Xung đột pháp luật và quy phạm xung đột
1. Khái niệm về xung đột pháp luật và quy phạm xung đột
Xung đột pháp luật xảy ra khi hai hay nhiều hệ thống pháp luật đồng thơi đều có thể áp dụng để điều chỉnh một quan hệ dân sự(theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài
Quy phạm xung đột là quy phạm ấn định luật pháp nước nào cần phải áp dụng để giải quyết quan hệ pháp luật dân sự có yếu tố nước ngoài trong một tình huống thực tế.
QPXĐ sẽ không trực tiếp giải quyết quan hệ pháp luật, cụ thể là sẽ không quy định những quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các chủ thể trong những tình huống cụ thể xác định mà chỉ dẫn chiếu đến luật thực chất của các quốc gia và ở đó có quy định thực tế giải quyết quyền và phân định nghĩa vụ của các bên trong quan hệ. QPXĐ mang tính chất dẫn chiếu
Hiện nay ở Việt nam cũng như hầu hết các quốc gia khác trên thế giới. có hai phương pháp để giải quyết vấn đề xung đột pháp luật trong Tư pháp quốc tế là phương pháp xung đột và phương pháp thực chất. trong đó, phương pháp xung đột được xem là phương pháp đặc thù của Tư pháp quốc tế với việ sử dụng các QPXĐ để giải quyết vấn đề chọn luật áp dụng để điều chỉnh quan hệ pháp luật dân sự có yếu tố nước ngoài phát sinh.
2. phân loai
3. cấu trúc của quy phạm xung đột
II
1. quy phạm xung đột trong tư pháp quốc tế việt nam trước khi bộ luật dân sự 2005 ra đời
1.1. Giai đoạn trước năm 1986
Trước khi Đảng ta đề ra đường lỗi đổi mới 86, quan hệ hợp tác về mọi mặt kinh tế, chính trị, khoa học, kỹ thuật và văn hóa của nước ta với các quốc gia khác còn rất hạn hẹp. do hoàn cảnh chiến tranh kép dài và chưa có sự đòi hỏi thúc bách củ thuecj tieenc điều chỉnh về mặt pháp lý các mối quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, các cơ quan có thẩm quyền chưa có thời gian và điều kiện nghiên cứu và xây dựng các loại QPXĐ cụ thẻ để hướng dẫn điều chỉnh các quan hệ xã hội này mà chỉ dừng ở việc quy định chugn chung lf người ngước ngoài ở việt nam phải tuân thủ theeo pháp luật Việt Nam. Ví dụ Thông tư số 11/TATC ngày 12/7/1974 của Tòa án nhân dân tối cao về thủ tục giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài quy định thẩm quyền của Tòa án Việt Nam trong việc giải quyết ly hôn và khẳng định rằng khi giải quyết vấn đề này thì tòa án Việt Nam phải áp dụng pháp luật Việt Nam. Hay tại quyết định 122/ CP ngày 25/4/1977 của Hội đồng Chính phủ về chính sách đối với người nước ngoài cư trú và làm ăn sinh sống ở Việt Nam.
11 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 12944 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xung đột pháp luật và quy phạm xung đột, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Câu 3: Chứng minh quy phạm xung đột là loại quy phạm được sử dụng rất phổ biến để điều chỉnh các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài trong tư pháp quốc tế việt nam.
Nền tư pháp quốc tế việt nam là bộ luật dân sự 2005.
Nêu các nhóm ra và chỉ rõ QPXĐ điều chỉnh nhóm đó bao nhieu phần và quy phạm thực chất điều chỉnh nhóm đó bao nhiêu phần.
Hệ thống quy phạm xung đột điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài trong bộ luạt dân sự năm 2005 của Việt Nam
Khóa luận tốt nghiệp, lê thị bích thủy, hà nội 2010
I. Xung đột pháp luật và quy phạm xung đột
1. Khái niệm về xung đột pháp luật và quy phạm xung đột
Xung đột pháp luật xảy ra khi hai hay nhiều hệ thống pháp luật đồng thơi đều có thể áp dụng để điều chỉnh một quan hệ dân sự(theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài
Quy phạm xung đột là quy phạm ấn định luật pháp nước nào cần phải áp dụng để giải quyết quan hệ pháp luật dân sự có yếu tố nước ngoài trong một tình huống thực tế.
QPXĐ sẽ không trực tiếp giải quyết quan hệ pháp luật, cụ thể là sẽ không quy định những quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các chủ thể trong những tình huống cụ thể xác định mà chỉ dẫn chiếu đến luật thực chất của các quốc gia và ở đó có quy định thực tế giải quyết quyền và phân định nghĩa vụ của các bên trong quan hệ. QPXĐ mang tính chất dẫn chiếu
Hiện nay ở Việt nam cũng như hầu hết các quốc gia khác trên thế giới. có hai phương pháp để giải quyết vấn đề xung đột pháp luật trong Tư pháp quốc tế là phương pháp xung đột và phương pháp thực chất. trong đó, phương pháp xung đột được xem là phương pháp đặc thù của Tư pháp quốc tế với việ sử dụng các QPXĐ để giải quyết vấn đề chọn luật áp dụng để điều chỉnh quan hệ pháp luật dân sự có yếu tố nước ngoài phát sinh.
2. phân loai
3. cấu trúc của quy phạm xung đột
II
quy phạm xung đột trong tư pháp quốc tế việt nam trước khi bộ luật dân sự 2005 ra đời
1.1. Giai đoạn trước năm 1986
Trước khi Đảng ta đề ra đường lỗi đổi mới 86, quan hệ hợp tác về mọi mặt kinh tế, chính trị, khoa học, kỹ thuật và văn hóa của nước ta với các quốc gia khác còn rất hạn hẹp. do hoàn cảnh chiến tranh kép dài và chưa có sự đòi hỏi thúc bách củ thuecj tieenc điều chỉnh về mặt pháp lý các mối quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, các cơ quan có thẩm quyền chưa có thời gian và điều kiện nghiên cứu và xây dựng các loại QPXĐ cụ thẻ để hướng dẫn điều chỉnh các quan hệ xã hội này mà chỉ dừng ở việc quy định chugn chung lf người ngước ngoài ở việt nam phải tuân thủ theeo pháp luật Việt Nam. Ví dụ Thông tư số 11/TATC ngày 12/7/1974 của Tòa án nhân dân tối cao về thủ tục giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài quy định thẩm quyền của Tòa án Việt Nam trong việc giải quyết ly hôn và khẳng định rằng khi giải quyết vấn đề này thì tòa án Việt Nam phải áp dụng pháp luật Việt Nam. Hay tại quyết định 122/ CP ngày 25/4/1977 của Hội đồng Chính phủ về chính sách đối với người nước ngoài cư trú và làm ăn sinh sống ở Việt Nam.
Nhìn chung, pháp luật Việt nam kể từ khi được thành lập đến trước năm 1986 chỉ có các quy định về việc áp dụng pháp luật Việt Nam để điều chỉnh các mối quan hẹ dân sự có sự tham gia của các cá nhân, pháp nhân nước ngoài; chưa có quy định trường hợp áp dụng pháp luật Việ Nam để điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nhưng không có người nước ngoài tham gia. Và cũng chưa có quy định hướng dẫn chọn luật nước ngoài để áp dụng trong những trường hợp nhất định.
1.2. Giai đoạn từ sau 1986 đến trước năm 1995
Cùng với cuộc đổi mới kinh tế được đề ra tại Đại hội Đảng VI và chủ trương tăng cường quản lý Nhà nước bằng pháp luật, Tư pháp quốc tế Việt Nam được quan tâm phát triển hơn trước. Nhà nước đã ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật có chứa đựng các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Bên cạnh những văn bản trong nước là những điều ước quốc tế song phương và đa phương mà Nhà nước Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia ngày càng nhiều trong các lĩnh vực hàng hải, hàng không quốc tế, đầu tư nước ngoài, bảo hộ quyến sở hữu công nghiệp, tương trợ tư pháp… Một bước phát triển đáng kể của Tư pháp quốc tế Việt Nam trong giai đoạn này là một số văn bản khẳng định cho phép áp dụng pháp luật nước ngoài đối với những trường hợp nhất định và đã xây dựng được một số QPXĐ hai chiều – quy phạm hướng dẫn chọn luật nói chung, mà không có sự phân biệt pháp luật nước mình hay pháp luật nước ngoài. Việc áp dụng pháp luật của quốc gia nào tùy thuộc vào loại hệ thuộc được ghi trong QPXĐ như pháp luật nơi có tài sản, pháp luật của nước mà đương sự mang quốc tịch, pháp luật nơi thực hiện hành vi…
Tuy nhiên hệ thống QPXĐ thời kỳ này vẫn còn rất nhiều hạn chế. Các quy phạm vẫn nằm rải rác trong văn bản đơn hành, rời rạc. Phần lớn các QPXĐ còn mang tính phiến diện, mới chỉ hạn chế yếu tố về chủ thể mà chưa bao quát đầy đủ ba yếu tố nước ngoài có thể có trong quan hệ dân sự…
1.3. Giai đoạn từ năm 1995 đến trước năm 2005
Với việc ban hành Bộ luật Dân sự trong đó có Phần thứ bảy “ Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài”, làn đầu tiên trong hệ thống pháp luật Việt Nam có một văn bản pháp luật chứa đựng một tập hợp những QPXĐ tương đối quy mô và có hệ thống. trước Bộ luật Dân sự, mỗi văn bản pháp luật mới chỉ quy định một vài QPXĐ để điều chỉnh một số nhất định các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Các quy định trong Phần thứ bảy thì không phải là những quy định riêng lẻ điều chỉnh một ssos quan hệ dân sự có yếu tố ngước ngoài cụ thể, mà đó là một tập hợp, một chỉnh thể gồm 13 điều, chứa đựng những quy định thống nhất với nhau, có những quy định chung và những quy định cụ thể.
Và việc xay dựng các QPXĐ điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài trong bộ luật dân sự là nền tảng cho sự ra đời các quy phạm xung đột trong các văn bản pháp luật chuyên ngành. Vì vậy có thể khẳng dịnh rằng việc ban hành BLDS1995, trong đó có Phần thứ 7 về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài , là một bước phát triển quan trọng của Tư pháp quốc tế Việt Nam, đồng thời cũng đánh dấu sự trưởng thành nhất định của khoa học pháp lý nước ta về Tư pháp quốc tế.
2,Vai trò của phần thứ 7 trong Bộ luật dân sự 2005 luat dan su la cai goc dieu chih ca moi quan he phat sinh tron doi song xa hoi, voi viec gan nhu tat ca cac dieu luat lien quan den quan he dan su co yeu to nuoc ngoai trong bo luat dan su deu la cac quy pham xung dot da khang dinh duoc vai tro va vi the het suc quan trong cua qpxd trong doi song tu phap quoc te viet nam
Trong hơn 20 điều luật của Phần thứ 7 tỏng Bộ luật dân sự, có 3 điều luật ( từ Điều 758 đến Điều 760) là những quy định chung và các điều luật còn lại là những quy định cụ thể về các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Nếu như Tư pháp quốc tế bao gồm hai loại quy phạm để điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quy phạm thực chất và QPXĐ thì trong phần thứ 7 của BLDS 2005 chủ yếu chỉ có các loại QPXĐ. Vì thế, tìm hiểu các QPXĐ trong Phần thứ 7 của BLDS 2005 về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thực chất là chúng ta sẽ đi phân tích tìm hiểu nội dung của hầu hết các điều luật trong phần này.
3. các quy phạm xung đột điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài trong Bộ luật Dân sự năm 2005.
3.1 các quy phạm xung đột về năng lực chủ thể
* năng lực pháp luật của cá nhân là người nước ngoài
Trong quan hệ dân sự yếu tố chủ thể luôn là yếu tố hàng đầu cần được đề cập đến và được điều chỉnh trong pháp luật, vì chỉ có các chủ thể mới tạo ra quan hệ dân sự. Và trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thì người nước ngoài là một trong những chủ thể cơ bản. Khi xét đến chủ thẻ là người nước ngoài thì trước tiên cần xét đến yếu tố năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự vì chính hai yếu tố này là không thể thiếu và không thể tách dời nhau, tạo thành năng lực chủ thể - khả năng mà nhà nước cho phép cá nhân, tổ chức nào đó tham gia vào quan hệ pháp luật khi đã thỏa mãn những điều kiện nhất định được pháp luật quy định.
Quy định tại điều 761BLDS2005 đã bổ xung thêm Khoản 1 so với quy định năng lực pháp luật của người nước ngoài của Bộ luật Dân sự năm 1995, khẳng định rằng năng lực pháp luật của cá nhân người nước ngoài sẽ được xác đinh theo pháp luật của nước mà nguwoif đó mang quốc tinchj, hay nói cách khác là nước mà nguwoif đó là coogn dân. Nắng lực pháp luật xuát hiện trên cơ sỏ pháp luật của mõi quốc gia, bì thế công dân của mỗi quóc gia thì có năng lực pahps luật khác nhau và đượ hình thafh trên những điều kiện khác nhau. Việc quy định năng lực pháp luật của mỗi cá nhân được xác dịnh theo pháp luật quốc gia mà người đó mang quốc tịch là hoàn toàn hơp lý và khoa học. quy định như vậy còn cho thấy rõ quan điểm của Việt nam về vấn đề này, đó là tôn trọng pháp luật của nước mà người nước ngoài đã lựa chọn mang quốc tịch.
Ngoài ra, đối với người nước ngoài, pháp luật Việt nam còn quy định “người nước ngoài có năng lực pháp luật dân sự tại Việt nam như công dân việ tnam, trừ trường hợp pháp luật cộng hòa xã họi chủ nghĩa việt nam có quy định khác, quy định này của Khoản 2 Điều 761. Bằng quy định này, BLDS quy đih nguyên tắc đãi ngội nhưu công dân nước mình cho nguwoif nước ngoài tại việt nam đới với khả năng có quyền và nghãi vụ dân sự. tuy nhiên cung như ở tất cả các quốc gia khác, khong phai bất kỳ lĩnh vực nào, nguwofi nước ngoài cung ccos đầy đủ quyền và nghĩa vụ dân sự như đói vơi cong dan Việt nam điều này có thể xuất phat từ lý do bảo vẹ lợi ích củ quyền và an ninh quốc gia, cũng có thể xuất phát từ nguyeent tắc có đi có lại trong tư pháp quốc tế. Một trong những biểu hiện rõ nét của sự hạn chế này đới với nguwoif nước người là trong vấn đề cư trú đi lại trên lãnh thổ việt nam. Theo quy định tại pháp lệnh về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của nguwofi nước gnoaif tại việt nam thì người nước ngoài không được cư trú tai khu vực cấm guwoif nước ngoaifdid lại, trừ truowgnf howpjc so sự cho phép của cơ quan nahf nước có thảm quyền của việt nam quản lý khu vực cấm đó ( Điều 11, 12 của Pháp lệnh)
* năng lực hành vi dân sự của cá nhân là người nước ngoài
Điều 762 quy định nang lực hành vi dân sự của cá nhân là người nước ngoài
Cũng như đối với năng lực pháp luật, năng lực hành vi của cá nhân người nước ngoài được pháp luật Việt Nam xác định bằng việc áp dụng nguyên tắc Luật quốc tịch… Tuy nhiên, một điểm khác biệt có thể nhận thấy giữa quy định về năng lực pháp luật và năng lực hành vi của cá nhân là người nước ngoài đó là chế độ đãi ngooijc ông dân không còn được áp dụng để xác định năng lực hành vi của ca nhân người nước ngoài. Sở dĩ có sự khác biệt này có thể hiểu là do xuất phát tf sự khác biệt giữa nagn lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Nếu như năng lực pháp luật là “ khả năng có quyền hoặc có nghĩa vụ pháp lý mà nhà nước quy dịnh cho cá nhân” thì năng lực hành vi là “ khả năng mà nhà nước thừa nhận cho cá nhân bằng những hành vi của chính minhfcos thể ác lập và thwucj hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý”. Năng lực hành vi của một người được hih thành và phát triển gắng liền với môi trường kinh tế- xã hộ, hoàn cảnh lịch sử, phong tục tập quán của mỗi dân tộc , mỗi quốc gia. Vi thế sẽ là dễ heieur khi quy định các hệ thuộc như luật quốc tịch, luật nơi cư trú được dùng đẻ xác dịnh năng lực hành vi của người nước ngoài.
Tuy nhiên đối với việc xác dịnh năng lực hanh vi của cá nhân là người nước ngoài, pháp luật Việt Nam vẫn ghi nhận trường hợp ngoại lệ không áp dụng nguyên tắc Luật quốc tịch. Có thể thấy ngay Khoản 2 của Điều luật chính là một sự ngoại lệ đầu tiên của quy định tại Khoản 1. trong trường hợp nguwoif nước ngoài xác laaoj , thực hiện các giao dịch dân sự trên lãnh thổ việt nam thì năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài đó sẽ được xác định theo pháp luật Việt Nam. Quy định này sẽ thuận tiện cho các giao dịch dân sự mà người nươc ngoai xác lập thực hiện ở việt nam.
Liên quan đến vấn đề năng lực hành vi dan sự của nguwoif nước ngoài, bộ luật dân sự 2005 đồng thời đưa ra quy định về việc xác định nguwoif nước gnoaif không có, bị mất hoặc bị hạn chế nawg lwuch hanhaf iv dân sự; bi át tích hoặc chết. Điều 763 BLDS đưa ra các quy tắc xác định người nước ngoài không có, bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dan sự.
Đây là những QPXĐ hoàn toàn mới của BLDS 2005 so với BLDS 1995. Những điều luật này có bản đã giải quyết được các vấn đề cụ thể đã, đang và sẽ phát sinh trong thực tiễn tư pahps quốc tế. trên thwucj tế việc xác đinh người không cso năng lực hành vi dân sự bị mất năng lực hành vi dan sự hoặc bị hạn chế năng lwucj hành vi san sự cuãng như việ xác định một người mất tích hoặc đã chết là nhuwgnx việc rất cần thiết và cũng thườn gặp trong quan hệ dân sự nói chung và quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nói riêng.
Nguyên tắc phổ biến được nhiều nước áp dụng để xử lý vấn đề này là nguyên tắc trực tiếp liên quan đến nahan thân của người đó. Bên cạnh đó, pháp luật Việt Nam cũng đưa ra một quy định khá quan trọng là việc xác định các vấn đề nói trên đối vơi người nước ngoài cư trú tại Việt Nam thì phải tuân theo pháp luật Việt Nam. Đây có thể xem là một bước tiến quan trọng trong lý luậ và thực tiễn Tư pháp quốc tế Việt Nam.
* Năng lực pháp lauatj dân sự của pháp nhân nước ngoài
Bên cạnh cá nhân, pháp nhan nước ngoài cũng là một chủ thể quan trọng trong tư pháp quốc tế. Liên quan đến pháp nhân trong tư pháp quốc tế, có hai vấn đề cần quan tâm là quốc tịch và quy chế nhân thân của pháp nhân. Quốc tịch của pháp nhân xác định quy chế nhan thân của pháp nhan đó, ngược lại, quy chế nhân thân của pháp hân được hình thành thể hiện sự rang buộc pháp lý giữa pháp nhân đó với một quốc gia nhất định, chính là quốc gia pháp nhan mang quốc tịch.
Pháp luật việt nam không có quy định về xác dịnh quốc tịch cho pháp nhân mà chỉ quy định việc xác định năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước ngoài tại điều 765 BLDS như sau:
Quy phạm trên quy định rằng khi xem xét vấn đề năng lực pháp luật của pháp nhân nước ngoài phải căn cứ vào pháp luật của nước nơi có pháp nhân đó thahf lập. Như vaayh có thể nói rằng BLDS đã gián tiếp thừa nhận nguyên tắc xác định quốc tịch của pháp nhân tùy thuộc vào nơi thah lâp của pháp nhân đó, tức là sử dụng hệ thuộc Luật quốc tịch của pháp nhân, không phụ thuộc vào nơi đặt trụ sở chính hay nơi kinh doanh chính cảu pháp nhân.
Với tinh thần đó, các xí nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài và cả các xí nghiệp 100% vốn nước ngoài nhưng được thành lập theo Luật Đầu tư 2005 đều là những pháp nhân mang quốc tịch Việt Nam. Ngược lại, tất cả những pháp nhân khong mang quốc tịch Việt Nam đều được coi là pháp nhân nước ngoài.
Do các quy định của pháp luật các nước về nguyên tắc xác định quốc tịch của pháp nhân không giống nhau nên không thể tránh khỏi trường hợp một pháp nhan được hai hay nhiều nước đồng thời coi là pháp nhân mang quốc tịch nước mình trên thực tê. Các quốc gia đã tiến hành ký kế với nhau các điều ước quốc tế nhằm thống nhất nguyên tắc xác định quóc tich pháp nhân cũng như thừa nhận tư cách pháp nhân của các tổ chức được thành lập và hoạt động theo pháp lauatj của nước hữu quan…
Khi hoat động với tư cách phâp nhan ơ một quốc gia nào đó, ngoài việc tuâ theo quy chế nahan thân xác dịnh địa vị pháp lý do phap luật của nước mà nó mang quốc tịch quy đinh thì nó còn phải tuân theo pháp luạt của nước sở tại. Khoản 2 Điều 765 BLDS quy định ro đối với pháp nhân nước ngoài xác lâp thực hiện các giao dịch dân sự tại Việt Nam thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân đó được xác định theo pháp luật Việt Nam, cụ thể là quy định của BLDS Việt Nam, Luạt thương mại, Luật doanh nghiệp…. quy định này của BLDS là hoàn toàn hợp lý, một mặt sẽ tạo điều kiện thuận lợi, dễ dàng cho các pháp nhân nước ngoài trong việc xác lập, thức hiện các giao dịch dân sự tại Việt Nam; mặt khác nhằm đảm bảo tính hiệu lực về lãnh thổ của pháp luật Việt Nam, đảm bảo được an ninh, trật tự xã hội trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia….
Ngoài ra theo quy định của pháp luật Việt nam thì nhà nước Việt Nam khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn vào Việt Nam phù hợp với pháp luật Việt Nam, phap sluaatj nước ngoài và thông lệ quốc tế. Bên cạnh đó, trong quá trình đầu tư vào Việt Nam,, nhà nước cũng bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp đối với vốn tài sản và các quyền lợi khác cho pháp nhân nước ngoài.
3.2. quy phạm xung đột về quyền sở hữu tài sản
Quá trình phát riển của xã hôi loài nguwoif đã và đang tồn tại nhiều chế độ sở hữu khác nhau. Dựa trên những chế độ sở hữu khác nhau, chế định về quyền sơ hữu trong mỗi hệ thống pháp luật cũng sẽ khác nhau. Việc hình thah quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài do đó tất yếu sẽ làm phát sinh xung đột pháp luật về quyền sở hữu. trong quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài, tư pháp quố tế của hầu hết các nước trên thế giới đều thống nhất sử dụng hệ thuộc Luật nơi có tài sản để giải quyết xung đột. luật nơi có tài sản ko những quy định nội dung của quyền sở hữu mà ocnf ấn định cả các dideuf kiện phát sinh, chấm dứt và dịch chuyển quyền sở hữu. BLDS của Việt Nam cũng dựa trê nguyên tắc chung phổ biến này để giải quyết xung đột pháp luật về quyền sơ hữu (điều 766)
Như vậy không phụ thuộc vào đối tượng của quyền sở hữu la động sản hay bất đọng sản , quyền sở hữu và các quyền tài sản sẽ do luật nơi có tài sản điều chỉnh. Tuy nhiên, có thể thấy ngay trong Khoản 1 Điều 766 có quy định trường hợp ngoại lệ của nguyên tắc này. Đó chính là Khoản 2 vê quyền sở hữu đối với động sản trên đường vận chuyển và Khoản 4 về quyền sở hữu đối với tàu bay dân dụng và tàu biển tại Việt Nam.
Trường hợp ngoại lệ thứ nhất: theo quy định của BLDS thì quyền sở hữu “đối với động sản đang trên đường vận chuyển được xác định theo pháp luật của nước nơi động sản được chuyển đến, nếu không có thỏa thuận khác”. Như vậy, pháp luật Việt Nam áp dụng hệ thuộc Luật của nước do các bên thỏa thuận lựa chọn, và khi không có thảo thuận thì sẽ áp dụng hệ thuộc Luật nơi có tài sản được chuyển đến. Do Việt Nam là nước có tỉ lệ nhập khẩu cao hơn tỉ lệ xuất khẩu, vì thế nếu quy định lựa chọn Luật nước người bán đề áp dụng sẽ gây nhiều bất lợi cho cá nhân, cơ quan tổ chức trong nước….
Trường hợp ngoại lệ thứu hai: trong việc xác định quyền sở hữu đối với tàu bay dân dụng và tàu bienr tại Việt Nam thì nguyên tắc Luật nơi có tài sản dường như cung không được áp dụng mà phải tuân theo pháp luật về hàng không dân dụng và pháp luật về hàng hải của CHXHCN Việt Nam.
Khoản 1 Điều 4 Luật hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006 quy định: “pháp luật của quốc gia đăng ký quốc tich tàu bay được áp dụng đối với quan hệ xác hội phát sinh trong tàu bay và áp dụng đề xác định các quyên đối với tàu bay”
Điều 5 của Bộ luật hàng hải Việt Nam quy định: “
Như vậy, đối vơi các quan hệ sở hữu và các quan hệ tài sản trong lĩnh vực hàng không dân dụng và hàng hải quốc tế, hệ thuộc Luật của nước nơi có tài sản khong được áp dụng mà thay vào đó là hệ thuộc Luật quốc kỳ hoặc luật nơi đăng ký…
* vấn đề xung đột về định danh tài sản
Hai khái niệm “động sản” và “bất động sản” không phải la đã được hiểu một cách thống nhất trong hệ thống pháp luật hiện nay trên thế giới. Từ đây phát sinh xung đọt pháp luật trong vấn đề định danh tài sản. Việc xác định tài sản là động săn hay bất động sản là tiền đề cho việc giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu có yeus tố nước ngoài. Pháp luật của đa số các nước trong các đạo luật và các điều ước quốc tế thường ghi nhận Luật nơi có tài sản là hệ thuộc để giải quyết xung đột về định danh tài sản. BLDS Việt Nam cũng quy định “việc phân biệt tài sản là động sản hoặc bất động sản được xác định theo pháp lauatj của nước nơi có tài sải”
Tóm lại, trong BLDS 2005, hệ thuộc Luật nơi có tài sản là hệ thuộc chủ yếu được áp dụng để giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu, điều này hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên đây không phải là hệ thuộc duy nhất để giải quyết vấn đề này.
3.3. câc quy phạm xung đột về thừa kế
Điều 767 quy định về thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài và Điều 768 quy định về thừa kế theo di chúc của BLDS 2005 là các QPXĐ về thừa kế có yếu tố nước ngoài.
* về thừa kế theo pháp luật
BLDS quy định lự