Chuyên đề Quản lý và tái sữ dụng chất hữu cơ trong nhà máy chế biến cà phê

Công nghiệp chế biến cà phê chiếm vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Cùng với sự phát triển của các ngành công nghiệp và dịch vụ khác, nhu cầu về các sản phẩm cà phê ngày càng tăng. Cà phê dần trở thành mặt hàng nông sản chế biến xuất khẩu quan trọng của Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu những năm gần đây dao động từ 400 đến 600 triệu USD/năm, tạo ra từ 6% đến 10% thu nhập từ xuất khẩu quốc gia. Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu cà phê đứng thứ hai trên thế giới sau Brazil. Chính vì vậy, ngành công nghiệp này không thể thiếu được trong đời sống của người dân.

doc23 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 1989 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Quản lý và tái sữ dụng chất hữu cơ trong nhà máy chế biến cà phê, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Chương 1: QUÁ TRÌNH VÀ HIỆN TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA NHÀ MÁY SẢN XUẤT CÀ PHÊ Bảng 1: Sản lượng cà phê qua các năm Công nghiệp chế biến cà phê chiếm vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Cùng với sự phát triển của các ngành công nghiệp và dịch vụ khác, nhu cầu về các sản phẩm cà phê ngày càng tăng. Cà phê dần trở thành mặt hàng nông sản chế biến xuất khẩu quan trọng của Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu những năm gần đây dao động từ 400 đến 600 triệu USD/năm, tạo ra từ 6% đến 10% thu nhập từ xuất khẩu quốc gia. Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu cà phê đứng thứ hai trên thế giới sau Brazil. Chính vì vậy, ngành công nghiệp này không thể thiếu được trong đời sống của người dân. Có thể nói, cà phê tạo ra nguồn lợi hết sức to lớn về kinh tế: các sản phẩm ngày càng đa dạng để phục vụ trong nước, xuất khẩu khối lượng lớn nhân cà phê để thu nhiều ngoại tệ cho đất nước và tạo ra công ăn việc làm cho người lao động. Tuy nhiên trong quá trình sản xuất cà phê cũng có thể làm tác động đến môi trường thông qua việc thải bỏ các chất thải (vỏ, nước thải, bụi…) trong suốt quá trình hoạt động dẫn đến việc ô nhiễm không khí, đất, nước. 1.1. Phương pháp chế biến cà phê Hai phương pháp được dùng phổ biến trong sản xuất là chế biến ướt và chế biến khô. Phương pháp khô (tự nhiên) Phương pháp ướt (phương pháp rửa) 1.1.1. Phương pháp khô: Phương pháp khô là phương pháp cổ điển. Trái cà phê được phơi khô dưới ánh nắng mặt trời, chúng sẽ được cào vài lần trong một ngày và được che kín để tránh sương vào ban đêm; Sau một vài tuần, trái sẽ khô và sẵn sàng để bóc vỏ. phương pháp này cũng được sử dụng khá rộng rãi tại các hộ dân trồng cà phê. Phương pháp chế biến khô hiện là phương pháp phổ biến nhất hiện nay nhờ có nhiều ưu điểm là đơn giản, có khả năng tạo ra sản phẩm có chất lượng cao nếu nguyên liệu đầu vào đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật và trong điều kiện thời tiết thuận lợi. Nhưng phương pháp chế biến này còn bộc lộ nhiều nhược điểm là phụ thuộc quá nhiều vào điều kiện thời tiết, tốn nhiều công phơi đảo, thời gian chế biến kéo dài trên 15 ngày và đòi hỏi diện tích sân phơi lớn. 1.1.2. Phương pháp ướt: Vỏ sẽ được lấy ra bằng máy để lại một chất dính như keo bao quanh hạt. Ở thời điểm này, sự tách rời bằng máy móc có thể làm tổn thương hạt cà phê. Sau đó hạt cà phê sẽ được bỏ vào những cái chum ủ men lớn để cho tan đi những vỏ cà phê còn dính lại trên hạt. Sau cùng, hạt cà phê sẽ được rửa cho hết sạch vỏ và được phơi khô dưới ánh nắng mặt trời hoặc là máy sấy. Phương pháp chế biến ướt được xem là phương pháp chế biến tốt nhất, hiện đại nhất hiện nay nhờ tiết kiệm được diện tích sân phơi, rút ngắn thời gian phơi sấy, khi sử dụng phương pháp chế biến này, dây chuyền chế biến hiện đại cho phép loại các quả xanh, quả khô và các tạp phẩm khác ra khỏi nguyên liệu chế biến nên sản phẩm có chất lượng cao và đồng đều hơn. Tuy nhiên, phương pháp chế biến này đòi hỏi trang thiết bị đắt tiền, tốn nhiều điện, nước, tốn chi phí đào tạo nhân lực để vận hành và tốn chi phí để xử lý nguồn nước thải trong quá trình chế biến nếu không rất dễ gây ô nhiễm đến môi trường. 1.1.3. Phương pháp nửa ướt Ngoài ra còn có phương pháp chế biến nửa ướt cũng được người trồng cà phê sử dụng khá phổ biến nếu trời khô ráo và có nắng. Chế biến nửa ướt là xát dập quả cà phê gồm cả quả chín lẫn quả xanh mà không cần dùng nước, sau đó đem phơi khô. Phương pháp chế biến này có ưu điểm là rút ngắn thời gian phơi từ 40% - 60% so với phương pháp chế biến khô, tuy nhiên mặt hạn chế của phương pháp chế biến này là sản phẩm khó đạt chất lượng cao, dễ bị nấm mốc, tỷ lệ hạt nhân bị đen nhiều nếu gặp thời tiết không thuận lợi. 1.2. Quy trình sản xuất cà phê Cà phê quả tươi Cân điện tử Xi phông Hồ tiếp nhận Máy xát vỏ Máy tách vỏ Lồng phân loại Máy đánh nhớt Phễu chứa cà phê thóc Xe vận chuyển Sân phơi Cà phê kém chất lượng Cà phê xanh tách lần 2 Phễu chứa Xát khô Cà phê nhân loại 1 Xe vận chuyển Cà phê loại 2 Vỏ cà phê Phễu chứa Xe vận chuyển Khu chứa vỏ Tách cà phê xanh lần 1 Sân phơi Hình 1.2: Dây chuyền công nghệ chế biến cà phê tại công ty cà phê Eapok Cà phê quả tươi với tỷ lệ chín 80 – 85% sẽ khi được thu hái ở nông trường cà phê, sau đó được chất đầy lên xe vận chuyển chở về xưởng chế biến. Đầu tiên, xe vận chuyển đi qua trạm cân với trọng tải 5 tấn/cân để xác định khối lượng xe đầy tải, sau khi đổ cà phê vào hồ tiếp nhận, xe quay trở ra, đi qua trạm cân thứ 2 cũng với trọng tải 5 tấn/cân để xác định khối lượng xe trống. Từ đó nhân viên trong nhà điều hành trạm cân có thể xác định được khối lượng cà phê mỗi xe vận chuyển đưa vào xưởng chế biến. Tại hồ tiếp nhận, cà phê được chứa cùng với nước, được dẫn vào hố thu của bơm hút qua 1 rãnh sâu 700 mm, rộng 500 mm, sau đó được bơm lên xi phông bằng bơm hút với lưu lượng 20 tấn/h qua ống nhôm 150 mm. Xi phông có kích thước 2,5 m x 5 m x 1 m, làm nhiệm vụ tiếp nhận, rửa cà phê tươi, loại bỏ tạp chất (rác, dây cột, lá cây…) bằng thanh gạt lắp 2 bên thành bể và cung cấp cà phê cho các máy xay qua 4 ống nhôm 120 mm. Trên xi phông có ống 150 mm dẫn nước từ bể xi phông tuần hoàn về hồ tiếp nhận. Cà phê từ Xi phông được dẫn vào 4 máy xát vỏ công suất 5 tấn/h/máy, qua 4 máy bóc vỏ với cùng công suất. Tại đây vỏ và hạt cà phê được tách riêng. Vỏ cà phê theo ống dẫn bằng vít tải, dẫn lên phễu róc nước, vào xe thu gom chở đến khu vực đổ bỏ. Hạt cà phê sau khi qua máy bóc vỏ được dẫn sang 4 lồng phân loại. Tại lồng phân loại, cà phê xanh, chưa xát vỏ được nằm lại trong lồng, qua máng dẫn đễn phễu róc nước bằng vít tải, sau đó chứa trong xe thu gom, đưa ra sân phơi và được đóng bao thành cà phê loại 2. Cà phê đã được xát vỏ, lọt qua khe hở của lồng phân loại, theo máng dẫn vào máy đánh nhớt, tách hoàn toàn nhót trên từng hạt cà phê, hạt sau khi được đánh nhớt theo vít tải dẫn lên 2 phễu chứa, vào xe thu gom, ra sân phơi. Tại tất cả các máy xáy vỏ, bóc vỏ, lỗng phân loại, máy đánh nhớt đều phải cung cấp nước để máy hoạt động hiệu quả. Cà phê sau chế biến ướt gọi là cà phê thóc. Cà phê thóc sau khi phơi khô (hoặc sấy khô) đạt độ ẩm 12 – 14% thì đem đi xát lớp vỏ cứng bên ngoài, đánh bóng, loại bỏ lớp vỏ lụa sau đó được đóng bao thành cà phê loại 1. Với dây chuyền chế biến cà phê ướt như trên, lượng nước sử dụng để chế biến trung bình khoảng 3 m3/tấn cà phê quả tươi và lượng vỏ cà phê thải ra 400 kg/tấn cà phê quả tươi. Công suất của nhà máy 130 tấn/ngày, vào ngày cao điểm công suất của nhà máy có thể lên đến 150 tấn/ngày. Sản xuất trong thời gian 45 ngày. Lưu lượng nước thải trung bình: 130 tấn/ngày x 3 m3/tấn = 390 m3/ngày. Lưu lượng lước thải lớn nhất: 150 tấn/ngày x 3 m3/tấn = 450 m3/ngày. Khối lượng vỏ cà phê thải trung bình: 130 tấn/ngày x 400kg/tấn = 52000 kg/ngày = 52 tấn/ngày. Khối lượng vỏ cà phê thải lớn nhất: 150 tấn/ngày x 400 kg/tấn = 60000 kg/ngày = 60 tấn/ngày. (Theo số liệu của Công ty cà phê Eapok - 2009) Chương 2: THỐNG KÊ VÀ ĐÁNH GIÁ CÁC NGUỒN THẢI TỪ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT CÀ PHÊ 2.1. Công nghệ chế biến khô Việc chế biến cà phê của các nông hộ (70% diện tích cà phê là của các nông hộ) chủ yếu là chế biến khô. Quá trình này được bà con nông dân đặt máy xát ngay tại các khu dân cư nên không những gây nhiều tiếng ồn, khói, bụi mà còn thải ra môi trường nhiều chất thải rắn khác như vỏ, hạt cà phê vỡ, tạp chất... 2.2. Công nghệ chế biến ướt Quy trình chế biến ướt cần một lượng nước khá lớn để thực hiện các công đoạn như rữa, phân loại quả, xát tươi, đánh nhớt, rửa nhớt... Theo thiết kế kỹ thuật, để sản xuất ra 1 tấn cà phê nhân cần từ 7 đến 10 mét khối nước. Trung bình 3 - 5m3/tấn quả tươi, lưu lượng nước thải khoảng 30 - 200m3/ngày/đêm đối vói các cơ sở vừa và nhỏ; 150 - 600 m3/ngày - đêm đối với các cơ sở lớn. Một cơ sở sản xuất trong thời kỳ cao điểm, lượng nước thải ra lên đến 1.500 đến 2.000 mét khối nước/ngày đêm. Nước thải này trực tiếp thải ra ao hồ, sông suối. Trong nước thải của chế biến cà phê này có cả chất thải rắn, hàm lượng các chất hữu cơ cao (từ các vỏ quả cà phê bị nát, từ lớp nhớt bị máy đánh tan...) nên mức độ gây ô nhiễm lớn cả về mùi và thành phần lý hoá của nước (kể cả nước mặt và nước ngầm). Trong công nghệ này, khoảng 4,5 kg cà phê tươi, sẽ cho 1,28 kg cà phê thóc khô, còn lại là vỏ và bả cà phê. Theo Sở Tài nguyên - Môi trường tỉnh Đắc Lắc 2.3. Chất thải trong nhà máy sản xuất cà phê 2.3.1. Ô nhiễm của nước thải a. Nước thải chế biến Nước thải sản xuất: quá trình sản xuất của nhà máy tiêu thụ 3 m3 nước/tấn nguyên liệu. Lưu lượng nước thải trung bình: 130 tấn/ngày x 3 m3/tấn = 390 m3/ngày Lưu lượng lước thải lớn nhất: 150 tấn/ngày x 3 m3/tấn = 450 m3/ngày (Theo số liệu của Công ty cà phê Eapok - 2009) Nguồn gốc nước thải chế biến cà phê nhân của công ty xuất phát từ các công đoạn sau: Rửa thô: Đây là giai đoạn nước thải sinh ra có thành phần chủ yếu là chất rắn lơ lửng, các chất ô nhiễm không cao. Nước thải trong giai đoạn này không đáng kể. Xay vỏ: Trong giai đoạn này nước thải sinh ra ít nhưng có thành phần rất đậm đặc, có độ đục và lượng cặn cao, cụ thể COD = 32.894 mg/l, BOD = 19.463 mg/l, SS = 1.720, pH ở mức thấp. COD vượt gấp 411 lần cho phép so với tiêu chuẩn cho phép (TCVN 5945:2005, loại B), BOD vượt gấp 389 lần cho phép so với tiêu chuẩn cho phép, SS vượt gấp 17 lần cho phép so với tiêu chuẩn. Nồng độ ô nhiễm của nước thải cao là do nước thải chứa nhiều chất bẩn bám dính hạt cà phê (cát, đất, bụi, …), các hạt cà phê xanh còn sót lại, xác vỏ cà phê, hạt cà phê bị nát trong quá trình xay.. Ngoài ra, giai đoạn này còn thải ra lượng vỏ lớn làm cho nước thải có lượng rác rất đáng kể. – Theo số liệu của Công ty môi trường Ngọc Lân. Đánh nhớt, rửa sạch: Đây là giai đoạn phát sinh nước thải đáng chú ý nhất của quy trình chế biến. Nước thải phát sinh từ giai đoạn này có thành phần hữu cơ cao, ngoài ra còn có độ nhớt lớn. Phần nhớt là phần chất nhầy bọc quanh hạt cà phê. Thành phần chủ yếu của nó là prôtêin, đường và péctin. Phần nhớt rất khó bị phân huỷ. Trong nước thải cà phê phần nhớt này thường kết tủa thành một lớp đen trên bề mặt. Tác nhân gây ô nhiễm nữa là đường sinh từ nhớt hoặc phần ngoài của quả cà phê. Trong quá trình lên men, đường bị phân huỷ thành rượu và khí các-bô-níc. Sau đó,rượu được biến thành axít axêtíc, và vì thế mà độ pH của nước bị giảm. Độ pH của nước thải cà phê thường ở khoảng 3,8. Nước thải giai đoạn này có thành phần hữu cơ tương đối cao. Có nồng độ chất ô nhiễm cũng khá cao, cụ thể COD = 10.447 mg/l, BOD = 7.825 mg/l, SS = 2.753, pH ở mức thấp. COD vượt gấp 130 lần cho phép so với tiêu chuẩn cho phép (TCVN 5945:2005, loại B), BOD vượt gấp 157 lần cho phép so với tiêu chuẩn cho phép, SS vượt gấp 28 lần cho phép so với tiêu chuẩn. Nồng độ ô nhiễm của nước thải cao là do nước thải chứa nhiều thịt quả cà phê bị tan rã từ quá trình ngâm enzym. – Theo số liệu của Công ty môi trường Ngọc Lân. Hương liệu tự nhiên: Đây là các hoá chất tạo màu đỏ cho quả cà phê. Chúng không có hại đến sức khoẻ hay môi trường, nhưng chúng làm nước thải cà phê có màu xanh đậm hoặc đen, làm mất cảnh quan môi trường. Bảng 2.3.1. Thành phần nước thải chế biến cà phê công ty cà phê Eapok – 2009 STT Chỉ tiêu Nước thải sản xuất Nguồn loại B QCVN 24 - 2009 1 pH 4 5,5 – 9 2 TDS (mg/l) 712 100 3 BOD (mg/l) 8900 50 4 COD (mg/l) 11200 100 5 Ntổng (mg/l) 174 30 6 P (mg/l) 5,0 6 7 Coliform 106 5000 8 Độ màu (Pt-Co) 10.000 70 b. Nước thải vệ sinh: phát sinh từ công đoạn vệ sinh các thiết bị chế biến. c. Nước thải sinh hoạt Nước thải sinh hoạt thải khu vực văn phòng, từ các khu vệ sinh, v.v… có chứa các thành phần cặn bã (TSS), các chất hữu cơ (BOD/COD), chất chất dinh dưỡng (N,P) và vi sinh gây bệnh. Trong thời vụ thu hoạch, số lượng cán bộ công nhân viên của xưởng chế biến là 40 người, ước tính mỗi người thải 100 l/người.ngày. Tổng lượng nước thải sinh hoạt phát sinh: 40người x 100 l/người.ngày = 4000 l/ngày = 4 m3/ngđ (Theo số liệu của Công ty cà phê Eapok - 2009) 2.3.2.Ô  nhiễm do khí thải Khí thải sinh ra do hoạt động của các máy sấy (máy sấy chỉ sử dụng trong điều kiện thời tiết xấu) và các loại phương tiện như xe xúc, xe vận chuyển. Bảng 2.5 Chất lượng không khí trong khu vực sản xuất Chất ô nhiễm Đơn vị Kết quả Bụi mg/m3 176 SO2 mg/m3 89,5 - 210,5(*) NOx mg/m3 89,5 CO mg/m3 1,8 Aldehyde mg/m3 2,8 Nguồn: Công ty cà phê Eapok, 2009. (*) : hàm lượng SO2 tính theo hai hai loại dầu trong bảng - NO2 (0,4%S): 89,5 mg/m3 - NO4 (1,5%S): 210,5 mg/m3 2.3.3. Chất thải rắn a. Rác thải sinh hoạt Rác thải từ sinh hoạt của cán bộ, công nhân viên và công nhân vận hành thải ra mỗi ngày rác thải có hàm lượng hữu cơ cao, dễ phân hủy như thức ăn thừa, các loại rác thải từ việc sinh hoạt khác như: bao nilông, thùng carton. Trong thời vụ thu hoạch, số lượng cán bộ công nhân viên của xưởng chế biến là 40 người, ước tính mỗi người thải khoảng 0,2 kg/người.ngày. Tổng lượng chất thải rắn sinh họat phát sinh: 40 người x 0,2 kg/người.ngày = 8 kg/ngày. (Theo số liệu của Công ty cà phê Eapok - 2009) Lượng rác này sẽ được thu gom trong các thùng ra, sau đó giao cho đơn vị dịch vụ công cộng địa phương xử lý hoặc đốt bỏ. b. Chất thải rắn từ hoạt động chế biến Chất thải rắn từ hoạt động chế biến chủ yếu là vỏ cà phê, bả cà phê, bao bì chứa nguyên liệu, cành, que còn sót khi thu hoạch. Vỏ cà phê: Khối lượng vỏ cà phê thải trung bình: 130 tấn/ngày x 400kg/tấn = 52000 kg/ngày = 52 tấn/ngày Khối lượng vỏ cà phê thải lớn nhất: 150 tấn/ngày x 400 kg/tấn = 60000 kg/ngày = 60 tấn/ngày (Theo số liệu của Công ty cà phê Eapok - 2009) Như vậy khối lượng vỏ cà phê thải ra là rất lớn. Thành phần chủ yếu của lớp vỏ quả là nước, gluxit và protein, các chất này không tham gia vào quá trình hình thành chất lượng sản phẩm mà còn gây khó khăn như thối rữa, làm kéo dài thời gian phơi sấy. Do đó vỏ quả cần phải loại bỏ. Ngoài ra, lớp vỏ thịt, thành phần chủ yếu là pectin, cũng không có lợi cho các quá trình chế biến tiếp theo nên cũng cần phải loại bỏ. Thịt quả cà phê thu được trong quá trình chế biến cà phê chiếm 40% trọng lượng toàn bộ quả cà phê. Thịt quả cà phê có độ ẩm cao (80- 85%), giàu hydratcacbon, protein các vitamin, và các nguyên tố khoáng nên rất thuận lợi cho sự phát triển của vi sinh vật. Chính vì vậy phế phụ phẩm này là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường ở những nơi không có biện pháp xử lý. Bên cạnh đó, thịt quả cà phê còn chứa một số chất kháng dinh dưỡng như tannin và caffein đã làm hạn chế việc sử dụng nó làm thức ăn chăn nuôi. c. Chất thải nguy hại Giẻ lau nhiễm dầu, dầu thải, ắc-quy thải, … các chất này được gom lại cho dịch vụ cộng đồng xử lý. Chương 3: BIỆN PHÁP XỬ LÝ VÀ TÁI SỬ DỤNG CHẤT HỮU CƠ TỪ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT 3.1. Khối lượng, độ ẩm, công thức của hổn hợp chất thải Khối lượng vỏ cà phê phát sinh: Mvỏ = 130 tấn/ngày × 0,4 tấn vỏ/tấn nguyên liệu = 52 tấn vỏ/ngày Lượng vỏ cà phê sau quá trình sản xuất có độ ẩm W1 = 55% Khối lượng nước trong vỏ cà phê phát sinh sau quá trình sản xuất: Mnước = 52 × 0,55 = 28,6 tấn/ngày Khối lượng thực vỏ cà phê khô sau quá trình sản xuất thải ra: Mkhô = 52 – 28,6 = 23,4 tấn/ngày Lượng nước thải phát sinh trong quá trình sản xuất V = 130 tấn/ngày × 3 m3/tấn nguyên liệu = 390 m3/ngày Khối lượng nước phát sinh: Mnước = V.D = 390 m3/ngày (D = 1000 kg/m3) 3.2. Các phương pháp xử lý chất thải trong nhà máy chế biến cà phê 3.2.1. Phương pháp 1: rác thải và nước thải xử lý riêng a. Rác thải Bảng 3.3.1.1: Hàm lượng các chất dinh dưỡng trong nhân và trong vỏ cà phê Nguồn: Công ty TNHH Sinh Học Tâm Nông Việt Vỏ cà phê - Là nguyên liệu tốt để có thể lên men, sản xuất rượu vang hoặc cồn: vỏ cà phê tươi 15kg, 1kg nho chín (tận dụng nguồn nấm men tự nhiên ở vỏ trái nho) và 1kg đường. Trải từng lớp vỏ cà phê 5cm, một ít nho, đường khoảng 1cm vào bình ủ cho đến hết, sau đó cho vào bình và đậy kín nắp lại, để ở nhiệt độ 25ºC khoảng 6-10 tuần là có thể chiết lấy rượu. Sau khoảng 45 ngày lên men, loại rượu thành phẩm này mùi thơm cay, vị ngọt nhẹ, nếu để lâu hơn sẽ có chất lượng tốt hơn. Hơn tám tháng chế biến, những chai rượu vang được kiểm nghiệm cho kết quả ngoài sự mong đợi với các chỉ tiêu chất lượng: màu vàng sẫm, hơi đục, thơm dịu không còn mùi nồng của vỏ cà phê, cụ thể độ chua 4,1, độ rượu 11,3%, đường khử 2,0g/lít, chất khô 28g/lít, khoáng 3,4g/lít. Theo “Nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học trong xử lý phế thải chế biến ướt cà phê” của Phan Thị Thanh Hoài, Đặng Ngọc Huê, Nguyễn Nữ Quỳnh Giang, Ngô Nữ Quỳnh Như và Nguyễn Bá Dũng (ĐH Tây Nguyên). - Sản xuất phân hữu cơ vi sinh: Nguyên liệu: Vỏ quả cà phê 1.000kg (4 m3); phân chuồng 100kg (tùy khả năng từng nông hộ bà con có thể trộn toàn bộ lượng phân chuồng có); phân urê  07kg; phân lân 25kg; Rỉ đường (đường đen) 02kg; vôi 25kg; chế phẩm men vi sinh 02kg. Toàn bộ kinh phí đầu tư cho 1.000kg (4m3) là 581.000 đồng. Các bước tiến hành như sau: Hoạt hoá men: Tiến hành hoạt hóa men vi sinh bằng cách cho 02kg chế phẩm vi sinh vào 200 lít nước, bổ sung 02 lít rỉ đường hoặc 02 kg đường đen, khuấy đều cho tan trước khi tiến hành ủ từ 3 – 5 giờ. Sau đó tưới dung dịch đã được hoạt hóa vào đống ủ. Phối trộn nguyên liệu và ủ: vỏ cà phê được tưới nước bảo đảm đủ ẩm từ 50 – 60 % (lấy một nắm bóp chặt thấy rỉ nước ra kẽ tay là được) cho toàn bộ khối ủ và trộn đều với phân chuồng, phân lân, phân urê (đảo như trộn bê tông cho đều) và rải từng lớp vỏ đã trộn như trên dầy 15 - 20cm tưới dung dịch đã được hoạt hóa đều lên bề mặt, tiếp tục rải lớp vỏ khác và tưới dung dịch hoạt hóa cho đến hết khối lượng vỏ cần ủ. Tiến hành lên luống cao 1,3 – 1,5 m, bề rộng luống từ 2,3 – 3 m, chiều dài đống ủ tùy thuộc vào khối lượng nguyên liệu. Dùng bạt hay rơm rạ tủ đống ủ để giữ ẩm và giữ nhiệt cho đống ủ. Thường xuyên kiểm tra độ ẩm đống ủ sau 25 – 30 ngày tiến hành đảo trộn đống ủ và tưới  nước bổ sung nếu đống ủ thiếu ẩm (độ ẩm 50 – 60 %). Sau ủ 03 tháng vỏ cà phê đã hoai mục toàn bộ khối vỏ chuyển mầu đen vo trên đầu ngón tay nhuyễn như mùn là có thể sử dụng để bón cho cây trồng. Qua thực tế nghiên cứu các nhà khoa học đã xác định hàm lượng chất dinh dưỡng trong sản phẩm ủ từ vỏ cà phê như sau: STT Chỉ tiêu Phân hữu cơ sinh học chế biến từ vỏ cà phê Phân chuồng lại tốt 01 pH 8,22 7,60 02 Hữu cơ (%) 28,07 32,45 03 N (%) 1,95 1,54 04 P2O5 (%) 0,84 0,89 05 K2O (%) 4,09 1,23 06 Ca2+ 36,82 36,60 07 Mg2+ 26,72 22,37 Theo Trung Tâm Nông Nghiệp Di Linh Bã cà phê: sản xuất khí sinh học, enzym, phân bón, thức ăn gia súc và là giá thể tốt để trồng một số loại nấm như Shiitake, Pleurotus, Ganoderma lucidum. - Làm phân bón: Khi đã được chế biến để làm phân bón, bã cà phê chứa rất nhiều dinh dưỡng: 0.5% là nitơ, 0.15% là phốtpho, và 0.5% là kali – vì thế nó rất phù hợp cho việc dùng làm phân bón hữu cơ. - Trồng nấm: Bã cà phê có thể được dùng để trồng nấm. Sau 2 ngày lên men, phần bã này được tiệt trùng, ép nước và phơi khô, sau đấy trộn với bào tử nấm và cho vào các bao ni-lông. Sau 3 – 4 tuần, nấm mọc và cho thu hái. - Thức ăn gia súc, gia cầm: Bã cà phê chứa nhiều dinh dưỡng nên nó có thể được phơi khô để dùng làm thức ăn chăn nuôi. - Tạo ra nguồn nhiên liệu sinh học mới: Bã cà phê có thể mang lại một nguồn nhiên liệu sinh học rẻ, dồi dào và thân thiện với môi trường. Bã cà phê chứa từ 11 đến 20 phần trăm dầu, bằng nguyên liệu sản xuất dầu sinh học truyền thống như hạt cải dầu, cây dầu cọ, và đậu tương. Bã cà phê đã sử dụng còn lại từ sản xuất cà phê thường được đổ đi hay được dùng để điều hoà đất. Tuy nhiên các nhà khoa học ước tính bã cà phê có thể thêm vào 1285,2 triệu lít dầu diesel sinh học cho nguồn cung dầu của thế giới. Để xác minh lại điều này, các nhà khoa học đã thu thập bã cà phê từ một dây chuyền sản xuất cà phê đa quốc gia và tách dầu. Sau đó, họ sử dụng một quy trình rẻ tiền để chuyển 100

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docnội dung.doc
  • docBia 1.doc