Đề tài AFTA

ASEAN là một trong những khu vực có nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ nhanh nhất thế giới (tốc độ tăng trưởng kinh tế của ASEAN giai đoạn 1981-1991 là 5,4%; gần gấp hai lần tốc độ tăng trưởng trung bình của thế giới). Tuy vậy, trước khi AFTA ra đời, những nỗ lực hợp tác kinh tế của ASEAN đều không đạt được mục tiêu mong muốn. ASEAN đã có các kế hoạch hợp tác kinh tế như: - Thoả thuận thương mại ưu đãi (PTA). - Các dự án công nghiệp ASEAN (AIP). - Kế hoạch hỗ trợ công nghiệp ASEAN (AIC) và Kế hoạch hỗ trợ sản xuất công nghiệp cùng nhãn mác (BBC). - Liên doanh công nghiệp ASEAN (AIJV). Các kế hoạch hợp tác kinh tế kể trên chỉ tác động đến một phần nhỏ trong nội bộ thương mại ASEAN và không đủ khả năng ảnh hưỏng đến đầu tư trong khối. Do đó, AFTA được ra đời.

doc22 trang | Chia sẻ: superlens | Lượt xem: 5386 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài AFTA, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH THÁI NGUYÊN BÀI THẢO LUẬN Đề tài: AFTA Môn: KINH TẾ QUỐC TẾ Lớp 04 - Nhóm 09 DANH SÁCH NHÓM NGUYỄN ĐỖ QUYÊN (thuyết trình) NINH MAI THẢO LÂM THU HUYỀN BÀN THỊ THỦY LÊ THỊ LÂN VŨ TIẾN NAM LỜI MỞ ĐẦU ASEAN là một trong những khu vực có nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ nhanh nhất thế giới (tốc độ tăng trưởng kinh tế của ASEAN giai đoạn 1981-1991 là 5,4%; gần gấp hai lần tốc độ tăng trưởng trung bình của thế giới). Tuy vậy, trước khi AFTA ra đời, những nỗ lực hợp tác kinh tế của ASEAN đều không đạt được mục tiêu mong muốn. ASEAN đã có các kế hoạch hợp tác kinh tế như: Thoả thuận thương mại ưu đãi (PTA). Các dự án công nghiệp ASEAN (AIP). Kế hoạch hỗ trợ công nghiệp ASEAN (AIC) và Kế hoạch hỗ trợ sản xuất công nghiệp cùng nhãn mác (BBC). Liên doanh công nghiệp ASEAN (AIJV). Các kế hoạch hợp tác kinh tế kể trên chỉ tác động đến một phần nhỏ trong nội bộ thương mại ASEAN và không đủ khả năng ảnh hưỏng đến đầu tư trong khối. Do đó, AFTA được ra đời. PHẦN I: GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ AFTA I. Quá trình hình thành và phát triển AFTA AFTA là tên viết tắt tiếng Anh của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (ASEAN Free Trade Area), là một hiệp định thương mại tự do đa phương giữa các quốc gia trong khối ASEAN. Theo đó sẽ giảm dần thu thuế quan xuống còn 0 - 5%. Loại bỏ hàng rào thuế quan đa phần với các nhóm hàng và thủ tục hải quan giữa các quốc gia. Vào đầu những năm 90, khi chiến tranh lạnh kết thúc, những thay đổi trong môi trường chính trị, kinh tế quốc tế và khu vực đã đặt kinh tế các nước ASEAN trước nhứng thách thức to lớn không dễ dàng vượt qua nếu không có sự liên kết chặt chẽ và nỗ lực vủa toàn hiệp hội, những thách thức đó là: Quá trình toàn cầu hoá kinh tế thế giới diễn ra nhanh chóng và mạnh mẽ, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại, chủ nghĩa bảo hộ truyền thống trong ASEAN ngày càng mất đi sự ủng hộ của các nhà hoạch định chính sách trong nước cũng như quốc tế. Sự hình thành và phát triển các tổ chức hợp tác khu vực mới đặc biệt như khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ NAFTA và khu vực mậu dịch tự do Châu Âu EU sẽ trở thành các khối thương mại khép kín, gây trở ngại cho hàng hoá ASEAN khi thâm nhập vào những thị trường này. Những thay đổi về chính sách như mở cửa, khuyến khích và dành ưu đãi rộng rãi cho các nhà đầu tư nước ngoài, cùng với những lợi thế so sánh về tài nguyên thiên nhiên và nguồn nhân lực của các nước Trung Quốc, Nga và các nước Đông Âu đã trở thành những thị trường đầu tư hấp dẫn hơn ASEAN, đòi hỏi ASEAN phải nâng cao hơn nữa tầm hợp tác khu vực. Để đối phó với những thách thức trên, năm 1992, theo sáng kiến của Thái Lan, Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN họp tại Singapore đã quyết định thành lập Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (gọi tắt là AFTA). Sáng kiến thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) do thủ tướng Thái Lan đưa ra vào năm 1991, sau đó được thủ tướng Singapore ủng hộ. Tháng 7/1991, Hội nghị Ngoại Trưởng ASEAN tại Kualalumpur (Malaysia) đã hoan nghênh sáng kiến này mặc dù có nhiều nước còn tỏ ra dè dặt. Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN lần thứ 23 tháng 10/1991 đã nhất trí thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN và Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ IV tháng 1/1992 họp tại Singapore quyết định thành lập AFTA. Ban đầu chỉ có sáu nước là Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan. Sau đó, từ năm 1995 đến 1998, ASEAN kết nạp thêm 4 nước thành viên mới là Việt Nam, Lào, Campuchia và Myanmar. II. Mục tiêu chính của AFTA Việc thành lập AFTA năm 1992 là một mốc quan trọng trong lịch sử tự do hóa thương mại nội bộ ASEAN, đánh dấu sự phát triển về chất trong hợp tác thương mại khu vực. Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ IV tháng 1/1992 họp tại Singapore quyết định thành lập AFTA với 3 mục tiêu cơ bản sau: Tự do hóa thương mại ASEAN bằng việc loại bỏ các hàng rào thuế quan trong nội bộ khu vực và cuối cùng là các rào cản phi thuế quan. Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc đưa ra một khối thị trường thống nhất. Đây là mục tiêu trung tâm của việc thành lập AFTA, AFTA tạo ra một nền tảng sản xuất thống nhất trong ASEAN, điều đó cho phép hợp lý hóa sản xuất, chuyên môn hóa trong nội bộ khu vực và khai thác các thế mạnh của các nền kinh tế thành viên khác nhau. Làm cho ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đang thay đổi, đặc biệt là trong sự phát triển của xu thế tự do hóa thương mại. Với AFTA, các nước ASEAN hy vọng rằng sẽ nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, mở rộng thị trường ngay trong nội bộ tổ chức ASEAN bằng cách giảm thiểu hàng rào thuế quan và phi thuế quan trong quan hệ mậu dịch giữa các nước thành viên với nhau. Nhưng quan trọng hơn hết là tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi để thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài và làm cho kinh tế ASEAN có thể thích nghi được với điều kiện kinh tế quốc tế đang thay đổi theo hướng gia tăng quá trình tự do hóa. Tuy nhiên, AFTA mới chỉ là nấc thang đầu tiên trong tiến trình khu vực hóa. Với sức ép của các hợp tác kinh tế khu vực và các tổ chức thương mại quốc tế khác, AFTA buộc phải đẩy nhanh tốc độ thực hiện và không chỉ dừng lại ở một liên minh thuế quan hay một khu vực mậu dịch tự do mà trong tương lai sẽ tiếp tục tiến tới những tầm cao mới như thị trường chung, liên minh kinh tế. III. Nội dung cơ bản của AFTA 1. Hiệp định CEPT và các quy định chung của CEPT Để thực hiện thành công Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN, các nước ASEAN - cũng trong năm 1992, đã ký Hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (Common Effective Preferential Tariff), gọi tắt là CEPT. CEPT là một thoả thuận chung giữa các nước thành viên ASEAN về giảm thuế quan trong nội bộ ASEAN xuống còn từ 0 - 5%, đồng thời loại bỏ tất cả các hạn chế về định lượng và các hàng rào phi thuế quan trong vòng 10 năm, bắt đầu từ 1/1/1993 và hoàn thành vào 1/1/2003 (đây là thời hạn đã có sự đẩy nhanh so với thời hạn ký Hiệp định ban đầu: từ 15 năm xuống còn 10 năm). Nói đến vấn đề xây dựng Khu vực mậu dịch tự do ASEAN là nói tới việc thực hiện Hiệp định chung về thuế quan và phải hoàn thành 3 vấn đề chủ yếu, không tách rời dưới đây : Thứ nhất là vấn đề giảm thuế quan: Mục tiêu cuối cùng của AFTA là giảm thuế quan xuống 0 - 5%, theo từng thời điểm đối với các nước cũ và các nước mới, nhưng thời hạn tối đa là trong vòng 10 năm. Thứ hai là vấn đề loại bỏ hàng rào phi thuế quan (NTB): hạn ngạch, cấp giấy phép, kiểm soát hành chính và hàng rào kỹ thuật (kiểm dịch, vệ sinh dịch tễ). Thứ ba là hài hoà các thủ tục hải quan. 2. Các Nội dung và Quy định cụ thể Vấn đề về thuế quan Các bước thực hiện như sau: Bước 1: Các nước lập 4 loại Danh mục sản phẩm hàng hoá trong biểu thuế quan của mình để xác định các sản phẩm hàng hoá thuộc đối tượng thực hiện CEPT: Danh mục các sản phẩm giảm thuế ngay (IL). Danh mục các sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế (TEL). Danh mục các sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm (SEL). Danh mục các sản phẩm loại trừ hoàn toàn (GEL). Trong 4 loại Danh mục nói trên thì : Danh mục các sản phẩm loại trừ hoàn toàn (GEL): Là những sản phẩm không phải thực hiện các nghĩa vụ theo Hiệp định CEPT, tức là không phải cắt giảm thuế, loại bỏ hàng rào phi thuế quan. Các sản phẩm trong danh mục này phải là những sản phẩm ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, cuộc sống, sức khoẻ con người, động thực vật, đến việc bảo tồn các giá trị văn hoá nghệ thuật, di tích lịch sử, khảo cổ...( theo điều 9B Hiệp định CEPT). Danh mục các sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm và nhạy cảm cao (SEL): Là những sản phẩm được thực hiện theo một lịch trình giảm thuế và thời hạn riêng, các nước ký một Nghị định thư xác định việc thức hiện cắt giảm thuế cho các sản phẩm này, cụ thể thời hạn bắt đầu cắt giảm là từ 1/1/2001 kết thúc 1/1/2010, mức thuế giảm xuống 0 - 5%, nghĩa là kéo dài thời hạn hơn các sản phẩm phải thực hiện nghĩa vụ theo CEPT. Danh mục sản phẩm cắt giảm thuế ngay ( IL) và Danh mục sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế (TEL): Là 2 Danh mục mà sản phẩm trong những Danh mục này phải thực hiện các nghĩa vụ CEPT, tức là phải cắt giảm thuế và loại bỏ hàng rào phi thuế quan. Tuy nhiên tiến độ có khác nhau. Sản phẩm hàng hoá trong 2 Danh mục này là những sản phẩm công nghiệp chế tạo, nguyên nhiên vật liệu, sản phẩm nông nghiệp... nghĩa là tất cả những sản phẩm hàng hoá được giao dịch thương mại bình thường trừ những sản phẩm hàng hoá được xác định trong 2 Danh mục (SEL) và (GEL) nêu trên. Bước 2: Xây dựng lộ trình tổng thể cắt giảm thuế 10 năm (toàn bộ thời gian thực hiện Hiệp định): Việc thực hiện Hiệp định chính là các nước thành viên phải xây dựng lộ trình tổng thể cho việc cắt giảm thuế đối với 2 Danh mục sản phẩm cắt giảm thuế ngay (IL) và Danh mục tạm thời chưa giảm thuế (TEL). Các nguyên tắc xây dựng lộ trình giảm thuế tổng thể như sau: - Danh mục các sản phẩm giảm thuế ngay (Inclusion List - IL): Các sản phẩm nằm trong danh mục này được cắt giảm thuế quan ngay tại thời điểm bắt đầu thực hiện cho đến thời hạn kết thúc, tiến trình cắt giảm như sau : + Các sản phẩm có thuế suất trên 20% (> 20%) sẽ được giảm xuống 20% trong vòng 5 năm đầu và tiếp tục giảm xuống còn 0 - 5% trong 5 năm còn lại. Cụ thể: Các sản phẩm có thuế suất trên 20% sẽ được giảm xuống 20% vào 1/1/1998, và tiếp tục giảm xuống còn 0 - 5% vào 1/1/2003. + Các sản phẩm có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% sẽ được giảm xuống còn 0 - 5% trong vòng 7 năm đầu. Cụ thể: Các sản phẩm có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% được giảm xuống còn 0 - 5% vào 1/1/2000. Các nước có quyền được quyết định mức cắt giảm nhưng tối thiểu mỗi năm 5 %, không được duy trì cùng thuế suất trong 3 năm liền, trong trường hợp thuế MFN thay đổi tại một thời điểm nào đó nếu cao hơn thuế suất CEPT tại thời điểm đó thì không được nâng thuế CEPT bằng mức thuế MFN đó; trường hợp thuế MFN thấp hơn thuế CEPT thì việc áp dụng phải tự động theo thuế suất MFN đó và phải điều chỉnh lịch trình. Không được nâng mức thuế CEPT của năm sau lên cao hơn năm trước. - Danh mục các sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế (TEL): Để tạo thuận lợi cho các nước thành viên có một thời gian chuẩn bị và chuyển hướng đối với một số sản phẩm tương đối trọng yếu, Hiệp định CEPT cho phép các nước thành viên ASEAN được đưa ra một số sản phẩm tạm thời chưa thực hiện tiến trình cắt giảm thuế quan ngay theo CEPT. Tuy nhiên, Danh mục (TEL) này chỉ mang tính chất tạm thời, các sản phẩm trong Danh mục loại trừ tạm thời sẽ được chuyển toàn bộ sang Danh mục cắt giảm thuế (IL) ngay trong vòng 5 năm, kể từ năm thứ 4 thực hiện Hiệp định tức là từ 1/1/1996 đến 1/1/2000, mỗi năm chuyển 20% số sản phẩm trong Danh mục (TEL) vào Danh mục (IL). Lịch trình cắt giảm thuế của các sản phẩm chuyển từ Danh mục (TEL) sang Danh mục (IL) này như sau: + Đối với những sản phẩm có thuế suất trên 20%, phải giảm dần thuế suất xuống bằng 20% vào thời điểm năm 1998, trường hợp các sản phẩm được chuyển vào đúng hoặc sau thời điểm năm 1998 thì thuế suất lập tức phải bằng hoặc thấp hơn 20%, và tiếp tục giảm xuống còn 0 - 5% vào 1/1/2003 như lịch trình đối với sản phẩm trong Danh mục (IL). + Đối với những sản phẩm có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% sẽ được giảm xuống còn 0 - 5% vào 1/1/2003. Các quy định khác cũng tương tự như đối với Danh mục (IL) nói trên. Ngoài các quy định được nêu trên trong quá trình xây dựng và thực hiện, không được có sự thụt lùi về tiến độ, cũng như không được phép chuyển các mặt hàng từ Danh mục cắt giảm (IL) sang bất kỳ Danh mục nào, không được chuyển các mặt hàng từ Danh mục (TEL) sang Danh mục nhạy cảm (SEL) hay Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL) mà chỉ có sự chuyển từ Danh mục (TEL) sang Danh mục (IL) nói trên, hoặc chuyển từ Danh mục (SEL), (GEL) sang Danh mục (TEL) hoặc (IL). Nếu vi phạm thì nước thành viên phải đàm phán lại với các nước khác và phải có nhân nhượng bồi thường. Bước 3: Ban hành văn bản pháp lý xác định hiệu lực thực hiện việc cắt giảm thuế hàng năm: Trên cơ sở lịch trình cắt giảm tổng thể thuế nêu trên, hàng năm các nước thành viên phải ban hành văn bản pháp lý để công bố hiệu lực thi hành thuế suất CEPT của năm đó. Văn bản này phải được gửi cho Ban Thư ký ASEAN để thông báo cho các nước thành viên. Cơ chế trao đổi nhượng bộ của CEPT: Muốn được hưởng nhượng bộ về thuế quan khi xuất khẩu hàng hoá trong khối, một sản phẩm cần có các điều kiện sau: Sản phẩm đó phải nằm trong Danh mục cắt giảm thuế (IL) của cả nước xuất khẩu và nước nhập khẩu, và phải có mức thuế quan (nhập khẩu) bằng hoặc thấp hơn 20%. Sản phẩm đó phải có chương trình giảm thuế được Hội đồng AFTA thông qua. Sản phẩm đó phải là một sản phẩm của khối ASEAN, tức là phải thoả mãn yêu cầu hàm lượng xuất xứ từ các nước thành viên ASEAN (hàm lượng nội địa) ít nhất là 40%. Vấn đề loại bỏ các hạn chế định lượng (QRs) và các rào cản phi thuế quan khác (NTBs) Để thiết lập được khu vực mậu dịch tự do, việc cắt giảm thuế quan cần phải được tiến hành đồng thời với việc loại bỏ các hàng rào phi thuế quan. Các hàng rào phi thuế quan bao gồm các hạn chế về số lượng (như hạn ngạch, giấy phép,...) và các hàng rào phi thuế quan khác (như các khoản phụ thu, các quy định về tiêu chuẩn chất lượng,...). Các hạn chế về số lượng có thể được xác định một cách dễ dàng và do đó, được quy định loại bỏ ngay đối với các mặt hàng trong Chương trình CEPT được hưởng nhượng bộ từ các nước thành viên khác. Tuy nhiên, đối với các rào cản phi thuế quan khác, việc xác định và loại bỏ phức tạp hơn rất nhiều. Hiệp định CEPT quy định về vấn đề này như sau: - Các nước thành viên sẽ xoá bỏ tất cả các hạn chế về số lượng đối với các sản phẩm trong CEPT trên cơ sở hưởng ưu đãi áp dụng cho sản phẩm đó; cụ thể: những mặt hàng đã được đưa vào Danh mục cắt giảm ngay (IL) sẽ phải bỏ các hạn chế về số lượng. - Các hàng rào phi thuế quan khác sẽ được xoá bỏ dần dần trong vòng 5 năm sau khi sản phẩm được hưởng ưu đãi. - Các hạn chế ngoại hối mà các nước đang áp dụng sẽ được ưu tiên đặc biệt đối với các sản phẩm thuộc CEPT. - Tiến tới thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, công khai chính sách và thừa nhận các chứng nhận chất lượng của nhau. - Trong trường hợp khẩn cấp (số lượng hàng nhập khẩu gia tăng đột ngột gây phương hại đến sản xuất trong nước hoặc đe doạ cán cân thanh toán), các nước có thể áp dụng các biện pháp phòng ngừa để hạn chế hoặc dừng việc nhập khẩu. Vấn đề hợp tác trong lĩnh vực hải quan Thống nhất biểu thuế quan: Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất và xuất nhập khẩu ASEAN tiến hành việc buôn bán trong nội bộ khu vực được dễ dàng và thuận lợi, cũng như các cơ quan hải quan ASEAN dễ dàng trong việc xác định mức thuế cho các mặt hàng một cách thống nhất, ngoài ra phục vụ cho các mục đích thống kê, phân tích, đánh giá việc thực hiện CEPT - AFTA, cũng như tình hình xuất nhập khẩu nội khối, các nước đã quyết định sẽ thống nhất một biểu thuế quan trong khối ASEAN ở mức 8 chữ số theo Hệ thống điều hoà của Hội đồng hợp tác hải quan thế giới (HS). Biểu thuế quan chung của ASEAN hoàn thành trong năm 2000 và được áp dụng từ năm 2000, những nước nào chậm nhất cũng áp dụng từ năm 2002. Thống nhất hệ thống tính giá hải quan: Vào năm 2000, các nước thành viên ASEAN thực hiện phương pháp xác định trị giá hải quan theo GATT - GTV (GATT Transactions Value), thực hiện điều khoản VII của Hiệp định chung về thương mại và thuế quan 1994 ( Hiện nay là Tổ chức thương mại thế giới WTO) để tính giá hải quan. Một cách tóm tắt là giá trị hàng hoá để tính thuế xuất nhập khẩu là giá trị giao dịch thực tế giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu, không phải là do nhà nước áp đặt. Xây dựng Hệ thống Luồng xanh hải quan: Hệ thống này được thực hiện từ 1/1/1996 nhằm đơn giản hoá hệ thống thủ tục hải quan dành cho các hàng hoá thuộc diện được hưởng ưu đãi theo chương trình CEPT của ASEAN. Thống nhất thủ tục hải quan: Hai vấn đề đã được các nước thành viên ưu tiên trong việc thống nhất thủ tục hải quan. - Mẫu tờ khai hải quan chung cho hàng hoá thuộc diện CEPT: Các nước ASEAN đã gộp ba loại tờ khai hải quan (Giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) Mẫu D, Tờ khai hải quan xuất khẩu và Tờ khai hải quan nhập khẩu) lại thành một mẫu tờ khai hải quan chung cho hàng hoá thuộc diện CEPT. - Thủ tục xuất nhập khẩu chung: bao gồm những vấn đề sau: + Các thủ tục trước khi nộp tờ khai hàng hoá xuất khẩu. + Các thủ tục trước khi nộp tờ khai hàng hoá nhập khẩu. + Các vấn đề về giám định hàng hoá. + Các vấn đề về gửi hàng trong đó giấy chứng nhận xuất xứ được cấp sau và có hiệu lực hồi tố. + Các vấn đề liên quan đến hoàn trả... IV. Những vấn đề đặt ra đối với AFTA Sự ra đời khu mậu dịch tự do ASEAN sẽ đem lại cho các quốc gia thành viên những động lực mới để phát triển. Tuy nhiên tiến trình thực hiện AFTA để đi tới việc cho ra đời khu vực mậu dịch tự do còn rất nhiều khó khăn. - Thứ nhất, với tính chất là một tổ chức hợp tác kinh tế có thể chế, AFTA dường như một dạng của “mô hình phát triển rút ngắn” của liên kết kinh tế khu vực và trên thực tế nó không có những điều kiện chuẩn bị chín muồi về các bước liên kết khu vực như EU, NAFTA Do đó, AFTA hình thành chỉ như một dạng hiệp định khung, có phần hơi giản đơn, nội dung, lịch trình của hiệp định lại chỉ được soạn thảo, sửa đổi, bổ sung đồng thời với tiến trình thực hiện, tổ chức chúng. - Thứ hai, sự mở rộng ASEAN từ ASEAN 6 lên ASEAN 10 đã tạo nên một cấu trúc kinh tế “song tầng” giữa một ASEAN 6 tương đối phát triển và một ASEAN 4 kém phát triển. Cơ cấu “song tầng” khiến cho hợp tác nội bộ ASEAN, trước hết là việc thực hiện điều khoản của AFTA càng trở nên khó khăn hơn. Ngay cả đối với các thành viên sáng lập AFTA, thực hiện AFTA cũng rất khó khăn bởi trước đây họ thực hiện chính sách bảo hộ công nghiệp quá nặng nề. Các quốc gia như Việt Nam, Lào, Campuchia là những nước kém phát triển hơn, lại mới gia nhập vào ASEAN cũng như AFTA nên chắc chắn sẽ không thích ứng ngay được với những chuyển đổi quá nhanh như vậy. Thứ ba, các công ty đa quốc gia bên ngoài ASEAN sẽ chỉ đầu tư trực tiếp nhiều hơn vào những nước có môi trường đầu tư thuận lợi. Do đó, để cho toàn khu vực ASEAN trở nên hấp dẫn đầu tư và phát huy được lợi thế so sánh của tất cả các nước thì các thành viên ASEAN phải có chiến lược sắp xếp cơ cấu sản xuất hợp lí, tham gia vào sự phân công lao động khu vực ASEAN theo hướng chuyên môn hóa, hiện đại hóa, từng bước nâng cao lợi thế để có thể thực hiện cạnh tranh bình đẳng trên cả thị trường thế giới. Vấn đề này còn được quy định trực tiếp bởi hai khía cạnh của AFTA. Một mặt, theo quy định của AFTA, một sản phẩm được coi là có xuất xứ ASEAN nếu 40% hàm lượng giá trị của sản phẩm này có xuất xứ từ một nước ASEAN bất kì nào. Theo đó, việc đầu tư để sản xuất tại một nước nằm bên trong ASEAN và bán sản phẩm cho các nước thuộc AFTA cũng mang lại lợi ích cho các nhà đầu tư nhờ được hưởng các ưu đãi của nó. Vì vậy khi đầu tư vào các nước ASEAN, nhà đầu tư nước ngoài không chỉ xem xét thị trường tiêu thụ của nước đó mà còn tính tới cả thị trường ASEAN. Mặt khác, việc xem xét thị trường ASEAN còn giúp các nhà đầu tư nước ngoài có chiến lược xây dựng các cơ sở của mình ở các nước ASEAN theo một mạng lưới chung nhằm tối ưu hóa việc khai thác các lợi thế so sánh của từng quốc gia và việc sử dụng các nguồn lực theo hướng chuyên môn hóa. Tuy nhiên cũng từ đây nảy sinh ra một vấn đề rất đáng quan tâm là tình trạng thay vì hợp trong đầu tư, nguy cơ cạnh tranh về thu hút đầu tư nước ngoài của ASEAN càng quyết liệt và chậm lại tiến trình. Thứ tư, thị trường bên trong ASEAN tương đối nhỏ và bản thân sự tăng trưởng của các nền kinh tế ASEAN lại lệ thuộc đáng kể vào các thị trường Mĩ, Nhật. Do đó, có thể nói rằng, AFTA không phải là một sự lựa chọn để hội nhập thế giới nhưng đó là con đường tốt nhất để cải thiện năng lực cạnh tranh của ASEAN cũng như thúc đẩy thương mại và đầu tư vào ASEAN. Vấn đề rất dễ dàng gây cản trở tiến trình AFTA đó là những quy định tạm thời cho phép các nước ASEAN tiếp tục duy trì bảo hộ thị trường trong nước. AFTA là một quá trình trong đó từng nước được phép có một lịch trình giảm thuế và phi thuế quan cụ thể của mình. Tuy nhiên trên thực tế, tron
Luận văn liên quan