Bà B là đại diện cho đại sứ quán Mỹ tại Việt Nam. Do tính chất công việc nên gia đình bà phải định cư ở Mỹ. Ngày 01/08/2009, bà phải về Việt Nam để làm việc trong thời gian một năm nên bà thuê một ngôi nhà hai tầng với tổng diện tích 50m2 trên phố Đào Tấn do ông A là chủ sở hữu. Hợp đồng thuê nhà của bà B với thời hạn 01 năm đã có công chứng và đăng ký. Nội dung của hợp đồng quy định những điều khoản cần thiết mà luật định và do thỏa thuận, trong đó có : “ Thời hạn thuê kể từ ngày 01/08/2009 đến ngày 31/07/2010, tiền thuê nhà hàng tháng là 7.000.000 đồng, đóng tiền thuê theo tháng và vào cuối tháng sau khi đã trừ đi tiền đặt cọc ”. Bà B có đặt cọc cho ông A tiền thuê 6 tháng là 42.000.000 đồng và được lập thành văn bản. Ngày 10/07/2010, bà B có việc đột xuất phải sang Mỹ ngay trong khi gia đình ông A lại đi nghỉ mát không có ở nhà nên bà B đã ủy quyền cho ông C là em trai bà B ở Việt Nam là người sẽ thanh toán số tiền thuê nhà của tháng thứ 12 cho ông A khi ông trở về. Bà B cũng đã liên lạc với ông A để thông báo cho ông sự việc này và được ông A đồng ý. Bà B giao cho ông C số tiền 7.000.000 đồng để ông C đưa cho ông A vào ngày 31/07/2010, ngoài ra không có thỏa thuận khác. Ông A trở về ngày 20/07/2010 nhưng đến ngày 01/08 vẫn không thấy ông C đến trả tiền. Ông A đã liên lạc với bà B để thông báo sự việc và yêu cầu bà B giải quyết.
4 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3311 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xây dựng tình huống thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ 3, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xây dựng tình huống
Bà B là đại diện cho đại sứ quán Mỹ tại Việt Nam. Do tính chất công việc nên gia đình bà phải định cư ở Mỹ. Ngày 01/08/2009, bà phải về Việt Nam để làm việc trong thời gian một năm nên bà thuê một ngôi nhà hai tầng với tổng diện tích 50m2 trên phố Đào Tấn do ông A là chủ sở hữu. Hợp đồng thuê nhà của bà B với thời hạn 01 năm đã có công chứng và đăng ký. Nội dung của hợp đồng quy định những điều khoản cần thiết mà luật định và do thỏa thuận, trong đó có : “…Thời hạn thuê kể từ ngày 01/08/2009 đến ngày 31/07/2010, tiền thuê nhà hàng tháng là 7.000.000 đồng, đóng tiền thuê theo tháng và vào cuối tháng sau khi đã trừ đi tiền đặt cọc… ”. Bà B có đặt cọc cho ông A tiền thuê 6 tháng là 42.000.000 đồng và được lập thành văn bản. Ngày 10/07/2010, bà B có việc đột xuất phải sang Mỹ ngay trong khi gia đình ông A lại đi nghỉ mát không có ở nhà nên bà B đã ủy quyền cho ông C là em trai bà B ở Việt Nam là người sẽ thanh toán số tiền thuê nhà của tháng thứ 12 cho ông A khi ông trở về. Bà B cũng đã liên lạc với ông A để thông báo cho ông sự việc này và được ông A đồng ý. Bà B giao cho ông C số tiền 7.000.000 đồng để ông C đưa cho ông A vào ngày 31/07/2010, ngoài ra không có thỏa thuận khác. Ông A trở về ngày 20/07/2010 nhưng đến ngày 01/08 vẫn không thấy ông C đến trả tiền. Ông A đã liên lạc với bà B để thông báo sự việc và yêu cầu bà B giải quyết.
Phân tích mối quan hệ nghĩa vụ của các chủ thể trong tình huống được xác định.
Tình huống trên là một quan hệ nghĩa vụ dân sự thỏa mãn điều kiện thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba. Trường hợp thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba được quy định tại Điều 293 BLDS. Các yếu tố của quan hệ:
Chủ thể của quan hệ nghĩa vụ là các bên tham gia vào một quan hệ nghĩa vụ và trong trường hợp này là ông A và bà B trong đó ông A là người có quyền và bà B là người có nghĩa vụ.
Khách thể của quan hệ là hành vi của chủ thể được thể hiện dưới dạng hành động giao nhà và nhận tiền thuê nhà.
Đối tượng của quan hệ nghĩa vụ là tài sản mà cụ thể là tiền thuê nhà.
Nội dung của quan hệ nghĩa vụ là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, cụ thể là:
Ông A có quyền yêu cầu bà B trả tiền thuê nhà, đồng thời ông A phải có nghĩa vụ giao nhà.
Bà B có nghĩa vụ nộp tiền thuê nhà và có quyền yêu cầu ông A giao nhà.
Trong tình huống trên, hợp đồng thuê nhà với thời hạn 01 năm của bà B với ông A là hợp pháp vì đã có công chứng và bà cũng đã đặt cọc để đảm bảo thực hiện hợp đồng. Như vây, giữa ông A và bà B đã phát sinh một quan hệ nghĩa vụ dân sự trong đó ông A là người có quyền và bà B là người có nghĩa vụ. Nếu không có sự kiện phát sinh thì quan hệ nghĩa vụ này sẽ chấm dứt khi bà B thanh toán hết số tiền thuê nhà vào cuối tháng thứ 12. Nhưng khi chưa thực hiện hết hợp đồng thì bà B do có việc đột xuất nên đã không thanh toán được số tiền thuê tháng thứ 12 nên bà đã ủy quyền cho ông C là em trai bà thanh toàn cho ông A. Việc thực hiện ủy quyền này là thông qua lời nói, có sự thỏa thuận giữa bà B và ông C và đã có sự đồng ý của ông A nên việc ủy quyền là hợp pháp. Ông C là người thứ ba tham gia vào quan hệ nghĩa vụ này, như vậy đây cũng là trường hợp thỏa thuận tay ba, trong đó sự thỏa thuận giữa người có nghĩa vụ với người thứ ba thực chất là hợp đồng ủy quyền nên không làm thay đổi về chủ thể của thực hiện nghĩa vụ. Ở đây ông C chỉ là người thực hiện thay nghĩa vụ mà không phải là người thế nghĩa vụ vì nghĩa vụ của bà B với ông A thực chất vẫn còn và chỉ thực hiện qua ông C. Ông A vẫn là người có quyền và bà B vẫn là người có nghĩa vụ, mối quan hệ nghĩa vụ vẫn tồn tại không phụ thuộc vào ông C, thực tế ông C chỉ là người thực hiện thay bà B.
Theo quy định tại Điều 293 BLDS : “ Khi được bên có quyền đồng ý, bên có nghĩa vụ có thể ủy quyền cho người thứ ba thay mình thực hiện nghĩa vụ dân sự nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm với bên có quyền, nếu người thứ ba không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự ”. Quy định này có nghĩa là khi bên có nghĩa vụ ủy quyền cho người thứ ba thực hiện nghĩa vụ thì người có nghĩa vụ vẫn phải chịu trách nhiệm với người có quyền trong trường hợp người thứ ba thực hiện không đúng. Ở tình huống trên, do đến hạn mà ông C vẫn không mang tiền đến trả ông A, tức ông C là người thứ ba đã không thực hiện nghĩa vụ dân sự thì bà B – người có nghĩa vụ vẫn phải chịu trách nhiệm trước ông A. Với tính chất quan hệ nghĩa vụ của ông A và bà B vẫn tồn tại nên bà B sẽ phải tìm cách giải quyết số tiền thuê nhà cho ông A. Đối với ông C – người thứ ba không thực hiện nghĩa vụ sẽ phải chịu trách nhiệm trước bà B vì khi thỏa thuận việc ủy quyền, chỉ giao tiền mà không có thỏa thuận khác như tiền thù lao, phí đi lại…nên việc ông C cầm số tiền của bà B là không hợp pháp. Bà B trước hết phải thanh toán cho ông A số tiền là 7.000.000 đồng và nếu ông C không trả thì bà có quyền kiện đòi ông C phải trả số tiền cho mình.
Kết luận
Như vậy, với việc xây dựng tình huống trên ta thấy việc thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba không làm chấm dứt quan hệ nghĩa vụ của người có quyền và người có nghĩa vụ trước đó mà người thứ ba chỉ là người được ủy quyền thực hiện nghĩa vụ. Nếu người thứ ba không thực hiện hoặc thực hiện không đúng thì người có nghĩa vụ vẫn phải chịu trách nhiệm với người có quyền và người thứ ba phải chịu trách nhiệm với người có nghĩa vụ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật dân sự Việt Nam 2, Nxb.CAND, Hà Nội, 2009.
2. Bộ luật Dân sự 2005.
3.
4.