệ tạm thời bằng một sự trì hoãn trong giảm thuế quan.
Những sản phẩm nông nghiệp nhạy cảm bao gồm những hàng hóa như gạo. Những thành viên của ASEAN cho đến năm 2010 phải giảm mức thuế quan xuống 0 đến 5%.
Những sự loại trừ chung nhằm vào những sản phẩm mà một thành viên ASEAN cho rằng là cần thiết để bảo vệ an ninh quốc gia, đạo đức công cộng, bảo vệ loài người, đời sống và sức khỏe của động vật hoặc thực vật, bảo vệ những bài báo nghệ thuật, tính chất lịch sử, hoặc giá trị khảo cổ học. Những thành viên của ASEAN đã đồng ý thông qua giá thuế quan là 0% cho hầu hết tất cả những sản phẩm nhập khẩu vào 2010 trong hiệp ước đã kí kết trước đây và 2015 cho những đất nước CMLV.
5.2.1.3.Quy định về nguồn gốc:
CEPT chỉ áp dụng những hàng hóa có nguồn gốc từ nội bộ ASEAN. Theo luật chung thì những khu vực ở trong ASEAN phải có ít nhất 40% giá trị sản phẩm FOB. Những phần thuộc ASEAN có thể tích lũy, nghĩa là, giá trị của những đầu vào từ những thành viên ASEAN khác nhau có thể được cộng dồn để thỏa mãn 40% theo yêu cầu. Công thức sau đây được áp dụng :
Giá vật liệu sống + giá lao động trực tiếp + giá tổng phí trực tiếp + lợi nhuận + giá vận tải trong nước x 100% giá trị FOB
Tuy nhiên, cho những sản phẩm nhất định, thì sẽ áp dụng những quy định đặc biệt :
Thay đổi Chương quy định đối với bột lúa mì;
Thay đổi thuế quan phụ với sản phẩm làm từ gỗ;
Thay đổi phân loại thuế quan cho sản phẩm nhôm và hợp kim.
Nhà xuất khẩu phải có được một tờ giấy chứng nhận “Mẫu D” từ chính phủ của quốc gia đó chứng nhận là sản phẩm thỏa mãn yêu cầu 40%. Mẫu D phải thể hiện sức mạnh hải quan của chính phủ nước nhập khẩu định phẩm chất cho tỉ lệ CEPT. Đôi khi những khó khăn xuất hiện đối với những bằng chứng ủng hộ yêu sách, cũng như những sức mạnh hải quan của các quốc gia ASEAN tốt như thế nào có thể thẩm tra sự đệ trình mẫu D. Những khó khăn này xuất hiện bởi vì những sức mạnh hải quan của mỗi quốc gia ASEAN làm sáng tỏ và thực hiện đầy đủ những yêu cầu mẫu D không có nhiều sự sắp xếp.
5.2.1.4.Cơ chế quản lý
AFTA được quản lý bởi cơ quan hải quan và thương mại ở mỗi quốc gia thành viên ASEAN. Ban thư kí ASEAN có quyền giám sát và bảo đảm mọi thứ làm đúng theo chừng mực của AFTA, nhưng không có quyền về luật pháp để bắt buộc. Điều này dẫn đến mâu thuẫn trong điều hành bởi những nhà cầm quyền quốc gia ASEAN. Hiến Chương ASEAN hỗ trợ cho ban thư kí ASEAN để chắc chắn mọi điều phù hợp đúng theo những chừng mực của AFTA.
Những nhà cầm quyền quốc gia của ASEAN thường bất đắc dĩ chia sẻ hoặc nhượng lại chủ quyền cho những nhà cầm quyền từ những thành viên khác của ASEAN ( mặc dù những bộ trưởng thương mại của ASEAN thông thường chỉ thực hiện những cuộc viếng thăm vượt ranh giới để quản lý việc kiểm tra trong những cuộc điều tra chống bán phá giá.). Không giống như EU hay NAFTA, những đội chung, với nhiệm vụ bảo đảm mọi việc đều làm đúng và điều tra những sai phạm, không được sử dụng rộng rãi lắm. Thay vào đó, những nhà cầm quyền ASEAN phải dựa trên bản xem xét và phân tích của những nhà cầm quyền khác để quyết định liệu những tiêu chuẩn AFTA như quy định về nguồn gốc có được làm theo không. Những sự bất đồng có thể xảy ra giữa những nhà cầm quyền. Một lần nữa, Ban thư kí ASEAN có thể trợ giúp như một trung gian nhưng không có sức mạnh luật pháp để giải quyết nó.
ASEAN đã cố gắng cải tiến sự kết hợp hải quan thông qua việc thực